Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TRAO DUYÊN Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.84 KB, 16 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

TRAO DUYÊN
Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
I. MỞ BÀI
Nguyễn Du cùng với những tên tuổi như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm,... đã trở thành những tượng đài bất hủ của thơ ca Việt Nam. Nhắc đến
Nguyễn Du không thể không nhắc đến kiệt tác văn chương của nhân loại là "Truyện
Kiều". "Truyện Kiều" ra đời vào thế kỉ XVIII, được viết dựa trên cốt truyện của tiểu
thuyết chương hồi Trung Quốc là “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân.
Tác phẩm được chuyển thể thành truyện kể bằng thơ, viết theo thể lục bát. Thông qua
câu chuyện cuộc đời thăng trầm của nhân vật chính Thúy Kiều, tác phẩm phản ảnh
hiện thực xã hội và bộc lộ tinh thần nhân đạo. Đoạn trích “Trao dun” có một vị trí
đặc biệt trong Truyện Kiều. Về phương diện cốt truyện, đoạn thơ đánh dấu bước
ngoặt lớn trong cuộc đời nhân vật chính – Thúy Kiều, mở đầu cuộc đời lưu lạc, đau
khổ. Về phương diện chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ.
Về phương diện nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du
trong miêu tả nội tâm nhân vật.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhan đề: Duyên là để cho con người ta gặp gỡ, để mà u nhau và nếu có phận
thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Duyên nợ thường là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết
tóc nối duyên. Nhan đề đoạn trích cũng nhắc đến chữ duyên, nhưng trớ trêu thay đây
khơng phải là tình dun thơ mộng của đơi nam nữ mà là chuyện tình dun tan vỡ.
Có đọc mới hiểu được nhan đề “Trao duyên” là gửi duyên, gửi tình của mình cho
người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở. Thúy Kiều trước phút dấn
thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình khơng giữ trọn lời đính ước
với người u, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn
thơ khơng chỉ có chuyện trao dun mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy


Kiều.
- Vị trí đoạn trích: Trích đoạn gồm 34 câu, từ câu 723 đến câu 756/3254 câu thơ,
thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” trong Truyện Kiều. Sau khi gia đình gặp cơn gia
biến, của cải bị bọn sai nha vét sạch, cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn
quan lại địi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xi”. Kiều phải bán mình cho Mã
Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối
cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy
Vân vào trao duyên mình cho em với Kim Trọng. Đây là đoạn thơ mở đầu cho 15
năm đoạn trường của Thúy Kiều.
2. Đoạn 1:
2.1. Kiều nhờ cậy Thúy Vân
Đêm trước khi lên đường theo Mã Giám Sinh, Kiều một mình thao thức, chịu
đựng nỗi đau:
Một mình nàng ngọn đèn khuya
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Áo đầm giọt lệ, tóc se mái đầu.
Kiều ngổn ngang bao nỗi băn khoăn, trăn trở và nàng dằn vặt mình khi nghĩ về
Kim Trọng, thấy mình đã phụ tình u của chàng Kim:
Hở mơi ra cũng thẹn thùng
Để lịng lại phụ tấm lịng với ai.
Sau đó, Kiều đã quyết định trao duyên cho Thúy Vân, thuyết phục Thúy Vân
thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Ngay từ những câu thơ mở đầu, đoạn trích đã thể
hiện một tình huống éo le, lạ lùng và tế nhị:
Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,
Thúy Kiều mở lời nhờ cậy em bằng những lời lẽ khẩn khoản, tha thiết và đầy
tin tưởng. Điều đó thể hiện rõ qua cách sử dụng các từ ngữ: cậy, chịu, lạy, thưa. Cậy
là tin tưởng mà gửi gắm, hi vọng nên mới nhờ; chịu là bắt buộc, thông cảm mà chấp
nhận; hai từ lạy, thưa vừa tạo khơng khí trang trọng vừa thể hiện sự thay đổi vị trí
thơng thường vì chị mà lại phải lạy em. Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy
Vân, sẽ không cần "thưa" hay "lạy", nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt
mình vào vị trí của người đi nhờ vả, chịu ơn với ân nhân của mình mà lạy lục, van
xin. Việc tôn Thúy Vân thành bề trên, bảo em "ngồi lên" để mình lạy, thưa đã cho
thấy Thúy Kiều ý thức được gánh nặng mình sắp trao cho Thúy Vân, khiến em có thể
phải chấp nhận nhiều thiệt thịi. Kiều có lẽ cũng hiểu rằng nếu nhận lời giúp đỡ, Vân
sẽ phải lấy một người mình chưa chắc đã u, người đó lại cả đời đuổi theo hình
bóng của chị mình. Như thế thì cuộc đời Thúy Vân có thể cũng bi kịch lắm thay.
Nhưng đây cũng là việc Thúy Vân phải làm cho gia đình trong cơn gia biến.
2.2. Kiều kể cho Vân nghe chuyện tình yêu của mình
Tiếp đó, Kiều đã nói với Vân ngun cớ sự tình, nói với em việc hệ trọng mà
mình muốn nhờ:
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kiều nói với Vân về chuyện tình đứt đoạn. Trong đó, thành ngữ “đứt gánh tương
tư”chỉ mối tình dở dang, lỡ làng của Kim Kiều. Keo loan được làm từ máu của con
chim loan, được dùng để chắp vá cho mối duyên của em và Kim Trọng. Cụm từ chắp
mối tơ thừa có ý nghĩa Kiều nhờ Vân tiếp nối mối duyên dở dang và hiểu tình cảnh
của em phải chấp nhận mối duyên thừa của người khác. Mặc em có nghĩa là ủy thác,
giao phó cho em. Qua cách sử dụng ngơn từ tinh tế, Kiều muốn nói với Vân rằng vì
tình u đứt gánh, nàng khơng cịn cách nào khác là trông đợi sự giúp đỡ của em và
giờ chỉ cịn biết tin tưởng mà phó mặc cho em.
Để Vân có thể hiểu và tiếp nối chuyện tình dở dang nên trong nước mắt của sự
đau đớn và tuyệt vọng, Kiều kể cho Vân nghe câu chuyện tình u của mình. Có lẽ vì
thế mà nhận xét về đoạn trích, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình

khơng mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình
sự”. Mối tình Kim Kiều thơng qua lời kể của Thúy Kiều thật thiêng liêng, sâu nặng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khơn lẽ hai bề vẹn hai.
Từ khi gặp chàng Kim, tình cảm lứa đơi tha thiết, mặn nồng. Ngay từ lần đầu
gặp gỡ trong tiết thanh minh, tình yêu của Kim Kiều đã được Nguyễn Du miêu tả:
“Hai mắt cùng liếc, hai lòng cùng xiêu”. Các hình ảnh thể hiện hình ảnh tình u đơi
lứa như: quạt ước – tặng quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, chén thề - uống rượu thề
nguyền chung thủy, cùng với cách sử dụng cặp từ chỉ thời gian ngày – đêm đã khẳng
định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lịng, sâu sắc. Những tưởng cả hai sẽ có
tình u ngọt ngào, được hưởng hạnh phúc mãi mãi nào ngờ gia đình gặp biến cố
khiến tình duyên lỡ dở. Hai câu thơ sau đã chỉ rõ ngun nhân khiến Thúy Kiều phải
bội ước."Sóng gió bất kì" đột ngột ập đến khi Kim Trọng về quê chịu tang chú. Gia
đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, chỉ khi Kiều bán thân dùng tiền ấy hối
lộ, chuộc cha thì mới mong qua cơn hoạn nạn. Hoàn cảnh trái ngang buộc Kiều phải
chọn một giữa hai lẽ "hiếu" và "tình": “Duyên hội ngộ, đức cù lao – Bên tình bên
hiếu bên nào nặng hơn”. Cuối cùng vì chữ “hiếu” nặng ngàn cân, vì ơn sinh thành
dưỡng dục nàng quyết giữ đạo hiếu: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng
để giữ trọn chữ hiếu, Kiều đã phải hy sinh tình yêu. Nàng tỏ nỗi lịng với Vân, dùng
nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể đồng cảm, thấu hiểu
cho và chấp nhận lời cậy nhờ của mình. Lời lẽ của nàng Kiều cho thấy trong đau khổ

