Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận tìm hiểu nghiên cứu về nền văn minh Ai Cập cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.95 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
-----------

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN : LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI : Tìm hiểu về lịch sử hình thành và những nét văn
minh văn hóa đặc sắc của nền văn minh Ai Cập cổ đại.

GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY: TS. LÊ ĐỨC HOÀNG
HỌ TÊN:
Soupha SYAMPHON
LỚP:
CTPT K40A2
MÃ SINH VIÊN:
2055310071

HÀ NỘI 2022

MỞ ĐẦU


Văn minh là một nền văn hoá phát triển ở một trình độ cao của con
người, gắn với một thiết chế chính trị, xã hội nhất định từ sau chế độ
cơng xã ngun thuỷ.
Thời kì lịch sử cổ trung đại của Ấn Độ đã tồn tại một nền văn
minh rực rỡ. Trong số các điều kiện hình thành nên nền văn minh này thì
điều kiện địa lí có vai trị định hình nền móng ban đầu. Nhưng điều kiện
cơ bản nhất khẳng định sự phát triển về sau của nền văn minh đó chính là
yếu tố kinh tế.
Trong khn khổ bài Tiểu luận này, em xin phép được trình bày về
cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ cổ trung đại dưới góc nhìn của


điều kiện địa lí và điều kiện kinh tế.
Nền văn minh Ấn Độ là một nền văn minh nổi tiếng và thuộc về
những nền văn minh cổ nhất thế giới, bao gồm cả vùng đất ở các nước
như: Ấn Độ, Pakistan, Nepan, Bangladesh ngày nay. Hằng năm vào mùa
tuyết tan, nước từ dãy Himalaya theo sông Hằng và sông Ấn đổ xuống
vùng đồng bằng mang theo lượng phù sa lớn bồi đắp cho những cánh
đồng ở Bắc Ấn, nền văn minh ở lưu vực sông Ấn (3.000 - 1.800 Trước
công nguyên) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà
về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ.

NỘI DUNG
2


I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH:
I.1. Điều kiện địa lí.
Ấn Độ được coi nh mép tiểu lục địa nằm ở phía nam châu Á.Vào
thời kì hình thành và phát triển nền văn minh cổ trung đại thì lãnh thổ Ấn
Độ vẫn bao gồm cả Pa-ki-xtan, Băng-la-đet và Nê-pan.
Về mặt vị trí địa lí, bán đảo Ấn Độ có chiều ngang rộng từ 67 đến
87° kinh đơng và có chiều dài từ 7 đến 32° vĩ bắc. Phía đơng bắc, Ấn Độ
được ngăn cách với lục địa châu Á bằng dãy núi Hi-ma-lay-a cao nhất
thế giới. Ấn Độ chỉ có thể liên hệ bằng đường bộ với thế giới qua phía
tây-bắc, qua đèo Bolan, hoặc từ Ta-xi-la qua Ka-bul để đến I-ran và
Trung Á. Tuy nhiên 2 mặt phía tây nam và phía đơng nam của Ấn Độ
đều giáp biển. Vị trí của Ấn Độ nằm giữa đường biển từ Tây (Hồng Hải
và vịnh Ba-tư) sang Đơng (biển Đơng và Thái Bình Dương). Đây chính
là nơi dừng chân bắt buộc trên con đường hàng hải Tây- Đông. Đặc biệt,
với đường biển thuận lợi nh thế thì việc thơng thương giữa các vùng
khác trên thế giới với Ấn Độ hoặc từ Ấn Độ đi các nơi khác là hết sức dễ

dàng và thuận tiện.

Về mặt địa hình thì lãnh thổ Ấn Độ được chia thành 2 miền tương
đối rõ rệt qua sự ngăn cách của dãy núi Vindhya.

3


Nửa lãnh thổ phía bắc là lưu vực của 2 con sơng lớn: sơng Ấn
(Indus) ở phía tây- bắc và sơng Hằng (Ganga) ở phía đơng- bắc. Lưu vực
sơng Ấn một thời có điều kiện đất đai rất thuận lợi cho một nền kinh tế
nông nghiệp. Và đây là một trong những cái nơi để hình thành nền văn
minh cổ đại Ấn Độ. Tuy nhiên sau đó khu vực này đã bị chi phối bởi các
hiện tượng như hoang mạc hố, cát lấn... nên phần chủ yếu của lưu vực
sơng Ấn chịu tác động từ hoang mạc Thar. Tuy nhiên lưu vực sơng Hằng
thì màu mỡ và ổn định hơn.
Nửa lãnh thổ phía nam rất rộng lớn nhưng lại là vùng đất khơng có
nhiều ưu đãi. Mặc dù có hai mặt giáp biển nhưng ảnh hưởng của biển
không nhiều đối với khu vực này do hai dãy núi Gát-Đông và Gát-Tây
bao chắn ở hai bờ phía đơng và phía tây của bán đảo. Sự khép lại của hai
dãy núi này đã tạo nên một cao nguyên Đê-can khô hạn. Đây là vùng núi
cao, rừng rậm rộng lớn và khá khắc nghiệt. Tuy nhiên chạy dọc theo hai
bờ đông tây của bán đảo Ấn Độ là hai vùng đồng bằng duyên hải nhỏ
hẹp. Đây là những nơi điều kiện sống thuận lợi nên cư dân tập trung khá
đơng đúc.
Về mặt khí hậu, khí hậu Ấn Độ khá đa dạng xét theo chiều giảm
dần của vĩ độ. Phía bắc, vùng giáp chân núi Himalaya thì khí hậu rất
lạnh, có tuyết rơi. Nhưng ngay ở phía bắc Ên Độ, tính từ vĩ độ 23° bắc
thì khí hậu đã rất nóng và khơ do ảnh hưởng của đới chí tuyến. Vùng tây
bắc thuộc lưu vực sơng Ấn, khí hậu khơ nóng. Chính kiểu khí hậu này đã

