Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ Trương Hán Siêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.01 KB, 16 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ
Trương Hán Siêu
I. MỞ BÀI
Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo
Bia khắc dấu rêu hoen
(Dục Thúy Sơn - Nguyễn Trãi)
Hai câu thơ của Nguyễn Trãi cho người ta thấy những người có tài, kể cả có sự
cách biệt về thời đại vẫn thường có sự đồng cảm, tương liên. Nguyễn Trãi năm trăm
năm trước đến núi Dục Thúy nay là núi Non Nước thuộc tỉnh Ninh Bình, đọc bài thơ
nổi tiếng được khắc trên bia đá của Trương Hán Siêu bồi hồi nhớ người xưa mà cảm
tác thành thơ. Ngày nay, bài thơ của danh sĩ họ Trương vẫn cịn đó cùng tuế nguyệt,
như bằng chứng về tài văn chương của ông. Nhưng Trương Hán Siêu không chỉ được
biết đến với bài thơ khắc trên bia đá.
Trương Hán Siêu là trọng thần làm quan dưới bốn đời vua Trần, là người
cương trực, thẳng thắn, học vấn uyên bác, tri thức sâu rộng, có tài về cả chính trị lẫn
văn chương. Ơng từng là mơn khách của Trần Hưng Đạo, có nhiều đóng góp trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mơng. Ơng được các vua Trần tin cậy và nhân
dân kính trọng, khi mất được truy tặng tước Thái bảo, Thái phó và được thờ tại Văn
Miếu. Sáng tác của ông hiện còn 4 bài thơ và 3 bài văn, trong đó xuất sắc nhất phải
kể đến bài “Phú Sơng Bạch Đằng”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Giới thiệu về sông Bạch Đằng: Sông Bạch Đằng là một danh thắng lịch sử,
đã đi vào lịch sử với những chiến cơng chói lọi. Nhà thơ Chế Lan Viên trong bài thơ
ca ngợi Tổ Quốc đã nhắc đến Bạch Đằng như một dòng sông đẹp nhất:
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sơng đều muốn hóa Bạch Đằng…


(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng)
Dịng sơng ấy đã trở nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều văn nhân, thi sĩ.
Trong thơ văn Trung đại, ta có thể kể đến “Bạch Đằng Giang” của Trần Minh Tông,
"Bạch Đằng Giang" của Nguyễn Sưởng, “Hậu Bạch Đằng Giang Phú” của Nguyễn
Mộng Tuân, hay “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi… Trong “Bạch Đằng giang
phú” Trương Hán Siêu cũng dồn nén những tình cảm sâu nặng vào dịng chảy bất diệt
của con sơng để viết nên bài phú vơ tiền khống hậu trong lịch sử văn học Việt Nam.
- Hoàn cảnh ra đời: Phú sông Bạch Đằng (tên chữ Hán "Bạch Đằng giang
phú") ra đời vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông
thắng lợi. Nhiều ghi chép cho rằng, đây là thời điểm nhà Trần có dấu hiệu suy thối.
Có lẽ, Trương Hán Siêu đã đến sông Bạch Đằng để hoài niệm về một thời vàng son
của dân tộc nên trong bài phú bên cạnh hình ảnh một khách hải hồ, một kẻ sĩ tha thiết
với đất nước và lịch sử dân tộc là một tâm tư với những nỗi niềm thầm kín.
- Thể phú: Bài phú mang đặc trưng cơ bản của thể phú cổ thể, gồm 4 đoạn mở,
giải thích, bình luận, kết; có hình thức đối đáp quen thuộc giữa nhân vật "khách" với
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

nhân vật "các vị bô lão" và kết thúc bằng thơ. Tuy nhiên, điểm tựa của toàn bộ bài
phú là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật "khách" được bộc lộ xuyên suốt từ lúc đặt
chân tới sông Bạch Đằng cho đến khi lắng nghe được những lời kể đầy hào hùng về
những chiến cơng trên dịng sơng ấy của các vị bơ lão. Vì vậy mà nhiều đánh giá cho
rằng cấu tứ của bài phú giống như một bài thơ hơn là một bài văn tả cảnh, kể việc
thông thường.
2. Đoạn 1: Cảm nhận của khách về cảnh vật sơng Bạch Đằng
"Khách có kẻ:

… Tiếc thay dấu vết luống còn lưu"
2.1. Nhân vật khách và tâm thế, cảm hứng của khách
- Khách là nhân vật quen thuộc trong các bài phú cổ thể. Trong bài “Ngọc tỉnh
liên phú” (bài phú sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi ở thế kỉ XIV cũng có nhân vật
“khách”. Khách chính là tác giả, giúp ơng biểu lộ tấm lịng thanh cao, chí khí, tài
năng và hồi bão của kẻ sĩ ở đời:
“Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng.
Ao trong ngắm làn nước biếc
Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”.
Trong bài phú của Trương Hán Siêu khách là một nhân vật trữ tình xuất hiện
ngay từ đầu tác phẩm. Khách có thể do tác giả tự xưng, cũng có thể là sự phân thân
của chính tác giả, do tác giả hư cấu để tạo tính khách quan cho câu chuyện sẽ kể.
- Tâm thế và cảm hứng của khách được thể hiện:
“Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể trăng mải miết”
Khách xuất hiện trong một không gian khống đạt với gió, trăng và bể cả. Nhịp
điệu tự do linh hoạt, câu ngắn câu dài đan xen thể hiện hình ảnh con thuyền đi trên
sơng, lúc chầm chậm nương theo chiều gió để thưởng ngoạn, lúc thì lướt băng băng
trên sóng đuổi theo ánh trăng mải miết. Khách như một tao nhân mặc khách với bầu
rượu túi thơ, có tâm hồn phóng khống, u thiên nhiên, thích đi đây đi đó để làm
bạn với gió trăng, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, bồi bổ tri thức.
- Bằng thủ pháp nghệ thuật liệt kê, tác giả đã nhắc đến một loạt những địa
danh, những phong cảnh đẹp của Trung Hoa vốn chỉ biết trong sách vở, trở thành các
điển tích, điển cố:
“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết...”
Nào là sơng Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, nào là Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt… đều là những cảnh đẹp mà bao người mơ ước được đặt chân
đến. Sớm thì ở sơng Ngun Tương, chiều đến thăm Vũ Huyệt, đêm thì lướt bể chơi
trăng, khách đã đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, đã đặt chân đến không biết bao nhiêu
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

