Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Phân tích tác phẩm Bình ngô đại cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.34 KB, 18 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

BÌNH NGƠ ĐẠI CÁO
-Nguyễn TrãiI. MỞ BÀI:
Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, là người toàn tài nhưng oan khuất số một
trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại. Ông được Unessco cơng nhận là danh nhân
văn hóa thế giới và tổ chức kỉ niệm 600 năm ngày sinh vào năm 1980. Ơng khơng chỉ
có tài trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, lịch sử, địa lí… mà còn để lại
một sự nghiệp văn học kiệt xuất, được vua Lê chế tặng câu:
Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên
Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế
(Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ - Truyền tụng văn chương sự
nghiệp, để mãi đời sau).
Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo nhưng là "một Nho giáo
khoáng đạt, rộng rãi, khơng câu nệ và vì vậy khơng chỉ là gần gũi mà còn là phong
phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó" (Trần Đình Hượu). Tài năng và tư
tưởng tiến bộ của ông thể hiện rất rõ trong tác phẩm tác phẩm "Bình Ngơ đại cáo".
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Cuối năm 1427 khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Nguyễn
Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết "Bình Ngơ đại cáo" và cơng bố vào đầu năm 1428 để
thông báo rộng rãi cho nhân dân được biết về việc đã dẹp yên giặc Minh. Bài cáo có
vai trị như một bản tun ngơn độc lập, khai sinh ra triều đại nhà Hậu Lê.
- Thể loại: Là loại văn cổ của Trung Quốc, trình bày một chủ trương, một sự
nghiệp hoặc tuyên bố một sự kiện trọng đại. Cáo có hai loại là văn cáo thường ngày
nhằm công bố một vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và đại cáo nhằm thông báo sự
kiện trọng đại, có tính quốc gia, dân tộc. Cáo có thể viết bằng văn xuôi hoặc văn vần
nhưng phần nhiều là văn biền ngẫu, có vần hoặc khơng vần, thường có đối, câu dài
ngắn khơng gị bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Đây là thể văn hùng biện nên lời lẽ đanh


thép, lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.
- Ý nghĩa nhan đề: Cha ông ta gọi giặc Minh là Ngô để chỉ bọn giặc xâm lược
tàn bạo, độc ác và thể hiện thái độ khinh bỉ, căm ghét. “Bình Ngơ" có thể hiểu là dẹp
n giặc Ngơ. "Đại cáo" là tên thể loại nhằm thông báo sự kiện trọng đại, có tính
quốc gia, dân tộc. Như vậy, nhan đề bài cáo cho biết là đây là một văn kiện pháp luật
của Đại Việt, có ý nghĩa thơng báo trọng đại, rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngơ.
- Bố cục: 4 đoạn
+ Đoạn 1: Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa
+ Đoạn 2: Tố cáo tội ác của giặc Minh
+ Đoạn 3: Thuật lại khởi nghĩa Lam Sơn
+ Đoạn 4: Tuyên bố độc lập
2. Đoạn 1: Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa và lấy đó làm cơ
sở, căn cứ để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Trong đó, "Nhân" là người, tình người (theo Khổng Tử), nghĩa là việc làm
chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử), "nhân nghĩa” là chỉ mối quan hệ giữa người
với người trên cơ sở tình thương và đạo lý. “Yên dân” là nhân dân được sống yên
lành, ấm no, hạnh phúc trong một đất nước độc lập. “Trừ bạo” là diệt trừ bọn xâm
lược tàn bạo và bọn tham tàn trong nước. “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” vốn là
một điển cố trong Kinh thư, ngụ ý muốn “yên dân” thì phải tiêu trừ tham tàn bạo
ngược, những thế lực đã phá vỡ sự bình yên của nhân dân. Như vậy, luận đề quan

trọng xuyên suốt trong bài cáo là tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là yên dân trừ bạo,
tiêu diệt bọn tham tàn, bạo ngược để bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân. Cốt lõi
của tư tưởng nhân nghĩa là lấy dân làm gốc, vì nước, vì dân mà thực thi việc làm
nhân nghĩa.
Ở thời phong kiến, lòng yêu nước được gắn với tư tưởng "Trung quân, ái quốc"
tức là yêu nước gắn liền với yêu vua, trung với vua. Nhưng Nguyễn Trãi đã sớm nhận
thấy yêu nước là phải yêu dân, vì dân. Ông cũng sớm nhận ra sức mạnh của nhân dân
"Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”. Ngày nay ở thế kỉ XXI, tư tưởng nhân nghĩa
lấy dân làm gốc vẫn là tư tưởng tiến bộ, không những được tiếp tục khẳng định mà
cần phát triển lên một tầm cao mới. Vì thế có thể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV là rất mới mẻ, tiến bộ vượt thời đại. Tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi xét cho cùng chính là lịng u nước thương dân, là tư tưởng lớn thể
hiện trong suốt sự nghiệp sáng tác của ơng:
Bui một tấc lịng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
Hoặc:
Bui một tấc long trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen
Luận đề thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập đó là sự tồn tại độc lập có chủ quyền
của nước Đại Việt ta từ bao đời nay:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có
Nền độc lập, chủ quyền dân tộc được tác giả khẳng định như một chân lý
không thể chối cãi bởi dân tộc ta có đủ các yếu tố để tạo thành một quốc gia độc lập,

thống nhất. Các yếu tố ấy bao gồm: Tên nước là Đại Việt "Như nước Đại Việt ta từ
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

trước"; nền văn hiến đã tồn tại từ lâu đời “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”; có lãnh thổ
đã được phân định rõ ràng với “núi sông bờ cõi đã chia”; về văn hóa ta có phong tục
tập quán riêng khác hẳn với phong kiến phương Bắc “phong tục Bắc Nam cũng
khác”; về khía cạnh lịch sử, nếu như phương Bắc có các triều đại Hán, Đường, Tống,
Ngun thì nước Đại Việt ta cũng cũng có các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần "bao
đời gây nền độc lập"; về nịi giống và truyền thống dân tộc thì đời nào cũng có anh
hùng, hào kiệt “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”. So
với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc là "Nam quốc sơn hà" thì khái
niệm quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi đã được mở rộng hơn rất nhiều. Nó khơng
chỉ bao gồm hai yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng mà cịn được nhìn nhận trên các
phương diện quốc hiệu, lịch sử, địa lí, văn hóa, thể hiện tài năng lý luận và tầm vóc tư
tưởng của một danh nhân văn hóa thế giới.
Trong đoạn cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ nền độc lập tự chủ dân
tộc khi ln thể hiện hình ảnh nước Nam tách biệt, khác hẳn với phong kiến phương
Bắc trên mọi phương diện, khẳng định nước Nam hồn tồn khơng lệ thuộc, thậm chí
ngang hàng với phong kiến phương Bắc. Sức thuyết phục của luận đề còn nằm ở cách
sử dụng ngôn ngữ như: Vế câu “mỗi bên xưng đế một phương” đã thể hiện ý thức tự
cường và niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Vua nước Nam cũng xưng “đế” và ngang hàng
với vua phương Bắc, chứ không đợi phong kiến phương Bắc phong “vương” như một
nước chư hầu, phụ thuộc vào thiên triều của chúng. Các từ ngữ "từ trước", "đã lâu",
"đã chia", "cũng khác" là các từ cùng một trường nghĩa khẳng định sự hiển nhiên,
vốn có, lâu đời của nền độc lập dân tộc.