tạo nên hoang mạc Thar rộng lớn, mỗi chiều khoảng 600 km. Và đến
lượt nó, hoang mạc Thar lại tác động trở lại đối với khu vực. Lưu vực
sơng Ấn vốn ít mưa lại chịu tác động trực tiếp từ hoang mạc Thar nên cát
bay dữ dội, phủ một líp dày trên hai bê trung lưu sơng Ấn. Nhưng phía
đơng bắc, vùng lưu vực sơng Hằng thì lại là một bức tranh khác hẳn.
Chịu ảnh hưởng của gió mùa từ biển thổi vào nên lưu vực sông Hằng có

4


mưa và thực vật phát triển tốt. Nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là trồng lúa
nước khá phát triển.
Dịch xuống phía nam, nh đã nói ở trên, là khu vực cao ngun Đêcan rất khơ, nóng và rất nóng. Nhưng ở vùng dun hải thì gió biển đã
đem lại mưa, khí hậu dịu mát hơn và có nhiều nước sinh hoạt cho người
dân ở đây.
Nh vậy Ấn Độ là một quốc gia có thiên nhiên đa dạng. Miền Bắc
có lắm sơng ngịi và nhiều điều kiện thuận lợi cho nơng nghiệp phát
triển. Miền Nam có lắm rừng nhiều núi, có sa mạc nóng cháy lại có mưa
gió theo mùa. Đây quả thật là một thiên nhiên vừa đóng kín, vừa cởi mở,
vừa là một tiểu lục địa thống nhất, cách biệt với bên ngoài, vừa chia cắt
và khác nhau ở bên trong, vừa hùng vĩ và cực kì đa dạng.
Chính sự đa dạng trên đây, đặc biệt là các điều kiện thuận lợi ở các
lưu vực sông ở miền Bắc mà cư dân cổ đại Ấn Độ đã sáng tạo nên một
nền văn minh rực rỡ. Trong điều kiện thời kì cổ đại, khi các yếu tố về
khoa học kĩ thuật chưa chi phối thì những điều kiện địa lí thuận lợi chính
là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền văn minh cổ trung đại Ấn
Độ.
I.2. Điều kiện kinh tế.
Kinh tế thời cổ trung đại Ấn Độ vừa là điều kiện để hình thành nên
các giá trị của nền văn minh Ấn Độ vừa là biểu hiện của nền văn minh

đó. Tuy nhiên, tương ứng với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền
văn minh cổ trung đại Ấn Độ thì sự phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn là
khác nhau. Vì thế, xin phép đựoc trình bày các điều kiện kinh tế theo các
giai đoạn của nền văn minh.
I.2.1 Thời kì văn minh lưu vực sông Ấn (từ đầu TNK III TCN đến
giữa TNK II TCN).
Nh trên chúng ta đã biết, khởi nguyên của nền văn minh cổ trung
đại Ấn Độ là nền văn minh sông Ấn (văn minh Indus). Từ rất sớm cư dân
5


Indus đã định cư trên lưu vực sông Ấn tạo nên các thành phố cổ với
những ngành kinh tế sơ khai.
Đầu tiên là ngành kinh tế nơng nghiệp. Thời kì này công cụ đồng
thau đã xuất hiện nhưng cư dân chưa biết đến kĩ nghệ đồ sắt. Họ không
trồng lúa nước mà trồng lúa đại mạch. Nông nghiệp đã khá phát triển
biểu hiện qua số thóc thừa chứa trong các kho đụn.
Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng đã có sự phát triển.
Sản phẩm thủ cơng nghiệp khá phong phú, từ công cụ lao động đến đồ
gốm, đồ trang sức... Sản phẩm thủ công nghiệp của Ấn Độ cũng đã có
mặt tại Lưỡng Hà và ngược lại. Do bn bán phát triển mà sản phẩm của
Lưỡng Hà cũng có mặt ở đây. Một con dấu hình trụ của Lưỡng Hà được
chế tạo mô phỏng theo kiểu của Ấn Độ đã nói lên quan hệ giao lưu
thương mại giữa hai vùng.
Tuy nhiên do nhiều lý do, trong đó có sự ảnh hưởng trực tiếp của
thời tiết mà sau đó cư dân sông Ấn đã loạn li. Hướng đi của cư dân Arya
là về phía đơng, định cư trên lưu vực sông Ganga. Lúc này cư dân bản
địa ở đây mới bước vào thời kì đồng thau, vừa chăn ni vừa làm nông
nghiệp sơ khai và chế tác đồ gốm. Người Arya đến và đã dạy người dân
bản địa cách dùng ngựa để chun chở. Cịn người bản địa thì lại dạy