danh lam thắng cảnh cho thỏa chí tang bồng hồ thỉ, thỏa chí làm trai như Nguyễn
Cơng Trứ từng viết:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ sức vẫy vùng bốn bể
Các địa danh, các điển tích, điển cố nêu trên còn cho thấy khách đã đi du ngoạn
khắp nơi, bằng cả tri thức sách vở, trí tưởng tượng. Việc đi nhiều, biết nhiều có thể là một
cách để tác giả gián tiếp thể hiện sự coi thường danh lợi, lấy lẽ sống nhàn lên trên.
Khách đã đi nhiều đến mức:
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn cịn tha thiết
Nơi nào có bước chân người đi khách đều đã đến, cảnh đẹp trong thiên hạ
trong dạ đã chứa vài trăm nhưng tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết nên khách
học theo thú tiêu dao của Tử Trường (Tư Mã Thiên). Trước đây, nhà sử học lừng
danh Trung Quốc đã đi khắp đất nước để thăm thú cảnh đẹp, nghiên cứu để viết sử và
cho ra đời bộ sử kí bất hủ. Nên học Tử Trường là khách không chỉ muốn thăm thú
cảnh đẹp mà muốn tìm đến các di tích lịch sử để tìm hiểu và thể hiện niềm tự hào về
lịch sử dân tộc. Như vậy, khách đến với sông Bạch Đằng không đơn thuần là một
cuộc dạo chơi thể hiện lòng yêu thiên nhiên mà đến còn để hiểu, để nhớ và tự hào về
lịch sử dân tộc, thể hiện tâm hồn phong phú, thanh cao và tình yêu quê hương, đất

nước tha thiết.
2.2. Cảnh vật sông Bạch Đằng
- Với tâm thế và cảm hứng ấy, khách bng chèo nương theo dịng thủy lưu,
qua các địa danh của nước Việt như cửa Đại Than, bến Đông Triều, giương buồm
qua những vùng sông nước rộng lớn để đến Bạch Đằng. Để rồi sau đó, hiện ra trước
mắt người tao nhân mặc khách là bức tranh cảnh vật Bạch Đằng. Chính bức tranh
cảnh vật ấy khiến bài phú trở nên gần với thơ, giúp ta hiểu rõ quan niệm về thơ của
người xưa "Thi trung hữu họa".
- Đó là một bức tranh thiên nhiên tuyệt sắc, vừa hùng vĩ vừa rất thơ mộng:
Bát ngát sóng kình mn dặm,
Thướt tha đi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
Cảnh vật Bạch Đằng hiện lên tráng lệ, mênh mơng, bát ngát với những con
sóng lớn (sóng kình) nhấp nhơ, lớp lớp cuộn chảy, thuyền bè nối đuôi nhau đi trên
sông. Cảnh sắc thiên nhiên vào tháng thứ ba của mùa thu, tức là vào độ cuối thu.
Không gian nên thơ, bồng bềnh, thướt tha như đuôi chim trĩ với cảnh trời nước một
màu xanh biếc, nối liền một dải (như đuôi con chim trĩ). Ý thơ này, có lẽ đã được
Trương Hán Siêu mượn lại ở câu thơ "Thu thủy cộng thiên trường nhất sắc" (Sông
thu cùng với trời xa một màu) trong bài "Đằng Vương các" của Vương Bột, một nhà
thơ nổi tiếng thời Đường.
- Nhưng cảnh vật không chỉ hùng vĩ, thơ mộng mà còn mang vẻ ảm đạm, hiu
hắt, tang thương:
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

"Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.

Sơng chìm giáo gãy, gị đầy xương khơ"
Các từ láy san sát, đìu hiu và các hình ảnh bờ lau, bến lách, giáo gươm chìm
gãy, gị đầy xương khơ đã miêu tả khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo, núi gò ngổn ngang,
tái hiện khung cảnh chiến trường xưa là chốn tử nạn của quân thù. Khung cảnh ấy
cũng được vua Trần Minh Tông (1288-1356) miêu tả:
Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc
... Trơng thấy nước dịng sơng rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối
Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô"
( Bạch Đằng giang)
Hàng trăm năm sau, khi Ức Trai đến Bạch Đằng cảnh vật vẫn chẳng mấy khác xưa:
Ngạc chặt kình băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng
(Bạch Đằng hải khẩu)
2.3. Tâm trạng của khách
Đến Bạch Đằng sau chiến thắng mấy chục năm, chứng kiến cảnh vật tang
thương, tâm trạng của khách chuyển từ hào hứng trước cảnh vật hùng vĩ, thơ mộng
sang buồn, thương, nuối tiếc. Buồn vì cảnh vật ảm đạm, thê lương. Thương những
người anh hùng lập chiến công vang lừng một thuở, thế mà giờ cảnh vẫn còn đây
người đã đi vào quá khứ. Nỗi thương ấy xuất phát từ lòng biết ơn, trân trọng với những
người anh hùng có cơng lớn, dâng hiến đời mình cho non sơng đất nước. Tiếc nuối vì
thời gian khắc nghiệt đã làm mờ đi dấu tích của chiến thắng oanh liệt. Những tâm trạng
ấy đan xen và trào dâng trong lòng khiến khách đứng lặng giờ lâu, đắm chìm trong thế
giới nội tâm ngổn ngang đầy xúc cảm. Đứng lặng để tưởng nhớ, để hồi niệm, để
tưởng tượng và để nhìn vào tâm tư thầm kín. Sau này, cảnh trí tiêu sơ ấy cũng khiến
Nguyễn Trãi không tránh được những ưu tư cảm khái, gợn lịng hồi cổ:
Việc trước quay đầu ơi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng
(Bạch Đằng Hải Khẩu)
Tiểu kết:
- "Phú sông Bạch Đằng" là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú với bố cục chặt