Nhìn chung, ngay từ đoạn đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã tạo được một hệ thống
lý luận, căn cứ vững chắc và đầy nhân văn khẳng định nền độc lập tự chủ và tư tưởng
nhân nghĩa của đất nước Đại Việt. Không chỉ là lí luận mà thực tiễn lịch sử đã chứng
minh, những cơ sở chính nghĩa ấy đã tạo nên sức mạnh và bản lĩnh của dân tộc, khiến
bao lần bọn giặc có dã tâm xâm lược đều bị trừng trị đích đáng. Vậy nên mới có:
Cho nên:
Lưu Cung tham cơng nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Bằng biện pháp liệt kê, nhắc đến các tướng giặc đã phải "thất bại", "tiêu vong",
bị "bắt sống", "giết tươi", Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh những thất bại thảm hại của
phong kiến phương Bắc khi sang xâm lược nước Nam nhỏ bé. Đó chính là những
bằng chứng hùng hồn, đanh thép khẳng định khơng có kẻ thù nào có thể xâm phạm
nền độc lập tự chủ của tổ quốc Đại Việt. Đó cũng là lời cảnh cáo, răn đe những kẻ bất
nhân, bất nghĩa nếu chúng có dã tâm xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền dân tộc Đại Việt,
chúng đều phải trá giá đắt.
Tiểu kết: Với giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn
đạt sóng đôi, cân xứng của thể văn biền ngẫu, cùng với các biện pháp nghệ thuật như
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

so sánh, liệt kê… đoạn đầu của bài cáo đã nêu được hai luận đề quan trọng, quán
xuyến nội dung cả tác phẩm. Đoạn cáo giúp ta khẳng định sâu sắc chủ quyền lãnh thổ
của đất nước, thấy được truyền thống tốt đẹp và lịch sử đấu tranh hào hùng của dân

tộc. "Đại cáo bình Ngơ" xứng đáng là áng văn hào hùng mn thuở, giúp ta bồi đắp
lịng u nước, niềm tự hào tự tơn dân tộc, từ đó quyết tâm xây dựng, bảo vệ đất nước.
3. Đoạn 2: Tố cáo tội ác của giặc Minh
Với những lí luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, tác giả đã vạch mặt lũ
ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn nhơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng. Biện pháp
liệt kê được sử dụng liên tiếp đã nhấn mạnh thêm tội ác của lũ giặc ngạo mạn, không
bằng cầm thú. Lời văn cho thấy cái sục sôi căm phẫn của tác giả khi nhân dân bị chà
đạp, bị xâu xé dưới gót giày bọn giặc xâm lược.
3.1. Tố cáo âm mưu cướp nước
Nguyễn Trãi đã đứng trên hai lập trường là lập trường của dân tộc và lập
trường nhân nghĩa nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù. Trước hết là trên lập trường
dân tộc, ông đã tố cáo, nhận diện rõ ràng âm mưu cướp nước của giặc Minh thông
qua mấy câu thơ sau:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lịng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Dùng các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ” để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà
Minh kéo quân sang nước ta với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhưng thực tế là
thừa dịp xâm lược Đại Việt. Vin vào việc Hồ Quý Ly lên ngôi không danh chính
ngơn thuận, khơng được lịng dân để lấy được sự ủng hộ của nhân dân Đại Việt nhằm
thực hiện mưu hèn kế bẩn mà chúng đã ấp ủ bấy lâu nay.
3.2. Tố cáo tội ác diệt chủng
Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân bản, nhân nghĩa, đứng về phía
quyền sống của nhân dân để tố cáo chủ trương cai trị phản nhân đạo của kẻ thù. Giặc
Minh đã hủy hoại cuộc sống của nhân dân bằng hành động diệt chủng vô cùng tàn
bạo, man rợ làm bại cả nhân nghĩa, nát cả đất trời:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ .

"Dân đen" và "con đỏ" ở đây chỉ những người yếu thế, vô tội. Vậy mà bọn giặc
Minh đã giết chóc tàn bạo, đã "nướng trên ngọn lửa hung tàn”, "vùi con đỏ xuống
hầm tai vạ" đến cả những sinh linh yếu thế, vô tội nhất.
3.3. Tố cáo tội ác áp bức, bóc lột
Chúng cịn vơ vét của cải, sản vật, biến người dân thành công cụ để phục vụ
cho lịng tham vơ đáy:
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Chúng đặt ra thuế khóa nặng nề, vơ vét các sản vật như ngọc trai, vàng, chim
trả, hươu đen… Nhưng những thứ quý hiếm ấy có phải đâu dễ tìm, người dân bị ép
xuống biển mị ngọc, vào núi đãi cát tìm vàng, phu phen tạp dịch xây nhà, đắp đất
"Nặng nề những nỗi phu phen", "Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch
cho vừa" ... Sự cai trị tàn bạo của giặc Minh xâm lược đã khiến cho người dân vô tội
lâm vào bước đường cùng, bị triệt tiêu đường sống, đẩy đến chỗ nguy hiểm khi phải
đối mặt với “rừng thiêng nước độc”, với “cá mập thuồng thuồng"… thậm chí có khi
chết khơng tìm thấy xác.
3.4. Tội ác hủy hoại mơi trường sống
- Tội ác của chúng còn là hủy hoại môi trường sống của nhân dân Đại Việt,
làm cho gia đình đang đầm ấm bỗng chốc mất đi người chồng, người cha, chỉ cịn trẻ