người Arya cách trồng lúa nước. Vì thế, một ngành nông nghiệp định cư
đã thay thế cho chăn nuôi du mục, thực sự phát triển năng động, nhanh
chóng chiếm ưu thế và làm chủ lưu vực sơng Ganga.
Đó là cơ sở để làm nên nền văn minh ở lưu vực sơng Hằng.
I.2.2 Thời kì nền văn minh ở lưu vực sông Hằng (từ khoảng giữa
TNK II TCN đến giữa TNK I TCN).
Nh trên đã trình bày thì nơng nghiệp thời kì này ở lưu vực sơng
Hằng đã có những chuyển biến lớn. Cư dân đã biết dùng công cụ đồng
và đá để đẽo các dụng cụ bằng gỗ, nhất là lưỡi cày. Họ còn đan bện các
đồ dùng bằng lau sậy, thuộc da, làm đồ gốm, mà loại gốm phổ biến nhất
6


là gốm đen bóng có hoa văn giải băng chấm. Cuối giai đoạn này, từ
khoảng 800 năm TCN, kĩ nghệ luyện sắt đã được áp dụng. Điều này đã
thúc đẩy nghề đúc kim khí, làm đồ gỗ, nhất là xe kéo, nhà cửa.
Chính ở thời gian này thương nghiệp bắt đầu xuất hiện. Cư dân
trao đổi sản phẩm nông nghiệp và thủ cơng nghiệp giữa các vùng. Có lẽ
cũng đã xuất hiện ngoại thương. Các tài liệu có nói đến việc buôn bán
ven biển với vịnh Ba-tư và Hồng Hải qua đường biển Tây-Đơng. Hình
thức phổ biến trong bn bán vẫn là trao đổi trực tiếp tuy đã bắt đầu xuất
hiện hình thức vật trung gian.
Sự phát triển kinh tế nêu trên đã thúc đẩy sự phân hoá xã hội theo
tính chất nghề nghiệp. Họ gọi dân làm nghề chăn nuôi ở đông bắc Ấn Độ
là Panis và dân làm ruộng là Dasa. Suđra hẳn được dùng để chỉ tầng lớp
này.
I.2.3 Thời kì các quốc gia sơ kì ở miền bắc Ấn Độ (từ 600-321 TCN).
Đây là giai đoạn mà ở lưu vực sơng Ganga có sự hình thành của
hàng loạt tiểu quốc trong đó thừa nhận vai trị bá quyền của tiểu quốc
Magađa. Nhưng đây cũng là giai đoạn người Ấn Độ bắt đầu có sự tiếp

xúc với người Iran và người Hy lạp, mà một trong những biểu hiện của
sự tiếp xúc đó là sự xâm lược của Alêchxăngđrơ Makêđơnia vào phía tây
bắc Ấn Độ.
Tuy nhiên ở chính thời gian đó thung lũng sơng Hằng vẫn đứng
ngồi những biến động của lưu vực sông Ấn. Và mặc cho những thăng
trầm diễn ra, vùng này vẫn phát triển và đạt nhiều thành tựu mới.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển nhờ đất đai màu mỡ và hệ thống
thuỷ lợi được mở mang. Các ngành thủ cơng có nhiều tiến bộ. Nghề
luyện sắt và rèn đúc sắt lần đầu tiên nở rộ dưới thời Magađa. Các loại
mũi lao, giáo, mũi tên sắt... đã khá phổ biến.

7


Loại gốm đặc trưng của miền Bắc là loại có xương gốm mịn, tráng
màu xanh thẫm, ngả từ màu xanh thép sang sám thẫm và đen bóng. Chủ
yếu là đĩa và bát nhỏ- những mặt hàng thương phẩm có giá trị cao.
Về dệt, người Ấn Độ thời kì này đã dệt được vải trắng sợi bơng.
Cịn về thương nghiệp, thời kì này các nhà bn chun chở và
trao đổi hàng hố từ hạ lưu sơng Hằng đến cửa sơng Ấn rồi theo đường
biển đến vịnh Batư và Hồng Hải hoặc ngược sông Hằng lên Ta-xi-la và
theo đường bộ đến Iran và Tiền Á. Trong trao đổi người Ên Độ đã đúc
được tiền bạc và tiền đồng.
I.2.4 Thời kì vương triều Mơrya (321- 232 TCN).
Đây là thời kì kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp song đã
thừa nhận sự chiếm hữu tư nhân về ruộng đất. Việc khai khẩn đất hoang
thuộc về nhà nước. Người dân nhận ruộng của làng, tự canh tác và nộp
thuế.
Gắn với nông nghiệp là thuỷ lợi. Nhà nước rất quan tâm đến công
tác đắp đê, đào kênh, đập... để phát triển nông nghiệp.

Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có nhiều tiến bộ. Nhà
nước điều khiển việc chế tạo vũ khí và tàu thuyền bên cạnh các nghề thủ
công truyền thống. Thợ thủ công tập hợp lại với nhau trong các phường
hội. Việc buôn bán nội địa lúc này phát triển hơn nhiều do khơng cịn có
sự phân biệt quốc gia này với quốc gia khác từ bắc đến nam.
I.2.5 Thời kì phân liệt trên bán đảo Ấn Độ (232 TCN-320 sau CN).
Đây là thời kì Ấn Độ diễn ra sự phân chia các quốc gia với sự phát
triển khác nhau giữa các tiểu quốc ở các miền Nam-Bắc. Tuy nhiên có
thể nói rằng sau thời kì thống nhất của vương triều Mơrya thì đây không
phải là một giai đoạn khủng hoảng tan rã của Ấn Độ mà đây là sự chia
cắt để phát triển cao hơn, tương đối đồng đều hơn trong từng phạm vi
nhỏ hơn ở mỗi miền đất nước.
I.2.6 Từ triều đại Gupta đến triều đại Hacsa (từ 320 đến 648).
8