chẽ, lời văn linh hoạt, cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, hình tượng nghệ thuật sinh động,
vừa gợi hình sắc trực tiếp vừa mang ý nghĩa khái qt, triết lí, ngơn ngữ vừa trang
trọng, hào sảng vừa lắng đọng, gợi cảm.
- Qua đoạn mở đầu của bài phú, tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải
qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ say sưa với cảnh vật Bạch Đằng hùng vĩ,
thơ mộng, tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương, tiếc
nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một. Người đọc cũng qua đó ý thức
về vấn đề bảo vệ và gìn giữ những giá trị lịch sử, khắc ghi công ơn xương máu của
thế hệ cha anh đã ngã xuống bồi đắp nên nền hịa bình độc lập của đất nước Việt Nam
như ngày hôm nay.
3. Đoạn 2: Lời kể của các bô lão về những chiến công trên sông Bạch Đằng
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu
…Tái tạo cơng lao, nghìn xưa ca ngợi
3.1. Hình tượng các bô lão
- Giữa lúc khách rưng rưng bao xúc cảm, đứng lặng giờ lâu trước cảnh vật
Bạch Đằng thì các bô lão xuất hiện. Các bô lão là nhân vật thứ hai trong bài phú,
chính là chủ trong cuộc đối đáp chủ - khách. Cũng có thể các bơ lão là nhân vật có
tính chất hư cấu, được xây dựng nhằm giúp tác giả phân thân giãi bày, thỏa mãn nhu
cầu bộc lộ cảm xúc, đẩy tình cảm đi đến tận cùng và trọn vẹn nhất. Sự xuất hiện và
câu chuyện của của các bô lão khiến bài phú chuyển từ miêu tả và trữ tình sang tự sự,
ngơn ngữ trở nên sống động, biến hoá. Thái độ của các bơ lão với khách rất nhiệt
tình, hiếu khách, tơn kính. Các bô lão là bậc cao niên, vậy mà kẻ gậy lê chống trước,
người thuyền nhẹ bơi sau đều "vái", "thưa", hỏi sở cầu của khách nên có thể nhận

thấy khách là người đáng kính trọng, có nhân cách lớn.
- Sau đó, bơ lão kể cho khách về các chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Việc để
cho các bô lão là người địa phương, hơn nữa có thể là những chứng nhân lịch sử kể
lại chiến thắng làm cho lời kể trong bài phú trở nên khách quan, đáng tin cậy.
3.2. Tái hiện chiến thắng lịch sử
- Sông Bạch Đằng là nơi ghi dấu những chiến công lẫy lừng trong lịch sử dân
tộc. Các bô lão đã nhắc lại những chiến thắng một cách đầy tự hào:
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Những chiến tích lịch sử ấy ln được khắc sâu trong tâm thức của bao nhiêu
thế hệ người Việt Nam và cũng được tác giả Trinh Đường nhắc lại trong bài thơ
“Bạch Đằng tráng khúc” viết năm 1963:
“Bạch Đằng vô tận
trang sức ngàn năm lịch sử quang vinh
Từ Ngô Quyền diệt quân Nam Hán
đến Lê Hồn diệt Tống, Hưng đạo bình Ngun".
- Nếu như đoạn trước để thể hiện tâm trạng, sự hồi niệm, bài phú có những
câu dài, nhịp chậm rãi thì đến đoạn này bằng cách sử dụng nhịp ngắn, nhanh, giọng
điệu hào hùng, dứt khoát, tác giả đã tái hiện, phục chế lại sống động bức tranh chiến
trận từ mấy chục năm trước:
+ Về lực lượng: Vào khi ấy, ta - địch trong thế "Chiến lũy Bắc Nam chống đối"
nhưng về quy mô lực lượng cả hai bên đều hùng hậu, ngang tài ngang sức, đều có khí
thế dũng mãnh, quyết chiến quyết thắng:
Thuyền bè mn đội, tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu qn,giáo gươm sáng chói.
Trên sơng Bạch Đằng là muôn đội thuyền bè của cả ta và địch, cờ chiến trận
bay phấp phới, gươm giáo sắc nhọn, sáng chói. Đội qn nhà Trần đơng đảo với khẩu
hiệu "Sát Thát" xung trận rất hùng dũng, sức mạnh như hổ báo, lấn át cả trời đất vũ trụ.
Nhưng thế giặc cũng rất mạnh, trước khi sang xâm lược nước ta chúng đã xâm lược và
chiếm cả một vùng rộng lớn khắp châu Á và châu Âu. Đội quân thiện chiến của chúng