con, phụ nữ góa bụa nheo nhóc:
Tàn hại cả giống cơn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng
- Chúng vơ vét cạn kiệt tài nguyên đất nước, tàn phá nặng nề các giống loài tự
nhiên, triệt đường sống của vạn vật, tàn hại đến cả giống côn trùng, cây cỏ và làm
“tan tác cả nghề canh cửi”.
3.5. Hình ảnh quân giặc hiện lên xấu xa, bỉ ổi
- Đoạn cáo vừa thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân,
vừa đanh thép, hùng hồn khi kết tội kẻ thù. Bọn giặc đã gây ra biết bao đớn đau cho
dân tộc, giống nòi. Căm thù giặc sâu sắc nên qua con mắt của tác giả và nhân dân,
hình ảnh bọn giặc hiện lên đầy xấu xa, kinh tởm :
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán
- Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi cịn chỉ rõ sự bại hoại nhân nghĩa,
luân lí của bọn giặc Minh:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
Tác giả đã sử dụng các hình ảnh rất giàu giá trị biểu cảm, gợi tả như “trúc
Nam Sơn”, “nước Đông Hải”, dùng cái vô cùng, tột độ để diễn tả tội ác của kẻ thù.
Tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết, đến nỗi ghi lên thân trúc Nam Sơn cũng
chẳng hết, tanh hôi đến mức nước biển Đông không rửa sạch được mùi.
Nghệ thuật tương phản đối lập giữa nhân dân ta và giặc thù được sử dụng triệt
để đã nhấn mạnh, khắc sâu sự đau thương, tang tóc của nhân dân và tội ác man rợ của
kẻ thù. Tội ác của chúng khiến trời không dung, đất khơng tha, khiến thần dân giận
dữ, căm phẫn, đau xót: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?".
Nguyễn Trãi tin vào thiên mệnh, tin rằng bọn giặc tàn ác nhất định sẽ bị trừng trị đích
đáng cho những tội ác mà chúng gây ra trên đất Đại Việt.
5



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Tiểu kết: Bằng một giọng văn đau xót, bi thương tột cùng kết hợp với nghệ
thuật liệt kê, phóng đại, tương phản… Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược
vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của giặc Minh đối với dân tộc và nhân dân Đại
Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa là lịng u nước thương
dân khi đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, thể hiện tình cảm xót thương
sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp. Đoạn cáo vì vậy có ý nghĩa là lời
buộc tội đanh thép tội ác của bọn giặc, từ đó lí giải ngun nhân trực tiếp dẫn đến
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
4. Đoạn 3: Thuật lại khởi nghĩa Lam Sơn
Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn, Nguyễn Trãi đã nói về tính chất chính nghĩa
và q trình chinh phạt gian khổ để đi đến chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Trong đó trước hết, tác giả làm nổi bật hình tượng người lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa.
4.1. Hình tượng Lê Lợi
Nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ sối Lê Lợi.
Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng có lịng u nước thương dân, lịng tự tơn
dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc Minh xâm lược "Ngẫm thù lớn há đội trời
chung/Căm giặc nước thề khơng cùng sống. Đó chính là ngun nhân, là tiền đề đầu
tiên để vị lãnh tụ Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam Sơn, lấy nơi hoang dã làm căn
cứ nương mình, chờ thời cơ diệt giặc. Hơn thế nữa, Lê Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố
khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lịng kiên trì bền bỉ "Nếm mật nằm
gai/chốc đà mười mấy năm trời" để xây dựng lực lượng, có khả năng thu phục quần
hùng, biết coi trọng nhân tài "cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm cịn dành phía tả" và
quan trọng nhất đó là lịng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dù có bao nhiêu gian
khó "Tấm lịng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đơng", tiến về mặt trời, về
một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.
4.2. Những khó khăn trong buổi đầu

Trong giai đoạn đầu, “vạn sự khởi đầu nan” cuộc khởi nghĩa của chủ tướng Lê
Lợi gặp rất nhiều khó khăn, đầu tiên Nguyễn Trãi đã tái hiện lại sự tương quan giữa
ta và địch. Về phía địch, khi cờ khởi nghĩa của ta vừa dấy lên, thì cũng chính là lúc
“quân thù đang mạnh”, giặc Minh được thế giở thói “hung đồ ngang dọc” thả sức tác
oai tác quái, phô trương thanh thế đàn áp nhân dân. Trái lại về phía ta thì lại gặp vơ
vàn khó khăn trắc trở “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá màu thu”, vốn đã
thiếu người, thiếu lực lượng và thiếu nhất là những người tài chịu đứng ra giúp nước
phò tá Lê Lợi, trong việc bôn tẩu, bàn bạc kế sách chống qn thù. “Trơng người
người càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi” người thiếu, lực mỏng và con
đường khởi nghĩa cũng còn quá mơ hồ, bởi so với địch thực sự thế lực của ta chẳng
thể chống đỡ được quá lâu. Một nỗi lo khác nữa ấy là ngồi thiếu nhân lực ta cịn
thiếu cả vật lực “Vận nước khó khăn/Linh Sơn lương hết mấy tuần/Khơi huyện qn
khơng một đội”, thiếu thốn lương thực, vũ khí, khơng có nguồn tiếp tế khiến nghĩa
quân nhiều lần lao đao, khốn khó trong việc duy trì tinh thần qn lính. Có thể thấy
rõ rằng, tương quan lực lượng giữa ta và địch là hoàn toàn chênh lệch với cái thế yếu
thuộc về nghĩa quân Lam Sơn.
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc sâu sắc nghĩa
quân ta bằng mọi cách để khắc phục khó khăn ban đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao
tấm lịng chính nghĩa, đồn kết "nhân dân bốn bể một nhà", "tướng sĩ một lòng phụ
tử". Vận dụng mưu lược trong chiến đấu "dùng quân mai phục", tinh thần anh dũng
hi sinh "lấy ít địch nhiều", "lấy yếu chống mạnh", khiến cho mỗi trận đánh của quân
dân ta đều sĩ khí bừng bừng, thu được nhiều chiến cơng vang dội. Nguyên nhân xuất
phát bởi tấm lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân "Đem đại nghĩa để thắng

hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo", chứng minh một chân lý khơng thể dời đổi,
chính nghĩa ắt phải thắng gian tà.
4.3. Giai đoạn phản công và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa:
Với ý chí khắc phục khó khăn và sức mạnh đại nghĩa, ta đã chiến thắng. Nghĩa
quân đã liên tiếp giành được những chiến thắng vang dội, còn kẻ thù thì phải nhận
hàng loạt các chiến bại, vơ cùng nhục nhã. Sau các trận thắng Bồ Đằng, Trà Lân khí
thế quân ta ngày càng mạnh: “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc
chẻ tro bay/Sĩ khí đã hăng/Quân thanh càng mạnh”, còn lũ địch nhát gan chỉ được
nước “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/Lý An, Phương Chính, nín thở cầu
thốt thân”. Qn ta liên tiếp giành lại những thành trì, vùng đất đã rơi vào tay giặc
như Tây Kinh, Đông Đô, Tốt Động, Ninh Kiều, khiến quân giặc nghe hơi mà mất vía,
trái lại về phía địch thì tồn nhận lại những trận thảm bại, “máu chảy thành sông”,
“thây chất đầy nội”. Tướng lĩnh kẻ bêu đầu, đứa tử trận, Vương Thông, Mã Anh dù
cố cứu nguy nhưng kết quả cũng đành “Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực
kiệt”. Ta chiến thắng vang dội, giặc thất bại thảm hại.
Với tinh thần nhân nghĩa, ta đáp lại sự xấu xa, nhơ bẩn của bọn giặc bằng đạo
lí, muốn chinh phục chúng bằng chữ "tâm công". Nghĩ rằng chúng đã chịu khuất
phục mà đem quân về nước, nhưng bọn giặc vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược, vẫn
“Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian”. Không những khơng chịu rút
về nước, trái lại bọn giặc cịn đưa thêm quân tiếp viện do hai tướng Mộc Thạnh và
Liễu Thăng chỉ huy chia làm hai đạo quân tiến vào nước ta hòng tiêu diệt nghĩa quân,
lấy lại thế chủ động. Lúc này nghĩa quân ta tiếp tục quá trình kháng chiến, tiếp nối "sĩ
khí" của chặng đường thứ nhất để chặn đánh quân địch ở vùng biên giới, phá tan âm
mưu hiểm độc của chúng. Ta “chặt mũi tiên phong”, “tuyệt nguồn lương thực”,
“Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá... Kết quả “trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế”,
“trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu”, Lương Minh tử vong, Bá Khánh cùng kế phải tự
vẫn. Lại thêm quân bốn mặt vây thành/Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc/Sĩ tốt kén
người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”. Đạo quân của Mộc Thạnh cũng thất bại
thảm hại, khiếp vía giẫm đạp lên nhau để mà thốt thân.
Lí tưởng nhân nghĩa của dân tộc lại một lần nữa được khẳng định khi quân giặc

thua trận ta không những không đuổi cùng diệt tận mà “Thần vũ chẳng giết hại, thể
lòng trời ta mở đường hiếu sinh”, “Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc
thuyền/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa” để chúng rút lui về
nước trong sự tâm phục khẩu phục, vừa để quân dân nghỉ ngơi lấy sức khôi phục đất
nước sau chiến tranh.
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Tiểu kết: Bằng bút pháp đậm chất anh hùng ca, hình ảnh thiên nhiên lớn lao kì
vĩ, ngơn ngữ đặc sắc, với các động từ mạnh liên tiếp, nghệ thuật phóng đại, liệt kê đã
diễn tả những trận chiến rung chuyển. Câu văn linh hoạt, chiến thắng của ta thì dùng
câu văn ngắn thể hiện sự dồn dập, quyết đoán mạnh mẽ, oai hùng, cịn thất bại của
địch thì được diễn tả bằng những câu văn dài. Nghệ thuật đối lập giữa hai hình tượng
ta – giặc. Ta khí thế ngày càng mạnh, chiến thắng và luôn nêu cao tinh thần nhân
nghĩa. Bọn giặc độc ác nhưng hèn hạ, ham sống sợ chết và thất bại nhục nhã, ê chề.
BÌnh Ngô đại cáo xứng đáng là áng văn hùng muôn thuở.
5. Đoạn 4: Tuyên bố độc lập
- Bằng giọng văn thư thái, trịnh trọng, trang nghiêm, Nguyễn Trãi đã tuyên bố
chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. “Xã tắc từ
đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến thắng, mở ra một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh
vượng dưới triều vua mới. Đoạn cáo cũng thể hiện rõ niềm tự hào về chiến thắng, về
nền độc lập chủ quyền dân tộc, về chiến công oanh liệt ngàn năm, rửa sạch mối nhục
mất nước.
- Sau là rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của trời đất và tự
nhiên, “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh” thể hiện sự tin tưởng

vào vận mệnh mới của dân tộc, sau khi đã trải qua cơn bĩ cực của lịch sử. Từ đây, tác
giả cũng thể hiện khát vọng đất nước ngàn thu vững bền "Mn thuở nền thái bình
vững chắc".
- Chiến thắng của ta được tạo nên nhờ sự kết hợp của sức mạnh thời đại “Một
cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”. Nhưng ta chiến thắng cũng
bởi được tổ tiên, cha ông đã ngầm giúp đỡ “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng
ngầm giúp đỡ mới được như vậy”. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ca ngợi công lao của tổ
tiên, cha ơng, chính các thế hệ cha ơng đã tạo nên sức mạnh truyền thống truyền lại
và dẫn dắt con cháu đi đến thắng lợi.
- Khát vọng đất nước ngàn thu vững bền: Tham khảo “Bạch Đằng giang phú”.
6. Đánh giá chung
5.1. Về nghệ thuật
a) Đặc trưng cơ bản của thể cáo: thể văn nghị luận, do vua chúa hoặc thủ lĩnh
dùng với mục đích tuyên bố một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện;
được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền
ngẫu; có kết cấu chặt chẽ, lập luận đanh thép, lời văn trang trọng, hùng hồn.
- Nguyễn Trãi đã vận dụng sáng tạo, thành công thể cáo : bài đại cáo (chứ không
phải loại văn cáo thường ngày), được viết theo lối văn biên ngẫu, có vận dụng thể tứ
lục, kết câu bốn phần (nêu luận đề chính nghĩa; vạch rõ tội ác kẻ thù; thuật lại quá
trình cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa),
sử dụng nhiều hình tượng nghệ thuật; sinh động, gợi cảm.
b) “Đại cáo binh Ngơ” có sự kết hợp hài hố giữa yếu tố chính luận và chất văn
chương
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