Nông nghiệp vẫn được chú trọng với việc khai hoang và làm
thuỷ lợi. Trong khi đó thì thủ cơng nghiệp khá phát triển. Nghề dệt là
nghề phát triển nhất và có ý nghĩa hàng đầu đối với kinh tế. Tiếp đến là
khai mỏ và luyện kim, đặc biệt là nghề làm đồ trang sức đã đạt đến trình
độ nghệ thuật cao và hoàn thiện.
Thương nghiệp cũng được phát triển với mạch máu giao thơng
chính là con sơng Hằng. Hàng hố trao đổi rất phong phú. Một loạt các
hải cảng quan trọng đã thu hót các tàu bn từ Trung Quốc, Ai Cập,
Đơng Dương, Mã Lai...
I.2.7 Thời kì bị chia cắt và xâm lược (giữa thế kỉ VII đến thế kỉ XII).
Nhìn chung kinh tế Ấn Độ thời kì này sa sút dù rằng cũng đã
được duy trì ở một mức độ nhất định để phục vụ chiến tranh.
Nông nghiệp được canh tác 2 mùa với những kĩ thuật canh tác
mới. Sản phẩm thừa từ nông nghiệp được mang ra trao đổi khá phong

phú. thời gian này thợ thủ công được các chóa phong kiến đưa vào thành
phố nên thủ cơng nghiệp ở thành thị phát triển mạnh. Ngoại thương vẫn
được duy trì nhưng thời kì này người ta cịn biết buôn bán cả với Nhật
Bản. Thương nhân cũng tập hợp lại trong các đẳng cấp.
I.2.8 Thời kì Xuntan Đêli và Ấn Độ Mơgơn (thế kỉ XIII đến thế kỉ
XIX).
Thời kì Xuntan Đêli: Nền kinh tế với nông nghiệp vẫn là chủ yếu
nhưng thời kì này năng suất đã tăng lên. Thủ công nghiệp vẫn phát triển
các ngành truyền thống làm cho ngoại thương cũng trở nên tấp nập với
nhiều hải cảng ở vịnh Bengan, biển Arập...
Bước sang thời kì vương triều Môgôn, với sự tập trung nhất định
của nhà nước trong việc điều hành đất nước thì nền kinh tế Ấn Độ đã
được nâng cao hơn nhiều. Ngoài trồng cây lương thực người ta cịn trồng
các loại cây cơng nghiệp. Mỗi thành phố hải cảng thường có một nghề

9


thủ cơng riêng nhưng thương mại của thành phố đó mới là quan trọng
nhất.
Nhìn chung mỗi thời kì nền kinh tế Ấn Độ có những bước phát
triển riêng nhưng về cơ bản ngành kinh tế truyền thống của nước này vẫn
là nông nghiệp và công thương nghiệp. Giao lưu trao đổi nội vùng và với
thế giới bên ngoài phát triển mạnh. Nhờ đó, nền văn minh cổ trung đại
Ấn Độ vừa có những thành tựu đa dạng khẳng định những giá trị của văn
hố truyền thống vừa có sự tiếp thu những tinh hoa văn hố từ bên ngồi
vào. Như vậy kinh tế chính là một trong những điều kiện qui định tính
chất và trình độ của nền văn minh cổ trung đại Ên Độ.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH.
Trong bối cảnh điều kiện tự nhiên của các lưu vực sông ảnh

hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế và văn hoá nên các thành tựu của
nền văn minh Ấn Độ có những đặc điểm riêng. Về cơ bản, các thành tựu
đó tập trung trên một số lĩnh vực sau:
II.1 Về chữ viết.
Chữ viết của Ấn Độ được sáng tạo đầu tiên vào thời văn hố
Happara. Tại lưu vực sơng Ấn đã phát hiện tới trên 3000 con dấu khắc
chữ đồ hoạ. Đây là một loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần. Loại
chữ này được viết từ phải sang trái. Điều đặc biệt là các con dấu này
được đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hoá, chứng tỏ nền kinh
tế, đặc biệt là việc trao đổi hàng hố đã rất phát đạt. Chi tiết đó càng
chứng tỏ kinh tế chính là điều kiện làm nên văn minh nh đã phân tích ở
trên.

10


Đến thế kỉ V TCN thì xuất hiện một loại chữ, đó là Kharosthi,
phỏng theo chữ của vùng Lưỡng Hà. Sau đó xuất hiện chữ Brami được
sử dụng rộng rãi, đặc biệt trên bia mộ của Axôca. Trên cơ sở chữ Brami,
người Ấn Độ đã đặt lại chữ Đêvanagari có cách viết thuận tiện hơn. Loại
chữ này còn được dùng tới ngày nay tại Ên Độ và Nêpan.
II.2. Văn học.
Trong cuộc sống sinh hoạt, đấu tranh sinh tồn, chống thiên tai và
chống xâm lấn, nền văn học Ấn Độ đã ra đời và có nhiều thành tựu đáng
kể. Hai bộ phận quan trọng của văn học là sử thi và Vêđa.
II.2.1. Vêđa.
Thơng qua hình thức các bài ca và những bài cầu nguyện, các tập
của Vêđa không những phản ánh bối cảnh xã hội Ấn Độ ở thời kì tan rã
của chế độ cơng xã thị téc, hình thành một xã hội có giai cấp và nhà nước
mà cịn là bức tranh về cuộc sống của cư dân Ấn Độ ở thời điểm đó. Đó