5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

đi đến đâu thắng đến đấy, đến mức ở thời đó người ta thường nói "Vó ngựa qn
Ngun Mơng đi đến đâu cỏ khơng mọc được đến đó".
+ Thái độ của giặc: Cậy thế mạnh, quân đông bọn giặc coi thường nước Nam
nhỏ bé. Thái độ của chúng rất kiêu căng hống hách, ngạo mạn, khoác lác. Chúng tưởng
sẽ đánh nhanh, thắng nhanh và bách chiến bách thắng:
Những tưởng gieo roi một lần
Quét sạch Nam bang Bốn cõi.
+ Thế trận ác liệt: Nhưng ngồi sự phán đốn của bọn giặc, chiến sự diễn ra
rất ác liệt, thế trận giằng co:
Trận đánh thư hùng chửa phân
Chiến lũy Bắc Nam chống đối.
Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết
phóng đại, khoa trương rất thần tình. Người đọc có thể tưởng tượng cảnh chiến trận
với khói lửa mù trời. Qn ta hị reo vang dậy đốt phá, tấn cơng bọn giặc từ nhiều
phía khiến chúng khơng có đường lui. Bọn giặc khơng thể đối đầu với quân ta bỏ
chạy thì va vào cọc nhọn; thuyền bè, gươm giáo bị nhấn chìm; đầu rơi, máu chảy
nhuộm đỏ dịng sơng… Trận chiến ác liệt đến mức tưởng có thể làm lu mờ cả vầng
nhật nguyệt, trời đất như sắp sụp đổ:
"Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi".
+ Kết quả: Cuối cùng, với sức mạnh nhân nghĩa quân ta đã thắng lớn. Hung đồ
phương Bắc thất bại thảm hại. Sử sách chép lại trong trận chiến này, quân Nguyên
Mông bị thiệt hại vô cùng nặng nề. Khoảng hơn 4 vạn quân giặc bị tiêu diệt, nhiều

tướng giặc trong đó có cả Ơ Mã Nhi, Phạm Nhàn, Phàn Tiếp… bị bắt sống, khoảng
400 chiến thuyền của quân Nguyên bị quân ta thu lại. Trận Bạch Đằng đã đập tan âm
mưu bành trướng sang nước Nam của Hốt Tất Liệt và sách "Danh tướng Việt Nam"
sau này còn ghi rằng: "Nếu dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu khơng bị vó
ngựa qn Mơng - Nguyên chà đạp".
3.3. Đánh giá về chiến thắng:
- Tác giả đã so sánh trận Bạch Đằng với hai trận đánh trong lịch sử Trung
Quốc đã trở thành điển tích trong văn học. Trận thủy chiến sơng Bạch Đằng mang
tầm vóc và quy mơ hồnh tráng, kỳ vĩ khơng khác nào trận Xích Bích, trận Hợp Phì
khiến "qn Tào Tháo tan tác tro bay", "giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi". Nhắc đến
những trận đánh nổi tiếng của những nhân vật lỗi lạc ấy để nhấn mạnh chiến thắng
oanh liệt của ta và sự thất bại nhục nhã của giặc. Dòng sông Bạch Đằng trở thành một
chứng nhân lịch sử:
"Đến nay sơng nước tuy chảy hồi
Mà nhục qn thù khơn rửa nổi
Tái tạo cơng lao, nghìn xưa ca ngợi".
Bạch Đằng trở thành niềm kiêu hãnh của dân tộc, của mỗi người dân đất Việt
nhưng cũng trở thành nỗi ô nhục muôn đời cho giặc phương Bắc. Nên có câu chuyện
lịch sử kể rằng: Khi đi sứ sang Trung Quốc, bị một đại thần nhà Minh khinh nước
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Nam mà ra vế đối đầy thách thức: "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" (Cột đồng đến nay
rêu đã xanh), sứ giả nước Việt là Giang Văn Minh (1573-1637) đã hiên ngang đáp lại
"Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (Sơng Bạch Đằng từ xưa máu cịn đỏ). Nỗi nhục
Bạch Đằng khiến giặc phương Bắc bao đời sau vẫn không chịu nổi nên đã giết chết

sứ giả nước Nam.
- Trong tâm thế ngợi ca, tác giả còn khẳng định chiến thắng của vua tôi nhà
Trần trên sông Bạch Đằng đến nghìn sau vẫn cịn được ca ngợi. Và quả đúng như
vậy, từ chiến thắng của Ngô Quyền đến nay đã hơn một ngàn năm, thi sĩ Thi Sảnh
vẫn viết:
Có lần tôi qua bến Bạch Đằng
Thường ngâm nga đọc phú Bạch Đằng giang
Nhưng hôm nghe em bé hát rong
Tôi nghĩ nhiều về người xưa đóng cọc gỗ
Nếu họ sống lại thì làm sao trả lời họ
Qua sơng Bạch Đằng sao không hát những chiến công
(Đứa bé hát rong trên bến Bạch Đằng)
Khơng chỉ ngàn năm mà có lẽ mãi sau này Bạch Đằng vẫn là niềm tự hào của
mỗi người Việt Nam, là di tích lịch sử trường tồn cùng sông núi nước Việt.
Tiểu kết: Với giọng điệu đầy nhiệt huyết, âm hưởng hào hùng, tác giả đã tái
hiện một cách chân thực, sinh động và đầy hào sảng chiến thắng nơi bãi sơng Bạch
Đằng. Biện pháp phóng đại, so sánh kết hợp với việc sử dụng các điển cố, điển tích tài
tình đã nâng cao thêm tầm vóc chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Qua những hoài niệm về
q khứ, “Phú sơng Bạch Đằng” đã thể hiện lịng yêu nước và niềm tự hào dân tộc,
đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của
dân tộc Việt Nam. Viết sau chiến thắng khoảng năm mươi năm nhưng "Bạch Đằng
giang phú" của Trương Hán Siêu thực sự đã làm sống lại hào khí Đơng A của cả một
thời đại.
4. Đoạn 3: Suy ngẫm, bình luận về chiến thắng
"Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
…Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao"
Học giả Nguyễn Đình Chú rất đúng đắn khi nhận xét "Giá trị của bài phú là ở
chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà cịn làm sáng
chân lý mn đời của dân tộc". Những suy ngẫm, bình luận về chiến thắng của các bô
lão và khách đã thể hiện những chân lí như thế.