- Kất cấu chặt chẽ, lập luận lôgic, sắc bén. Bài cáo được kết cấu theo trình tự
phần mở đầu nêu luận đề chính nghĩa; phẩn thứ hai soi sáng tiên đề vào thụt tiễn, lên
án hành động phi nghĩa của giặc Minh, khẳng định, ngợi ca sự nghiệp chính nghĩa
của nhân dân Đại Việt; phần cuối rút ra kết luận trên cơ sở tiền đề và thực tiễn để
khẳng định chiến thắng và tương lai dân tộc, cách lập luận của tác giả rất logic, sắc
bén: thống nhất trên lập trường yêu nước và nhân nghĩa, có sự kết hợp giữa lí lẽ và
thực tiễn.
- Lời văn giàu cảm xúc : tác giả không tả hoặc thuật lại một cách khách quan mà
thường thể hiện thái độ, cảm xúc của người viết (“Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thế không cùng sống”, “Những trằn trọc trong cơn mộng mị-Chỉ băn
khoăn một nỗi đồ hồi” ...).
- Câu văn giàu hình tượng : tác giả diễn đạt tư tưởng bằng những hình tượng
nghệ thuật sinh động, làm cho câu văn có sức mạnh gợi cảm, truyền cảm (“Độc ác
thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội - Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch
mùi”, “Gươm mài đá đá núi cũng mòn - Voi uống nước nước sơng phải cạn”,...).
5.2. Về nội dung
a) “Đại cáo bình Ngơ”có ý nghĩa trọng đại của bản tun ngơn độc lập dân tộc
Ngay ở phần đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định chân lí khách quan về sự tồn tại
độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt. Chân lí đó có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn
lịch sử. Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản đẻ xác định dân tộc ta có quyền
độc lập, tự chủ : cương vực lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, nền văn hiến lâu
đời, lịch sử riêng, chế độ riêng và “hào kiệt không bao giờ thiếu.
b) “Đại cáo bình Ngơ” là áng văn u nước chói ngời
Bài cáo khẳng định truyền thống yêu nước, truyền thống nhân nghĩa của dân tộc
Việt Nam, lên án tội ác kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, thể hiện
niềm tin vững chắc vào nền độc lập dân tộc.
c) “Đại cáo bình Ngơ” áng văn chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc
Bài cáo khẳng định tư tưởng nhân nghĩa (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân –
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”), tố cáo tội ác kẻ thù trên lập trường nhân nghĩa,vì
quyền sống con người và khẳng định truyền thống nhân đạo của người Việt Nam
(“Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”,…).

LUYỆN ĐỀ
Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng, Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi là một
“thiên cổ hùng văn”. Qua việc phân tích tác phẩm, hãy làm sáng tỏ nhận định
trên.
*Giải thích “Thiên cổ hùng văn”; áng văn hùng tráng cả nghìn đời cịn lưu
truyền. Vì:
– Nội dung thể hiện một tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu hết
sức mạnh mẽ quyết liệt, khí thế hào hùng, lịng căm thù giặc sơi sục.
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

– Ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Minh với những chiến lược chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã
đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng
đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã.
– Với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như
bão giơng, sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém vào quân xâm lược,
phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể
hiện cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những
ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã.
 Bài cáo mãi là âm vang hào hùng trên non sông đất Việt và ghi lại được ý chí,
khát vọng chiến thắng, hồ bình, độc lập của tồn dânvì:
– Vì đã khẳng định được quyền tự chủ và ý chí chiến đấu đến cùng để giành
quyền tự chủ của dân tộc trước một tên xâm lược sừng sỏ nhất châu Á.
– Bài cáo còn nêu cao tư tưởng nhân nghĩa để khẳng định đạo lí ngàn đời của
nhân dân VN.

– Sự bất hủ của bài cáo còn là do thiên tài nghệ thuật của NT
– Sự tồn tại vượt thời gian của bài cáo cịn có sự góp phần của dịch giả -> bài
dich chữ Nơm quả là một cơng trình dịch thuật xuất sắc.
*Chứng minh:
– BNĐC là bản hùng ca xuất sắc về nội dung và nghệ thuật:
+ Ca ngợi đất nước và dân tộc với lối văn trong sáng tràn đầy sức mạnh của lòng
tự tin và tự hào : “Như nước ĐV…..còn ghi”
+ Một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân xâm lược “Nướng…..chịu
được” -> thể hiện lịng căm thù sơi sục của tác giả:
 Nỗi niềm trăn trở âu lo cho vận mệnh của đất nước thể hiện tình yêu nước
thương dân sâu sắc “ Ngẫm thù lớn…..đồ hồi”
 Cảm xúc dạt dào khi có cơ hội khởi nghĩa, khi tập hợp được lực lượng nhân
dân, khi lực lượng nghĩa quân đã phát triển: “nhân dân bốn cõi…phới”
 Chiến lược, chiến thuật tài tình và chiến thắng vang dội là trọng tâm làm nên
cảm xúc vừa mãnh liệt vừa trữ tình cho áng văn chương bất hủ: “Thế trận xuất kì lấy
yếu chống mạnh…” , “Đem đại nghĩa…tàn”
+ Các câu tường thuật chiến thắng là những lời hào hùng nhất như có sức mạnh
xơ núi, lấp biển “ Trận Bồ Đằng….ngàn năm”, “Ngày mươi tám…”, “ Gươm mài
đá….”
+ Kết thúc bài cáo là những lời ca trang trọng và tươi vui nhất, là niềm hạnh
phúc dạt dào.
=> Tư tưởng nhân nghĩa là nguồn gốc của giá trị văn chương, là cái bệ phóng để
đưa tác phẩm từ quá khứ vào tương lai và trường tồn mãi mãi.
Đề số 2: Tinh thần nhân đạo thể hiện trong Đại cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi.
Gợi ý :
10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

– Nhân đạo là đạo lí, đạo đức làm người. Nhân đạo xét cho cùng được thể hiện ở
tình cảm của con người với con người. Nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học trung đại bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn
văn học dân gian, chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo.
Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại được thể hiện phong phú, đa dạng ở
nhiều khía cạnh:
+ Lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người.
+ Lòng thương người, đồng cảm, chia sẻ với những số phận bất hạnh.
+ Khẳng định, đề cao con người về những phẩm chất tốt đẹp của con người, mối
quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người.
+ Nâng niu, trân trọng những ước mơ khát vọng của con người, đòi quyền sống
và hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Trong tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo”, những đặc điểm trên đã được Nguyễn
Trãi thể hiện hết sức điêu luyện, và phải là một người thực sự có tâm với nước với
dân thì mới có thể viết được như vậy.
+ Tội ác của giặc Minh nhiều không kể xiết, chúng không từ bất kì một thủ đoạn
nào để cướp nước ta. Trong “Bình Ngơ đại cáo” tội ác bất dung của chúng đã được
Nguyễn Trãi tái hiện lại hết sức chi tiết khiến cho người đọc cũng cảm thấy rùng
mình và khiếp sợ.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
khơng dừng ở đó chúng cịn đặt ra hàng trăm nghìn thứ thuế để bóp cổ dân ta,
bắt dân ta kẻ bị vào chốn “Rừng sâu nước độc” để “Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn
chốn lưới chăng”, “Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng- khốn nỗi rừng sâu nước độc”,
“Kẻ bị đem xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng”. Vơ
cùng căm phẫn trước tình cảnh đất nước lầm than, Nguyễn Trãi không thể nào ăn
ngon ngủ yên, ông luôn trằn trọc nghĩ suy cho vận mệnh đất nước, cho nỗi cơ cực