là nội dung của 3 tập đầu tiên: Rích Vêđa, Xama Vêđa và Yagiua Vêđa.
Cịn tập cuối cùng là Atacva Vêđa lại đề cập đến một lĩnh vực
khác, đó là chế độ đẳng cấp, việc hành quân hay cả một số mặt của đời
sống xã hội.
Và sau 4 tập kinh Vêđa là một số tác phẩm viết bằng văn xi, tuy
nhiên khơng có nhiều giá trị.
II.2.2. Sử thi.
Có hai bộ sử thi rất nổi tiếng đó là Mahabharata và Ramayana.
Đây là hai bộ sử thi đồ sộ được truyền miệng từ nửa đầu thiên niên kỉ I
TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ.
- Mahabharata (nghĩa là cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata) là
bộ sử thi dài nhất thế giới gồm có 18 chương và một chương bổ sung tài
11


liệu, gồm 220.000 câu. Đây là tác phẩm phản ánh cuộc đấu tranh trong
nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ên Độ.

Cả hai bộ sử thi trên là những cơng trình sáng tác tập thể của nhân
dân Ấn Độ trong nhiều thế kỉ và đã trở thành niềm tự hào của nhân dân
Ấn Độ cho tới tận ngày hôm nay, là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm
văn học đương đại của Ấn Độ.
Ngoài hai tác phẩm đã nói ở trên, văn học Ấn Độ thời kì này còn
phải nhắc đến tên tuổi của nhà thơ, nhà soạn kịch lớn nhất thời đại
Gupta. Đó là Caliđaxa với tác phẩm tiêu biểu nhất là vở kịch Sơcuntla.
Đây là một nhà văn lớn của thế giới.
II.3.Về thiên văn học.
Người Ấn Độ từ thời cổ đại đã tính ra rằng một năm có 12 tháng,
một tháng có 30 ngày, một ngày có 30 giê và cứ 5 năm thì lại có một
năm nhuận.


12


Do yêu cầu của cuộc sống sản xuất nông nghiệp nên cư dân cổ Ấn
Độ sớm có những quan sát bầu trời và vũ trụ và tính tốn, cho dù những
tính tốn đó có thể là chưa chính xác. Tuy nhiên việc họ cho rằng Trái
Đất và Mặt Trăng hình cầu là hồn tồn chính xác. Họ cịn biết được quĩ
đạo của Mặt Trăng, biết được 5 hành tinh là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả,
Thổ...
II.4. Tốn học
Cịng do hoạt động sản xuất nông nghiệp và buôn bán khá phát
triển nên nhu cầu tính tốn là rất cần thiết. Vì thế người Ấn Độ đã phát
minh ra một loạt các khái niệm, con số có ý nghĩa to lớn cho tốn học
ứng dụng ngày nay. Vĩ đại nhất có lẽ là việc người Ấn Độ đã sáng tạo ra
10 chữ số đếm ngày nay, mà tài liệu có sử dụng sớm nhất các chữ số đó
là ở trên bia đá của Axơca (thế kỉ 3 TCN).
Ngồi ra, người Ấn Độ đã tính được số π bằng 3,1416. Họ cũng đã
phát minh ra được đại số học. Cịn trong hình học họ biết tính diện tích
hình vng, hình chữ nhật, hình tam giác, đa giác, tính được quan hệ
giữa các cạnh trong tam giác vng...
Có thể nói tốn học xuất hiện từ bản thân cuộc sống của cư dân Ấn
Độ cổ đại và đến lượt nó tốn học đã ứng dụng thiết thực vào chính nhu
cầu của cuộc sống đó.
II.5. Về vật lí học.
Phát minh lớn nhất đó là thuyết nguyên tử của các nhà khoa học
kiêm triết học người Ấn Độ. Trường phái triết học Vaisêsica cho rằng
vạn vật đều do nguyên tử tạo nên, vật chất khác nhau là do nguyên tử
khác nhau. Ngoài ra người Ấn Độ cũng đã biết đến sức hót của quả Đất...
Đây rõ ràng là những nhận thức ban đầu rất quan trọng, đặt nền móng

cho các ngành vật lí học về sau.
II.6. Về y dược học.

13


Ấn Độ cổ đại đã có nhiều thành tựu rất lớn và sớm hơn nhiều so
với các nước khác. Ngay trong tập Vêđa, các thầy thuốc đã biết dùng
phẫu thuật để chữa bệnh. Ngoài ra, từ những thế kỉ 5 - 4 TCN người Ấn
Độ đã biết cách chắp xương sọ, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận... với hàng
trăm thứ thuốc thảo méc.
Ngoài những ngành khoa học trên đây, người Ấn Độ cịn có những
hiểu biết về các lĩnh vực nh hố học, sinh học, nơng học..
II.7. Về nghệ thuật.
Cuộc sống phong phú cùng với sự giao lưu văn hoá đã làm nên
những nét đặc sắc của kiến trúc, điêu khắc của nền văn minh Ấn Độ.
Kiến trúc phát triển là sự phản ánh sinh động nhất sự phát triển
kinh tế. Từ thời Harappa đến thời Môrya, kinh tế có một bước phát triển
nhanh làm cho kiến trúc gạch đã được thay thế bằng kiến trúc đá qua các
cung điện, chùa, tháp, trụ đá...
Thời kì trị vì của Asơca, ơng ta đã xây cho mình một tồ hồng
cung lộng lẫy. Cung điện chính là một tồ nhà 3 tầng và được trang trí
bằng những tác phẩm điêu khắc rất đẹp.
Tháp là một cơng trình kiến trúc Phật. Có một tồ tháp cịn tồn tại
tới ngày nay, đó là tháp Xansi ở miền Trung Ấn Độ.
Trụ đá cũng là một cơng trình kiến trúc Phật giáo. Trên trụ đá
thường người ta khắc lên đó các sắc lệnh của vua. Mét trong những trụ
đá tiêu biểu nhất cịn sót lại là trụ đá ở Xácna.
Trong thời kì cổ trung đại ở Ấn Độ kiến trúc đền chùa là kiến trúc
tiêu biểu của các tôn giáo. Đây được coi là những công trình nghệ thuật