4.1. Suy ngẫm, bình luận của các bơ lão về chiến thắng
* Bình luận về nguyên nhân chiến thắng:
Khách đến chơi sông và các bô lão hồi tưởng lại trận chiến là vào khoảng năm
mươi năm sau chiến thắng. Khoảng thời gian ấy đủ để nhìn lại, cắt nghĩa và lí giải vì
sao ta có thể đánh bại được kẻ thù hung hãn nhất thế giới lúc ấy. Phép dùng binh trong
sách cổ phải dựa vào ba yếu tố "Thiên thời, địa lợi, nhân hòa" và theo các bơ lão, ta
chiến thắng cũng bởi có được ba yếu tố ấy. Thời thế thuận lợi (có thiên thời) vì “trời
cũng chiều người”; địa thế núi sơng thuận lợi (có địa lợi) vì “trời đất cho nơi hiểm trở”
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

và con người (nhân hịa) là ta có tướng tài, có qn dân cùng một lịng, quyết chí đánh
giặc:
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thủy: như quốc sĩ họ Hàn.
Ta có sức mạnh chính nghĩa nên trời cho thế đất hiểm trở như Bạch Đằng, Chi
Lăng…, có nhân tài biết dựa vào địa hình sơng núi để đánh giặc. Trong các yếu tố làm
nên chiến thắng, các bô lão đề cao nhân tố con người, coi con người là nhân tố quyết
định. "Cuộc điện an" là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hịa bình, n vui cho đất nước.
Nhân tài là người có tài lớn, thu phục được lịng dân, biết tạo thời thế chứ khơng trơng
chờ vào thời thế. Câu "Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an" khẳng định vai trò của
người tài trong việc bảo vệ nền độc lập, hịa bình cho đất nước, làm cho nhân dân được
yên vui. Điều đó được thể hiện rõ thêm qua việc sử dụng các điển tích, nhắc đến hội

Mạnh Tân phải có nhân tài là vương sư họ Lã, trận Duy Thủy người quyết định chiến
thắng là quốc sĩ họ Hàn.
* Cảm hứng ca ngợi
- Các bơ lão hồi tưởng và bình luận về chiến thắng trong tâm thế ngợi ca. Trước hết
là ca ngợi, khẳng định tầm vóc của chiến thắng Bạch Đằng:
Tái tạo cơng lao, nghìn xưa ca ngợi.
Và đặc biệt ca ngợi cơng lao của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn:
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm đồn mãi, bia miệng khơng mịn.
Trần Hưng Đạo chính là nhân tài giữ cuộc điện an, được so sánh như vương sư họ
Lã và quốc sĩ họ Hàn. Với "Hịch tướng sĩ" Đại vương khơi dậy lòng căm thù giặc sâu
sắc và ý chí quyết chiến quyết thắng với qn thù, đã thu phục được lịng người vì tinh
thần đồng cam cộng khổ "Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng
nhau vui cười"... Mặc dù giặc rất mạnh nhưng nhãn quan của vị tướng tài vẫn nhìn thấy
thế giặc nhàn dễ đánh. Theo các bô lão, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chính là
người góp phần quan trọng làm nên chiến thắng, để lại tiếng thơm đến muôn đời.
* Tâm trạng của các bô lão
Trận chiến năm mươi năm trước lẫy lừng là thế mà nay đã trở thành quá khứ,
người lập chiến cơng oanh liệt một thuở nay đã vắng bóng, chỉ còn lưu lại tiếng thơm.
Đến Bạch Đằng tâm trạng các bô lão không tránh khỏi những xúc cảm bùi ngùi,
thương nhớ:
Đến bên sông hổ mặt,
Nhớ người xưa lệ chan.
* Đoạn ca của các bô lão

8


Chị Đẹp Dạy Văn

SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Kết thúc bài phú mang đặc trưng của phú cổ thể đậm nét. Từ đoạn ca của các
bô lão, bài phú kết lại bằng thơ và điều đáng chú ý là các nhà soạn dịch đã chuyển thể
đoạn ca thành thể lục bát:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to, sóng lớn dồn về bể Đơng.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Trong lời ca của các bơ lão có hình ảnh sơng Bạch Đằng mênh mông, rộng lớn,
hùng vĩ, hiểm trở, nối liền một dải với luồng to sóng lớn cuộn chảy. Đằng sau hình ảnh
ấy là tình yêu, niềm tự hào về cảnh sắc q hương, về dịng sơng lịch sử. Nhưng ý
nghĩa chủ yếu của lời ca là ở chỗ đã mượn quy luật của tự nhiên để khái quát quy luật
của con người, thành chân lý của dân tộc. Quy luật và chân lý ấy là những kẻ bất nghĩa
sẽ tiêu vong, những người anh hùng sẽ được lưu danh muôn đời giống như mọi dịng
sơng đều hướng về biển cả, như sơng Bạch Đằng kia luồng to, sóng lớn vẫn mãi mãi
chảy về biển Đông. Ở đây, phép đối đã được vận dụng rất tài tình để nhấn mạnh quan
niệm về lẽ vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng, phê phán mạnh mẽ kẻ thù xâm
lược và ngợi ca những người anh hùng góp phần làm nên lịch sử dân tộc. Những triết lí
và tư tưởng nhân văn ấy đã tạo nên vẻ đẹp văn chương của "Bạch Đằng giang phú".
4.2. Đoạn ca của khách (Bổ sung thêm cho bình luận của các bơ lão)
- Lời ca của khách đã bổ sung thêm cho những suy ngẫm, bình luận của các bơ
lão về chiến thắng, bàn về lẽ tồn vong của đất nước và khẳng định bài học lịch sử trong
giữ nước:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
- Cũng đề cao nhân tố con người trong lịch sử, khách ca ngợi cao công lao của