kinh hoàng của nhân dân:
“Căm giặc nước thề khơng cùng sống
Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
+ Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Trãi khơng chỉ bó hẹp ở chỗ thương dân, mà
nó cịn lan rộng ra thành lòng độ lượng từ bi, sẵn sàng mở lượng khoan hồng, cùng
với Lê Lợi cung cấp lương thực, thuyền bè và những phương tiện cần thiết khác hỗ
trợ cho giặc Minh bị thất trận, đầu hàng về nước. Không những không đuổi cùng giết
tận bọn giặc hung tàn, nghĩa quân Lam Sơn còn ban cho họ một cơ hội sống thứ hai
vì họ đã xin đầu hàng. Lê Lợi đã kết thúc chiến tranh,”mở đường hiếu sinh” trao trả
cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh.
“Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉsức”.
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

+ Khởi nghĩa để “trừ bạo ” và “yên dân “, kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ
máu, để bảo vệ “toàn quân “, “để nhân dân nghỉ sức “.
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Vương Thơng, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Vơ vàn những tội ác dã man, khốc liệt mà giặc Minh đã nhẫn tâm đè nặng lên
dân ta, khiến dân ta phải sống trong cảnh địa ngục trần gian, đất nước ta bị chia cắt,
đau khổ, uất hận không sao kể hết. Nhưng khi cuộc chiến tranh cứu nước giành thắng

lợi, giặc Minh tháo chạy, đầu hàng, ta khơng tính tốn món nợ ốn thù mà cịn đưa
tay cứu vớt, cho họ một con đường quay đầu là bờ, đối đãi với họ bằng nhân nghĩa, “
lấy chí nhân để thay cường đạo”. Dân ta chỉ mong muốn tạo dựng một cuộc sống ấm
no, đất nước n ổn, hịa bình, an cư lạc nghiệp chứ khơng muốn tạo thêm ốn thù
biết trả đến đời nào xong.
Đề số 3: Đặc sắc nghệ thuật của Bình Ngơ đại cáo - Nguyễn Trãi
Gợi ý:
– Thể loại: thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán,
thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thơng báo một chính sách, một sự
kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, cơng báo trước tồn dân. Bài cáo có bố
cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống
hình tượng sinh động, gợi cảm.
– Ngôn từ chỉ dành cho việc ghi chép lại quá trình chiến đấu gian khổ và chiến
thắng của quân dân ta và quá trình thất bại dẫn đến thảm bại hoàn toàn của quân
Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể hiện ở sự ghi chép trung thực
nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc nhiều chân lý lớn của thời đại. Bên cạnh đó
nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất sắc. Những chặng
đường chính của q trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại tường tận mà
khơng bề bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại những chiến thắng của
quân ta, vừa đúc kết những nguyên lý quân sự và những chân lý nhân sinh; vừa tự sự
về những thất bại liên tiếp của quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng, đặt chúng trong
sự tương phản với quân ta. Sự lúng túng, thất bại của quân xâm lược không chỉ thấy
qua những sự kiện mà còn thể hiện bằng những bức biếm họa từ vua quan đến tướng
sĩ phương Bắc.
– Văn biền ngẫu chỉ yêu cầu cơ bản là mỗi câu gồm hai vế cân xứng còn độ dài
câu văn, sự ngắt nhịp là do cảm quan của từng người viết. Nguyễn Trãi rất linh hoạt
chính ở chỗ đầy bó buộc này. Nhạc tính của câu văn Bình Ngơ đại cáo đa dạng, phù
hợp với nội dung câu văn tự sự, trữ tình hay nghị luận. Ơng tun ngơn bằng câu súc
tích, chắc nịch Ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Miêu tả tội ác quân
thù, ông lại sử dụng thủ pháp trùng điệp, như cố ghi hết tội ác to lớn, trời không

dung, đất không tha của chúng.
12


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

– Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biến hóa, lúc ghi lại hình
ảnh thảm bại, thảm họa của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêu tả cảnh chiến trường
rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập được tác giả vận dụng sáng tạo để làm nổi bật
giữa ta và địch, chính nghĩa và phi nghĩa, đại thắng và đại bại… Cách dùng từ, sáng
tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy một bút pháp nghệ thuật
kỳ tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. “Bình Ngơ đại cáo ” là khúc ca thắng trận vô
cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mịn,
Voi uống nước, nước sơng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông…”
– Sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn
chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động.
Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi,
mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa,
anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sơi trước tội ác của kẻ thù, khi
thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những
khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng
tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
“Bình Ngơ đại cáo “cho ta thấy một bút lực và tài học vô song của ức Trai. Cáo
là một thể văn cổ điển rất trang nghiêm, để thơng báo cho tồn dân một sự kiện quan
trọng. Sự nghiệp “bình Ngơ ” kéo dài trong 10 năm trời. Quân và dân ta trải qua

muôn vàn gian lao thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng…, từ những tháng năm lầm
than đến ngày toàn thắng “bốn phương biển cả thanh bình “, thế mà Nguyễn Trãi đã
viết một cách hàm súc: bài đại cáo chỉ dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, cảm
hứng anh hùng và khát vọng độc lập, hồ bình đã tạo nên tầm vóc văn chương, màu
sắc sử thi của bài đại cáo bình Ngơ, bản anh hùng ca Đại Việt. Ngịi bút nghệ thuật
của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và bình luận, vừa
sắc sảo và thấm thía, vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, lúc thì
thắm thiết căm giận, lúc thì mạnh mẽ, hùng tráng… Đất nước và con người Đại Việt
được nói đến trong bài đại cáo là một đất nước, một nhân dân văn hiến, anh hùng.
– Bình Ngơ đại cáo được viết để bố cáo việc hồn tất một chiến cơng vệ quốc vĩ
đại, bởi vậy đương nhiên phần lớn ngôn từ sẽ dành cho việc ghi chép lại quá trình
chiến đấu gian khổ và chiến thắng của quân dân ta và quá trình thất bại dẫn đến thảm
bại hoàn toàn của quân Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể hiện ở
sự ghi chép trung thực nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc nhiều chân lý lớn
của thời đại.
– Bên cạnh đó nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất sắc.
Những chặng đường chính của q trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại
tường tận mà khơng bề bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại những
chiến thắng của quân ta, vừa đúc kết những nguyên lý quân sự và những chân lý nhân
sinh; vừa tự sự về những thất bại liên tiếp của quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng,
13


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

đặt chúng trong sự tương phản với quân ta. Sự lúng túng, thất bại của quân xâm lược
không chỉ thấy qua những sự kiện mà còn thể hiện bằng những bức biếm họa từ vua
quan đến tướng sĩ phương bắc.