có sự kết hợp giữa kiến trúc với điêu khắc và hội hoạ. Có những gian
chùa được cấu tạo khoét sâu vào trong hang núi dùng để thờ Phật. Ngồi
ra cịn có những ngơi chùa lớn được xây bằng gạch và đá. Đặc biệt ở
ngơi chùa Tajino có một ngọn tháp xây hình Kim tự tháp. Đây cũng là
một cơng trình kiến trúc nổi tiếng.
14


Từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIX, dưới thời Xuntan Đêli và Môgôn, do
việc đạo Hồi trở thành quốc giáo nên đã xuất hiện nhiều cơng trình kiến
trúc được xây dựng theo kiểu Trung Á và Tây Á. Đó là những nhà thờ,
cung điện, lăng mộ... mà đặc điểm chung của kiểu kiến trúc này là có
mái hình trịn, cửa vịm và có tháp nhọn. Một số cơng trình có sự kết hợp
với phong cách truyền thống. Chúng ta khơng thể khơng nhắc tới lăng
Taj Mahan, cơng trình kiến trúc tiêu biểu nhất thời Môgôn ở thế kỉ XVII.
Để làm nên tuyệt tác này, các kiến trúc sư và thợ thủ công của nhiều
nước nh Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kì... Tồn bộ cơng trình này được xây
bằng đá cẩm thạch trắng. Nghệ thuật điêu khắc cũng được phát huy bằng
rất nhiều nét chạm trổ. Các phần của lăng được bố trí rất cân đối, hài hồ.

Đền Taj Mahan
Về nghệ thuật tạc tượng, phải mãi tới thế kỉ I mới được chú ý phát
triển. Tượng Phật ngày một nhiều hơn, mà tiêu biểu nhất là pho tượng
bằng đá ở Ganđara. Khơng chỉ có tượng Phật, các vị thần của đạo Hinđu
15


cũng được các nghệ nhân thể hiện khá phong phú, chủ yếu là các vị thần
có hình thù rất đáng sợ.
Nhìn chung, trong số các lĩnh vực đã xét trên đây thì nghệ thuật

chính là lĩnh vực chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ tơn giáo. Nội dung triết
lí của các tôn giáo tồn tại ở Ấn Độ qua các thời kì đã qui định tư tưởng
và giá trị nghệ thuật của các tác phẩm.
II.8. Tơn giáo.
Nói tới Ấn Độ không thể không nhắc tới tôn giáo. Đây là một
quốc gia phương Đông với đầy đủ những đặc điểm đặc trưng. Tuy nhiên
điểm đặc biệt hơn của Ấn Độ so với các quốc gia phương Đơng khác
chính là ở chỗ Ấn Độ là một quốc gia đa tôn giáo. Mặc dù sự ngự trị của
mỗi tôn giáo trong đời sống chính trị và tư tưởng của Ấn Độ ở mỗi giai
đoạn là khác nhau song về cơ bản chúng ta có thể xét một số tơn giáo lớn
đã và đang tồn tại trong lịch sử Ên Độ như sau:
II.8.1. Đạo Bàlamơn- Đạo Hinđu.
* Sự hình thành và đặc điểm về giáo lí của đạo Bàlamơn:
- Sự hình thành.
Vào đầu thời kì Vêđa, trong quan niệm tư tưởng của người Ấn Độ
cịn có nhiều dấu vết của thời kì ngun thuỷ. Họ cho rằng vạn vật đều
có linh hồn cho nên trong tín ngưỡng họ sùng bái nhiều thứ.
Đến đầu thiên niên kỉ I TCN, chế độ đẳng cấp đã phát triển khá
sâu sắc trong đời sống xã hội. Các tín ngưỡng dân gian đã được tập hợp
thành một thứ tôn giáo lớn: Đạo Bàlamơn.
- Đặc điểm:
Do đặc điểm hình thành nêu trên có nhiều nét rất tự nhiên nên có
thể thấy đạo Bàlamơn là một tơn giáo khơng có người sáng lập, khơng có
tổ chức giáo hội chặt chẽ.
Bàlamơn là một tôn giáo đa thần: Thần cao nhất là thần Brama- vị
thần sáng tạo thế giới. Tuy nhiên cũng có nơi lại đặt vị thần Siva- thần
16