các vua Trần. Hai vị "thánh quân" được nhắc đến ở đây là hai vua Trần Thánh Tông và
Trần Nhân Tông, hai ông vua anh minh, sáng suốt đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông lần thứ 2 và lần thứ 3. Theo lời ca của khách thì ta chiến thắng khơng
hẳn vì có địa thế hiểm trở mà chủ yếu bởi vì đức cao của các vị vua Trần:
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Đức cao ấy là lịng u nước thương dân, là xây dựng tinh thần đại đoàn kết dân
tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm họa ngoại xâm. Đức cao ấy đã tạo nên sức mạnh
làm nên chiến thắng: "Vua tơi đồng lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp sức".
- Ca ngợi chiến thắng, ca ngợi hai vị vua Trần, đoạn ca của khách còn là khúc ca
khải hồn ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc sau chiến thắng, thể hiện khát
vọng có những ông vua anh minh, sáng suốt để đất nước được mn thuở thanh bình.
Khát vọng ấy cũng là khát vọng chung của vua tôi nhà Trần đã được Trần Quang Khải
thể hiện trong "Tụng giá hồn kinh sư":
"Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu".
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Đó cũng là khát vọng của mọi thế hệ người Việt Nam, từng được Nguyễn Trãi
nhắc đến trong Bình Ngơ đại cáo:
"Kiền khôn bĩ mà lại thái,
Nhật nguyệt hối mà lại minh.
Mn thuở nền thái bình vững chắc".
Sau này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước cũng thể hiện khát
vọng ấy:
"Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất nước muôn đời".
III. KẾT LUẬN
"Phú sông Bạch Đằng" là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung
đại Việt Nam. Với bố cục, kết cấu chặt chẽ, đặc trưng cho thể phú cổ thể; câu văn,
giọng điệu linh hoạt, khi thì hào sảng, khi thì trĩu nặng tâm tư; bút pháp ước lệ, tượng
trưng kết hợp với lối nói cường điệu, hình tượng nhân vật đặc sắc mang ý nghĩa triết lí;
ngơn ngữ cơ đọng, trong sáng, hào hùng; tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u
hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận... là những thành cơng của Trương Hán
Siêu trong bài phú.
Qua những hoài niệm về quá khứ, bài phú đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự
hào dân tộc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ngợi ca truyền
thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn
thế, bài phú còn chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trị, vị trí
của con người trong lịch sử. Ra đời cách đây gần bảy trăm năm nhưng bài phú đến nay
vẫn còn nguyên giá trị.

LUYỆN ĐỀ
Đề bài 1: Phân tích nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú
- Khái quát chung về nhân vật “khách”: Là hình tượng quan trọng trong bài, là sáng
tạo nghệ thuật của tác giả để gửi gắm tình cảm, cảm xúc, tư tưởng.
II. Thân bài
1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.
- Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp
chủ - khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm,
tư tưởng.
10



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Tâm hồn tự do, phóng khống: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải
miết.
- Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc - Nguyên, Tương,
Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác
giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.
- Có tình u thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào
hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt - Đại Than, Đơng
Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dịng sơng của chiến công lịch sử vẻ vang của dân
tộc.
- Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên
Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày.
Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.
2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.
- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình mn
dặm, đi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu,
hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khơ”.
Tâm trạng của khách:
+ Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng
mà thơ mộng
+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống
+ Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương,
tiếc nuối của khách.
→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của
sông Bạch Đằng
→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử
dân tộc

3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.
- Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu
chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông
Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào
hùng của dân tộc.
- Khách đồng tình với các vị bơ lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng
do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy
cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.
4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.
- Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình
- Ca ngợi dịng sơng Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử
- Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ
- Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc
→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.
- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ
- Ngơn ngữ trang trọng, hàm súc
- Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

III. Kết bài
- Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật khách hội tụ tất cả những phẩm chất trong con người tác giả, giúp người
nghệ sĩ thể hiện cái tôi và những tư tưởng mang tính lịch sử.

Đề bài 2: Phân tích cảm hứng yêu nước trong bài “Phú sông Bạch Đằng” của
Trương Hán Siêu.
1. Mở bài
- Yêu nước là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong dòng chảy của
văn chương dân tộc suốt bao thế kỉ qua. Từ thuở Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt)
cất lên bên bến sông Như Nguyệt đến khí thế của đội quân Sát Thát nhà Trần trong
khúc hùng ca Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ
Lão), trong cái ngút ngàn của binh tướng Lam Sơn trong Bình Ngơ đại cáo (Nguyễn
Trãi), cái rung chuyển của trận đánh thần tốc gắn với người anh hùng áo vải Quang
Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (Ngơ gia văn phái)… Dẫu dừng ở điểm nào
cũng vẫn thấy nguồn cảm hứng ấy cuồn cuộn dâng trào. Và Bạch Đằng giang
phú của Trương Hán Siêu góp vào cho dịng chảy của văn chương u nước một
khúc hùng ca bất diệt. Bài phú càng khẳng định vị trí đỉnh cao nghệ thuật của mình
hơn khi âm hưởng yêu nước hào hùng trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo.
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Phú sông Bạch Đằng là một trong những tác
phẩm nổi bật của Trương Hán Siêu, qua đó, tác giả thể hiện tình yêu nước, cảm hứng
yêu nước qua tình yêu với thiên nhiên, lịch sử và những giá trị tinh thần không bao
giờ mai một trên con sông huyền thoại.
2. Thân bài
2.1. Khái quát về thể loại phú: Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủ
yếu là văn tả cảnh, từ ngoại cảnh liên kết với nội tâm để tả tình.
2.2. Cảm hứng yêu nước biểu hiện đa dạng, phong phú trong văn học:
- Gắn với tư tưởng "Trung quân ái quốc": Yêu nước là yêu vua.
- Là ý thức tự chủ tự cường dân tộc.
- Đó là tình yêu thiên nhiên, phong cảnh quê hương, yêu những nét đẹp văn hóa,
phong tục của dân tộc.
- Cảm hứng này thể hiện rõ nhất khi đất nước có giặc ngoại xâm:
+ Là âm hưởng bi tráng khi nước mất nhà tan.
+ Là lòng căm thù giặc
+ Tinh thần xả thân, hi sinh, quyết chiến quyết thắng với quân thù bảo vệ tổ