– “Bình ngơ đại cáo ” cịn là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái
hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới
phất lên, trải qua những chặng đường máu lửa, trưởng thành trong thử thách hy sinh,
giành thế chủ động chiến lược , tiến lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Xuyên
suốt chiều dài tác phẩm ta có thể thấy được rằng, bên cạnh những câu văn đanh thép
tố cáo tội ác của giặc ấy là sẩn chứa một tấm lòng trung với nước, hiếu với dân hết
sức lớn lao, của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Ơng ln coi nhân nghĩa là lẽ sống
ở đời, phẫn nộ trước cảnh nước nhà ly tan , nhân dân lầm than đau đớn, nhưng cũng
thương xót mở lòng từ bi đối với bọn giạc thất bại quy hàng chứ khơng báo ân báo
ốn, tính tốn tội lỗi xưa. Nguyễn Trãi thật sự là một tấm gương lớn về tình yêu nước
thương dân để con cháu Đại Việt ngàn đời sau noi theo và học tập.
Đề số 4: Trong dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, nói về Bình Ngơ đại
cáo, Đại tướng Võ Ngun Giáp đã nhận xét: “Bình Ngơ đại cáo có giá trị như
bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước Đại Việt (…) Bình Ngơ đại cáo cịn
là bản tun ngơn nhân đạo và hồ bình của nhà nước Đại Việt”.Hãy làm sáng
tỏ nhận xét trên qua tác phẩm Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi.
Dàn ý :
MỞ BÀI
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngơ đại cáo
– Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận: Bình Ngơ đại cáo vừa có giá trị của một
bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa là bản tun ngơn nhân đạo và hồ bình của
nước ta.
THÂN BÀI :
a. Giải thích:
- Tun ngơn độc lập: là văn bản tuyên bố độc lập của một quốc gia, thường ra
đời để khẳng định chủ quyền của một dân tộc; Tuyên ngôn nhân đạo: là tuyên bố về
tư tưởng nhân nghĩa, khẳng định quyền sống của con người, là sự đồng cảm, thương
xót trước nỗi đau của nhân dân, lên án tội ác của kẻ thù; Tun ngơn hịa bình: là
tun bố về nền độc lập, hịa bình của dân tộc.
- Ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh đến giá trị to lớn của tác

phẩm Bình Ngô đại cáo. Đây không chỉ là văn bản tuyên bố độc lập, khẳng định chủ
quyền của quốc gia, mà còn là tác phẩm tuyên bố về tư tưởng nhân nghĩa, tun bố
về nền độc lập, hịa bình của nước Đại Việt.
b. Chứng minh:
b.1. Bình Ngơ đại cáo là Tun ngôn độc lập lần thứ hai của nước Đại Việt
– Trong lịch sử dân tộc, bài thơ Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) được đánh
giá là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên. Tiếp theo Nam quốc sơn hà, tác phẩm Bình
14


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi chính là Tun ngơn độc lập lần thứ hai trong lịch sử
nước ta.
– Bình Ngơ đại cáo thể hiện một nhận thức tồn diện, sâu sắc về quyền dân tộc,
quốc gia, thể hiện ý thức tự cường, tự chủ của dân tộc Đại Việt.
+ Tồn diện vì ngồi hai yếu tố lãnh thổ, chủ quyền (đã nêu trong Nam quốc sơn
hà), còn thêm những yếu tố cơ bản, quan trọng khác: văn hiến, phong tục, lịch sử :
“Như nước Đại Việt ta từ trước
… Song hào kiệt đời nào cũng có”
+ Sâu sắc vì coi văn hiến, lịch sử là hạt nhân cơ bản để xác định độc lập dân tộc
của Đại Việt, đặt dân tộc ta sánh ngang với phương Bắc – đều làm “đế” một phương,
tự hào vì có lịch sử và văn hiến lâu đời.
b.2. Bình Ngơ đại cáo là bản Tuyên ngôn nhân đạo :
– Tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời việc gì yên dân nên làm, kẻ bạo ngược hại dân
nên trừ đã được nêu cao như là mục đích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

– Tư tưởng nhân nghĩa đã trở thành phương châm chiến đấu của của cuộc khởi
nghĩa:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
– Tư tưởng nhân đạo tha thiết thể hiện trong nỗi đau xót trước thảm hoạ của
nhân dân, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân xâm lược “Vừa rồi nhân họ
Hồ chính sự phiền hà …. Lẽ nào thần dân chịu được”; mở đường “hiếu sinh” cho
hàng chục vạn quân giặc khi đã thất bại đầu hàng “Thần vũ chẳng giết hại …. chân
run”.
b.3. Bình Ngơ đại cáo cịn là bản tun ngơn hồ bình của nhà nước Đại Việt.
– Nêu cao khát vọng hồ bình của dân tộc Đại Việt, chủ trương hoà hiếu giữa
hai quốc gia, dân tộc: “Họ đã tham sống sợ chết … nhân dân nghỉ sức”
– Bài cáo kết thúc bằng việc mở ra một thời kì mới của đất nước trong hồ bình,
độc lập, thể hiện ước vọng và niềm tin vào tương lai của đất nước: “Xã tắc từ đây …
vết nhục nhã sạch làu”.
c. Đánh giá, nâng cao:
c.1. Nghệ thuật văn chính luận đạt đến trình độ mẫu mực, cổ điển
– Cấu trúc tác phẩm hoàn chỉnh: bố cục, hệ thống ý cân đối, chặt chẽ; có sự liền
mạch, nhất quán trong hồi văn, giọng văn.
– Khả năng sáng tạo hình tượng đa dạng, phong phú, biến hoá.
– Sự kết hợp đa dạng nhiều bút pháp: bút pháp chính luận với miêu tả, tái hiện
lịch sử, bút pháp trữ tình với bút pháp anh hùng ca.
– Ngôn ngữ phong phú, đặc sắc. Câu văn biền ngẫu linh hoạt, tạo ra nhịp điệu
phù hợp với cảm xúc từng đoạn;nhiều biện pháp tu từ: so sánh, phóng đại, liệt kê…