phá hoại thế giới ở vị trí cao nhất. Có nơi vị trí đó lại thuộc về thần

Visnu- thần bảo vệ ánh sáng, thần 4 mùa, thần làm cho nước sông Hằng
dâng lên và làm mưa để tưới tiêu cho đồng ruộng...
Cho tới đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành 2 phái: phái thờ
thần Siva và phái thờ thần Visnu. Để thống nhất về tư tưởng, đạo
Bàlamôn đưa ra quan niệm rằng 3 thần đó tuy là 3 nhưng vốn là mét .
Đạo Bàlamôn sùng bái rất nhiều con vật nh voi, khỉ, bị...
Giáo lí: Đạo Bàlamơn có thuyết ln hồi. Đó là một thuyết tơn
giáo cho rằng linh hồn của con người là một bộ phận của Brama. Mà
Brama tồn tại vĩnh hằng cho nên con người cũng có sống có chết nhưng
linh hồn thì cịn mãi mãi và sẽ luân hồi trong những kiếp sinh vật khác
nhau. Người nào giữ đúng luật lệ tôn giáo và các qui tắc của thần định
sẵn thì sẽ được đầu thai ở kiếp sau, ngược lại sẽ bị đầu thai làm chã lợn
và những động vật bẩn thỉu khác nếu vi phạm những điều cấm kị...
Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn bảo vệ đắc lực cho chế độ đẳng cấp
đang tồn tại ở Ên Độ.
Do sự phân hoá giai cấp, sự phân cơng nghề nghiệp mà chế độ
đẳng cấp được hình thành bao gồm:
+ Braman(Bàlamôn) là đẳng cấp của những người tôn giáo.
+ Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sỹ.
+ Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân.
+ Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ.
Tuy vậy, tăng lữ Bàlamơn dùng uy lực của thần linh để giải thích
hiện tượng xã hội Êy, bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp thống trị trong
xã hội lúc bấy giê. “Bàlamôn có quyền là chóa tể của tất cả các tạo vật
Êy”. (luật Manu đầu cơng ngun). Ngồi Balamơn, chỉ có Ksatơrya và
Vaisya được trở thành tín đồ của đạo Blamơn và đều được sinh ra hai lần.
Còn Suđra chỉ được sinh có một lần và khơng được dự những buổi lễ tôn
giáo
17



* Sự hình thành và giáo lí của đạo Hinđu:
- Sự hình thành:
Thế kỉ IV, đạo Phật xuất hiện ở Ấn Độ, đạo Bàlamơn bị suy thối.
Cho tới thế kỉ VII, đạo Phật lại bị suy sụp. Nhân tình hình đó thì đạo
Bàlamơn lại phục hưng dần dần. Cho đến thế kỉ VIII và IX, đạo Bàlamơn
có bổ sung thêm nhiều yếu tố mới và từ đó được gọi là đạo Hinđu, hay
cịn gọi là Ên Độ giáo.
- Giáo lí: Đạo Hinđu ra đời trên cơ sở đạo Bàlamôn nên về cơ bản
nội dung tư tưởng của nó khơng có nhiều thay đổi. Đối tượng sùng bái
của đạo Hinđu vẫn là 3 vị thần: Brama, Siva và Visnu. Có khác chăng là
quan niệm về các vị thần này đã rõ ràng và sâu sắc hơn. Đạo Hinđu cũng
chia thành hai phái, còng chú trọng thuyết luân hồi, và đặc biệt vẫn hết
sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp.

Cơng trình kiến trúc Hin đu giáo
II.8.2. Đạo Phật.
* Sự hình thành:
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Xitđacta
Gôtama, sau khi tu thành phật đã được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni
(Thích ca Mâu ni). Xitđacta Gơtama đi tu là để tìm đến con đường cứu
18


vít nỗi khổ của lồi người. Đến 35 tuổi, ơng đã nghĩ ra cách giải thích
bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau và ông cho rằng đã tìm
được ra con đường cứu vít đúng đắn. Từ đó ơng được gọi là Buddha
(người ta qn gọi là Phật hoặc Bụt, có nghĩa là người đã giác ngộ hoặc
người đã hiểu được chân lí).
Ngày nay tín đồ đạo Phật lấy năm 544 TCN là năm mở đầu kỉ

nguyên Phật giáo.
* Học thuyết:
Nội dung chủ yếu được tóm tắt “Trước đây và ngày nay ta chỉ lí
giải và nêu ra cái chân lí về nỗi khổ đau và sự giải thốt khỏi nỗi đau
khổ”. “Cịn nh nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta
chỉ có một vị là cứu vớt” (Phật Thích ca).
Chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ thể hiện
trong thuyết “tứ thánh đế ” bằng “tứ diệu đế ”, “tứ chân đế ”, “tứ đế ”,
nghĩa là 4 chân lí thánh. Tứ đế bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
Về thế giới quan, đạo Phật có thuyết duyên khởi, bằng các pháp
đều do nhân duyên mà có. Phật cho rằng duyên khởi là do tâm mà ra,
tâm là nguồn gốc của vạn vật. Phật chủ trương “vơ tạo giả” tức là khơng
có vị thần nào sáng tạo ra vũ trụ. Tư tưởng này đã chống lại giáo lí của
Bàlamơn và là sự khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo khác. Phật cịn
chủ trương vơ ngã, tức là khơng có những thực thể vật chất tồn tại một
cách cố định, chống lại tư tưởng bản ngã của đạo Bàlamơn. Phật cịn chủ
trương vô thường, tức là mọi sự vật đều trong q trình sinh ra, biến đổi,
tiêu diệt chứ khơng bao giê ổn định.
Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp.
Phật mong muốn một xã hội có vua nhưng vua có đạo đức, dùa vào luật
để thống trị chứ khơng chun quyền độc đốn, cịn nhân dân thì được an
cư lạc nghiệp.
* Quá trình phát triển:
19