quốc. Âm hưởng hào hùng trong những ngày tháng chiến đấu.
+ Ngợi ca những chiến công của thời đại, trân trọng, biết ơn đến những bậc
anh hùng, nghĩa sĩ xả thân vì đất nước.
- Khi đất nước hịa bình cảm hứng yêu nước thể hiện ở giọng điệu tha thiết khi bộc
lộ khát vọng xây dựng đất nước ngàn thu vững bền.
2.3. Cảm hứng yêu nước trong Phú sơng Bạch Đằng: Gọi bài phú là khúc trữ tình
ca và anh hùng ca về đất nước rất phù hợp. Bởi qua đó, tác giả Trương Hán Siêu đã
thổi nguồn cảm hứng yêu nước qua những cảm xúc với thiên nhiên, lịch sử, những
giá trị nhân văn trên sông Bạch Đằng – con sông được coi là người chép sử vô ngôn
cho hậu thế. Biểu hiện cụ thể:
12


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Tình yêu quê hương bộc lộ qua cách miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên trên sông
Bạch Đằng được tác giả khái quát qua vài câu thơ chấm phá, thể hiện nét đẹp vừa
mềm mại, tha thướt, vừa mạnh mẽ, cuộn trào.
- Cảm hứng yêu nước bộc lộ qua niềm tự hào, hồi tưởng, ca ngợi những chiến
cơng vang dội của bậc cha ơng, những kí ức vẻ vang, hào hùng của dân tộc và thất
bại thảm hại của quân thù.
- Ca ngợi, tiếc thương cho những vị anh hùng đã nằm xuống vì tổ quốc, vì độc
lập dân tộc, đồng thời cảm thấy hổ thẹn, bẽ bàng vì hậu thế chưa thể làm được gì
đáng tự hào cho tổ quốc.
- Khát vọng đất nước ngàn thu vững bền "Giặc tan mn thuở thăng bình"
3. Kết bài
- Khái qt giá trị nghệ thuật và nội dung tác phẩm.
Đề bài 3: Nhận xét về bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu có ý kiến

cho rằng: "Qua lời kể và suy ngẫm của các bơ lão đã thể hiện lịng yêu nước, niềm
tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý của nhân
dân ta." Em hãy phân tích hình tượng các bơ lão để làm rõ ý kiến trên
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Dẫn ý kiến
II. Thân bài
1. Giải thích
- Khái niệm yêu nước trong văn học trung đại
- Nhấn mạnh truyền thống và đạo lí của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước, thương
nòi và niềm tự hào dân tộc.
2. Phân tích, chứng minh
2.1. Hình ảnh bơ lão: Có thể là những nhân vật có thật, là các vị cao niên ở hai bên
bờ sơng, cũng có thể là hư cấu, sự phân thân của tác giả để khách quan kể về những
chiến công trên sông Bạch Đằng.
- Thái độ của các bô lão với khách: "vái", "thưa"- hiếu khách, tơn kính khách.
2.2. Lời kể của các bơ lão thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào trước chiến thắng
lẫy lừng của dân tộc.
- Niềm tự hào về dịng sơng lịch sử: Các chiến cơng tiêu biểu: Ngô quyền đánh quân
Nam Hán, Hoằng Tháo thua trận và chết ở sông Bạch Đằng năm 938 và Trùng Hưng
nhị thánh bắt sống Ô Mã năm 1288.
- Ca ngợi, thể hiện niềm tự hào trước chiến thắng:
2.3. Bình luận, suy ngẫm về chiến thắng ca ngợi sức mạnh và đạo lí của dân tộc
- Sức mạnh dân tộc: Bình luận về ngun nhân chiến thắng vì có sức mạnh chính
nghĩa và thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ca ngợi, đề cao nhân tố con người, đặc biệt là
ca ngợi công lao của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
- Đạo lí dân tộc: Mượn quy luật của tự nhiên để khái qt quy luật của con người:
Mọi dịng sơng đều dồn về biển cả, những kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, anh hùng lưu
danh mn đời.
3.. Bình luận ý kiến

13


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Khẳng định ý kiến hồn tồn đúng đắn
- Hình tượng các bơ lão có thể là phân thân của chính tác giả để thể hiện suy nghĩ tình
cảm một cách sâu sắc, tự nhiên.
III. Kết bài
- Đánh giá chung về nghệ thuật và nội dung
- Nêu cảm nghĩ
Đề bài 4: Về bài "Phú sông Bạch Đắng, học giả Nguyễn Đình Chú khi nhận xét
"Giá trị của bài phú là ở chỗ khơng chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận
Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc".
Bằng hiểu biết về tác phẩm, anh/chị hãy làm sáng tỏ.
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Dẫn ý kiến
II. Thân bài
1. Giải thích và khái quát về tác phẩm
1.1. Giải thích:
- Ý kiến nhấn mạnh hai nội dung cơ bản của bài phú:
+ Tái hiện lại trận chiến trên sông Bạch Đắng và làm sống dậy hào khí chiến
đấu của quân dân nhà Trần.
+ Thể hiện bình luận, suy ngẫm về chiến thắng làm sang rõ chân lí mn đời
của dân tộc.
1.2. Khái qt về tác phẩm (trình bày ngắn gọn)
- Sơng Bạch Đằng