15


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

c.2. Giá trị tư tưởng to lớn của tác phẩm là sự kết tinh tư tưởng của lịch sử, của
thời đại, đồng thời là tầm cao tư tưởng của Nguyễn Trãi – nhân vật toàn tài, kiệt xuất
nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam.
c.3. Ý kiến nhận xét của cố Đại tướng thật đúng đắn, sâu sắc đã nhấn mạnh vào
giá trị to lớn của Bình Ngơ đại cáo. Tác phẩm không chỉ là bản Tuyên ngôn độc lập
lần thứ hai của dân tộc, mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định nền hồ
bình độc lập của nước nhà. Ý kiến cũng giúp bạn đọc thấy rõ hơn tài năng bậc thầy
trong thể văn chính luận và tầm cao tư tưởng của Nguyễn Trãi.
KẾT LUẬN
– Đánh giá tài năng của Nguyễn Trãi qua tác phẩm Bình Ngô đại cáo
– Nêu cảm nghĩ của bản thân về tác phẩm, ý nghĩa lớn lao và tầm ảnh hưởng của
tác phẩm.
Đề số 5: Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ hồng xun suốt tác phẩm Đại cáo bình
Ngơ. Cảm nhận Đại cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi để làm sáng tỏ nhận định
trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
1. Giải thích
- Tư tưởng nhân nghĩa: Nhân là yêu thương, trọng người; nghĩa là theo lẽ phải.
Tư tưởng nhân nghĩa là đạo lí của con người đề cao việc yêu thương con người, tạo
dựng cho người, không áp đặt người.
- Tư tưởng này bắt nguồn từ đạo Nho: “Kỉ dục lập nhi lập nhân”, “Kỉ sở bất dục
lập nhi ư nhân”, nghĩa là bản thân muốn đứng được trong xã hội thì cũng làm cho
người khác đứng vững, điều mình khơng muốn thì không đem gán cho người.
- Nguyễn Trãi đã kế thừa và nâng tư tưởng ấy một bước: Nhân nghĩa mang nội
dung yêu nước, thương dân, đem lại cuộc sống yên ổn cho người dân. Yêu ước là an
dân, muốn an dân phải trừ bạo, đem lại cuộc sống thái bình cho dân.
2. Biểu hiện cụ thể của tư tưởng nhân nghĩa trong “Đại cáo bình Ngơ”
* Tư tưởng chiến lược xuyên suốt bài các là tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa

được thể hiện trên hai phương diện:
- Đối với nhân dân: Nhân nghĩa trước hết là đem lại cuộc sống yên ổn cho dân,
đồng thời nhân nghĩa là bảo vệ độc lập chủ quyền hạnh phúc của dân, do vậy phải
chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân: (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt
trước lo trừ bạo”).
Hơn thế nữa nhân nghĩa còn trở thành phương châm và vũ khí đánh giặc (“Đem
đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân để thay cường bạo”).
- Đối với kẻ thù: Nhân nghĩa thể hiện ở quan điểm đánh giặc bằng mưu kế
“Chẳng đánh mà người chịu khuất - Ta đây mưu phạt tâm công”). Nhân là một khái
niệm đạo đức của Khổng Tử chỉ lòng thương yêu q trọng con người. Chí nhân
(lịng nhân nghĩa ở mức cao nhất) thể hiện ở phương diện: ta không những khơng giết
kẻ bại trận mà cịn cấp phương tiện cho về nước.
16


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Dùng đại nghĩa và chí nhân để đối xử với kẻ bại trận khơng gây thù ốn để hậu
họa về sau, ấy cũng là đại nghĩa đối với nhân dân.
--› Như vậy, phát động chiến tranh vì nhân dân và kết thúc chiến tranh cũng vì
nhân dân.
* Khát vọng hồ bình, xây dựng nền độc lập, thái bình vững chắc cũng là một
biểu hiện của tư tưởng nhân nghĩa. (Đoạn cuối bài Đại cáo bình Ngơ).
3. Nhận xét
- Tư tưởng nhân nghĩa mang tính nhân đạo. sâu sắc, là đỉnh cao của văn chương
Việt Nam thế kỉ XV.
- Đây cũng là tư tưởng xuyên suốt trong tác phẩm của Nguyễn Trãi.
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đối với chúng ta ngày nay vẫn còn dữ

nguyên giá trị.
Đề số 6: Có nhận xét cho rằng: “Đại cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi là áng văn
có sự đàn cài của nhiều giọng điệu”. Từ thực tế cảm nhận của mình về tác phẩm
này, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
- Ở phương diện nghệ thuật, bài Cáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận
sắc bén và yếu tố văn chương truyền cảm; kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng
nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng
ca hào hùng, sôi nổi, mãnh liệt cùng một giọng điệu đa dạng gợi nhiều thú vị và hấp
dẫn cho người đọc:
+ Khi thì tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc.
+ Khi thì căm phẫn sục sơi trước tội ác của kẻ thù xâm lược.
+ Khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của dân đen con đỏ
+ Khi tại lo lắng trước những khó khăn và thử thách của cuộc kháng chiến
+ Khi hào hùng trong cảm hứng ngợi ca chiến thắng.
+ Khi thì trịnh trọng tuyên bố nền độc lập của dân tộc, đất nước.
- Qua phân tích giọng điệu để thấy được một Nguyễn Trãi khơng chỉ tài năng
trong lập luận (lí trí) sắc sảo, chặt chẽ mà cịn là con người của những cung bậc tình
cảm thể hiện ở giọng điệu đan cải tạo nên nét đặc trưng rất riêng cho bài Cáo: lúc
trầm lúc bổng, lúc mạnh mẽ dứt khoát nhưng có lúc lại dịu dàng da diết lắng sâu lòng
người
- Qua đây để một lần nữa học sinh lập luận và khẳng đình: Nguyễn Trãi là tinh
hoa của dân tộc (sự kết tinh của thời đại Lý Trần) nên giọng điệu bài Cáo cũng chính
là giọng điệu của dân tộc, của nhân dân; góp phần nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng
Nhân nghĩa của tác phẩm -Nhân nghĩa nhân dân

17


Chị Đẹp Dạy Văn

SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

18



×