Sau khi Phật tịch, đạo Phật được nhanh chóng truyền bá ở miền
Bắc Ên Độ. Từ thế kỉ III TCN, đạo Phật được truyền bá sang Xrilanca,
Myanma, Thái Lan, Inđônêxia...
Đến khoảng năm 100 sau công nguyên, đạo Phật triệu tập đại hội

và thơng qua giáo lí của đạo Phật cải cách bằng phái Đại thừa. Sau đại
hội này, đạo Phật lại tiếp tục được truyền bá mạnh ở Trung Á, Trung
Quốc và trở thành quốc giáo của Xrilanca, Mianma, Thái Lan,
Campuchia, Lào...
Ngoài đạo Hinđu và đạo Phật, ở Ấn Độ cịn tồn tại một số tơn giáo
khác nh đạo Jain, đạo Xích... Thực sự tơn giáo đóng vai trị khơng thể
thiếu được trong đời sống tinh thần của cư dân Ấn Độ, ảnh hưởng và chi
phối tình hình chính trị – xã hội của Ấn Độ. Đây là một trong những
thành tựu đáng kể nhất trong nền văn minh cổ trung đại Ấn Độ.

20


KẾT LUẬN
Không thể kết luận về lịch sử Ấn Độ như kết luận về lịch sử Ai
Cập, Babylone hoặc Assyrie được vì lịch sử Ấn Độ cịn đương tiếp tục,
nền văn minh đó cịn đương sáng tạo nữa. về phương diện văn hóa, Ấn
Độ nhờ tiếp xúc về tinh thần với phương Tây, đã nhận được một sinh lực
mới và văn học của Ấn Độ ngày nay cũng phong phú, có một trình độ cao
như bất kỳ nước nào khác, về phương diện tâm linh, xứ đó cịn đương
chống với thói mê tín, và với một thần học mà địa vị cịn mạnh q,
nhưng biết đâu chừng các chất a-xít của khoa học hiện đại chẳng làm tiêu
tan khá mau các thần linh thừa thãi của họ? Về phương diện chính trị, hơn
một trăm năm vừa qua đã tặng cho Ấn Độ một sự thống nhất ít thấy trong
lịch sử của họ: thống nhất một phần nhờ một chính quyền ngoại quốc,
một phần nhờ một ngoại ngữ , nhưng thứ nhất là nhờ toàn dân đều hoài
bão chung một ước vọng: được tự do. về phương diện kinh tế, Ấn Độ
đương ra khỏi tình trạng trung cố để bước vào đường kĩ nghệ hiện đại:
sức sản xuất và thương mại.
Tóm lại, những thành tựu của nền văn minh cổ trung đại Ấn Độ là

cực kì phong phú và nổi bật. Những nét văn hố trong nền văn minh đó
vừa mang những nét chung của văn hố Á Đơng, vừa có tác dụng định
hình những bản sắc riêng của văn hố Ấn Độ. Những thành tựu đó có thể
vẫn đang tồn tại hoặc cũng có thể đã khơng cịn, nhưng chúng vẫn vẹn

21


nguyên sự vô giá đối với lịch sử hiện đại của Ấn Độ và đối với loài
người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amalnach những nền văn minh thế giới, NXB văn hóa thông
tin, Hà nội, 1995.
2. Đặng Đức An (Chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, NXBGD,
1995
3. Lê Phụng Hoàng (Chủ biên), Lịch sử văn minh thế giới,
NXBGD, 1999
4. Lê Phụng Hồng, Hà Bích Liên, Trần Hồng Ngọc, Các cơng
trình kiến trúc nổi tiếng trong lịch sử thế giới cổ-trung đại, NXBGD,
1999
5. Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử văn hóa thế giới cổ–trung đại,
NXBGD
6. Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, NXBGD,1995
7. Vò Dương Ninh (Chủ biên), Lịch sử văn minh thế giới,
NXBGD.
8.

/>
nhung-thanh-tuu-noi-bac/

9.

/>
%A4n_ %C4%90%E1 %BB%99

22


PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH ………………………………………………2
I.1. Điều kiện địa lý ……………………………………………………..2
I.2. Điều kiện kinh tế…………………………………………………….4
I.2.1. Thời kỳ nền văn minh lưu vực sông Ấn…………………………..4
I.2.2. Thời kỳ nền văn minh lưu vực sơng Hằng………………………..5
I.2.3. Thời kì các quốc gia sơ kì ở miền bắc Ấn Độ……………………6
I.2.4. Thời kì vương triều Mơrya………………………………………7
I.2.5. Thời kì phân liệt trên bán đảo Ấn Độ……………………….…..7
I.2.6. Từ triều đại Gupta đến triều đại Hacsa……………….….…….7
I.2.7. Thời kì bị chia cắt và xâm lược…………………………………...8
I.2.8. Thời kì Xuntan Đêli và Ấn Độ Mơgơn………………...….............8
II. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH………………………………..9
II.1. Chữ viết…………………………………………………………9
II.2. Văn học…………………………………………………………10
II.3. Thiên văn học……………………………………………………12
II.4. Toán học…………………………………………………………...12
II.5. Vật lý…………………………………………………………….13
II.6. Y dược học……………………………………………………….13
II.7. Nghệ thuật ………………………………………………………13
23



II.8. Tôn giáo…………………………………………………………..15
II.8.1. Đạo Bàlamôn- Đạo Hinđu………………………………………16
II.8.2. Đạo Phật…………………………………………………………18
KẾT LUẬN…………………………………………………………21

24



×