- Hoàn cảnh ra đời và thể phú:
- Giới thiệu nhân vật khách và thú tiêu dao + Nhân vật các bơ lão thuật lại trận chiến.
2. Phân tích, chứng minh
2.1. Bài phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch
Đằng
- Niềm tự hào về dịng sơng lịch sử: Các chiến cơng tiêu biểu: Ngô quyền đánh quân
Nam Hán, Hoằng Tháo thua trận và chết ở sông Bạch Đằng năm 938 và Trùng Hưng
nhị thánh bắt sống Ô Mã năm 1288.
- Tái hiện lại trận chiến (Xem mục 3.2. bài phân tích)
2.2. Làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc (Xem mục 4. của bài phân tích)
Những suy ngẫm, bình luận về chiến thắng của các bô lão và khách đã thể hiện
những chân lí về:
- Sức mạnh dân tộc: Bình luận về ngun nhân chiến thắng vì có sức mạnh
chính nghĩa và thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ca ngợi, đề cao nhân tố con người, đặc
biệt là ca ngợi công lao của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
- Đạo lí dân tộc: Mượn quy luật của tự nhiên để khái qt quy luật của con
người: Mọi dịng sơng đều dồn về biển cả, những kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, anh hùng
lưu danh mn đời.
3.. Bình luận ý kiến
- Khẳng định ý kiến hoàn toàn đúng đắn khi nêu được hai nội dung lớn của bài phú.
14


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Từ đó:
+ Ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của dân tộc
+ Chân lí dân tộc ấy chính là bài học trong dựng nước và giữ nước

III. Kết bài
- Đánh giá chung về nghệ thuật và nội dung
- Nêu cảm nghĩ
Đề bài 5: Phân tích giá trị của nghệ thuật thể phú qua bài thơ Phú sông Bạch
Đằng
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về thể phú: Là thể văn cổ của Trung Quốc được du nhập vào
Việt Nam từ sớm, đến thời Trần trở nên phổ biến
- Khái quát vị trí của tác phẩm: Bạch Đằng Giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể
phú trong văn học trung đại Việt Nam
II. Thân bài
1. Đặc trưng nghệ thuật của thể phú.
- Là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi
- Dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời.
- Bố cục gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận, đoạn kết.
- Phú cổ thể: Khơng nhất thiết có đối, cuối bài được kết lại bằng thơ.
2. Sự thể hiện những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm “Bạch Đằng
giang phú.
a. Cấu tứ, bố cục
- Về cấu tứ: Đơn giản, chặt chẽ theo lối kể chuyện chủ - khách tiêu biểu của thể loại
phú.
+ Ban đầu là lời dẫn chuyện của tác giả để dẫn dắt ta đi theo hành trình ngao du
của khách và cuối cùng dừng chân tại sơng Bạch Đằng, khách nói về những điều
mình quan sát, suy nghĩ về con sơng.
+ Tại đây khách gặp các vị bô lão, được họ kể về những chiến cơng hiển hách trên
dịng Bạch Đằng thuở xưa.
+ Hai bền cùng trị chuyện và bình luận về những chiến công.
- Bố cục mang đặc trưng tiêu biểu của bài phú cổ thể gồm 4 phần:
+ Mở đầu: Cảm xúc của nhân vật Khách trước sông Bạch Đằng
+ Giải thích: Những chiến cơng hiển hách trên sơng Bạch Đằng qua lời kể của các

bơ lão.
+ Bình luận: Nhận xét, đánh giá của cha ông về những chiến công
+ Kết: Suy ngẫm về sự hưng vong của đất nước.
b. Hình thức câu văn.
- Có sự đan xen đa dạng, linh hoạt giữa lời văn của người dẫn chuyện, lời nói của
Khách, lời kể của các bơ lão. Khi thì luân phiên lượt lời uyển chuyển, lúc lại đan xen
lời của các nhân vật.
- Sử dụng các câu văn xen lẫn văn vần và văn xuôi đa dạng, sinh động.
+ Các câu văn vần:
“Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/Nơi có người đi đâu mà chẳng biết”
15


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

“Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều/Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một
chiều”....
+ Các câu văn xuôi: “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô
Mã/Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Tháo”....
- Sử dụng các câu văn ngắn dài khác nhau
- Sử dụng lối văn biền ngẫu, tạo nên cách nói hình tượng hóa
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/Sơng chìm giáo gãy, gị đầy xương khơ”,...
- Kết thúc bài phú là một bài thơ, tiêu biểu cho đặc trưng thể phú.
c. Ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ tự nhiên không khoa trương sáo rỗng mà rất sống động.
+ Khách miêu tả về con sông Bạch Đằng không bằng những ngôn ngữ sáo mịn
mà bằng những hình ảnh cụ thể, sống động để nói về những nét vẽ cụ thể của dịng
sơng: hùng vĩ, thơ mộng nhưng đìu hiu, hoang lạnh

+ Các bô lão kể về những chiên công nhưng không bị gị vào những ngơn ngữ đao
to búa lớn mà vẫn thể hiện được những chiến công hào hùng, oanh liệt
- Ngôn ngữ trang trọng, gợi sự trang nghiêm
d. Xây dựng các hình tượng nghệ thuật độc đáo.
- Hình tượng con sông Bạch Đằng vừa mang vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật vừa là
chứng nhân của lịch sử.
- Hình tượng “khách”: Khách trong thể phú thường mang tính ước lệ khuôn thức,
cứng nhắc, nhưng qua cách xây dựng của Trương Hán Siêu, hình tượng khách hiện
lên đa dạng, sinh động vừa phóng khống, tự do, u vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của
non sơng, tiếc thương, xót xa cho cảnh hoang tàn, đổ nát, tự hào về những chiến
công lịch sử, yêu thiên nhiên, yêu đất nước.
- Hình tượng các bơ lão: Trọng tình, hiếu khách, u và tự hào sâu sắc về những
chiến công của dân tộc, biết đánh giá và nhìn nhận đúng đắn về lịch sử
III. Kết bài
- Khái quát lại những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch
Đằng.
- Khẳng định vị trí của tác phẩm: Sau Phú sơng Bạch Đằng cũng còn nhiều tác phẩm
viết theo thể phú khác nhưng chưa có tác phẩm nào vượt qua được bài phú của
Trương Hán Siêu.

16



×