tuyệt vọng, nàng vẫn luôn lo lắng cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cơ gái
có đức hi sinh lớn lao.
2.3. Kiều tiếp tục thuyết phục Thúy Vân
Sau khi Thúy Vân hiểu rõ ngọn ngành thì Kiều tiếp tục thuyết phục mong em
nhận lời:
“Ngày xn em hãy cịn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mịn
Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây”.
Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xn
em hãy cịn dài”. Phải chăng Kiều muốn nói với em giờ đây vì chị đã vướng bận
chuyện gia đình, sắp làm lẽ người ta và em vẫn còn son rỗi, chưa vướng bận nên hãy
giúp chị. Để thuyết phục em, Kiều còn lay động ở em tình ruột rà máu mủ, trách
nhiệm với gia đình, thậm chí viện cả cái chết ra để thuyết phục em. Các thành ngữ
"tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mịn", "ngậm cười chín suối" đã thể
hiện mong muốn thiết tha của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng như
di nguyện cuối đời nhất định phải thực hiện, chỉ cần Vân nhận lời kết duyên với Kim
Trọng, thì cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy an lịng, mãn nguyện. Trong tình thế
ấy, Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng Kiều. Vậy nên có thể nói, Thúy
Kiều tỏ ra sắc sảo mặn mà ngay cả trong bi kịch của đời mình, đúng như Nguyễn Du
đã viết về nàng “Kiều càng sắc sảo mặn mà” hoặc “Thơng minh vốn sẵn tính trời”.
Tiểu kết: Bằng thể thơ lục bát được sử dụng nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp
với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và kết hợp tinh tế ngôn ngữ
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


bác học với ngơn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa thành công nỗi dằn vặt, đau
đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm trịn chữ hiếu của Kiều. Từ đó, ta thấy được
tiếng nói lên án xã hội, lịng u thương và sự cảm thơng sâu sắc của Nguyễn Du
dành cho người con gái tài hoa bạc mệnh. Chính giá trị hiện thực và giá trị sâu sắc
nhân đạo mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ
độc giả ấn tượng sâu sắc.
3.Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò em
3.1. Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân
Biết là Thúy Vân đã thuận lòng, Thúy Kiều trao cho em những kỉ vật tình yêu:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lịng chẳng qn!
Mất người cịn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
- Các kỉ vật tình u đó là chiếc vành (vòng) Kim Trọng trao cho Kiều để làm tin,
bức tờ mây là tờ giấy ghi lời thề nguyền hay thư từ giữa hai người, phím đàn và mảnh
gỗ thơm đốt dở trong đêm nàng đánh đàn, chàng đốt hương thề nguyền. Những kỉ vật
của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ là minh chứng cho tình yêu sâu nặng. Những
kỉ vật ấy từng được Kiều nâng niu, giữ gìn bởi mỗi kỉ vật đều gắn liền hạnh phúc tình
yêu của Kim – Kiều. Bây giờ, Kiều trao lại hết những kỉ vật ấy cho em, trao đi để
Thúy Vân và Kim Trọng có vật làm tin, để khơng làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của
hai người.
- Vẫn biết kỉ vật phải trao đi nhưng Kiều trao kỉ vật mà trong lịng xiết bao đau
đớn. Nàng đau đớn tự nhận mình là người mệnh bạc. Số phận bạc bẽo ấy có lẽ Kiều
đã dự cảm được ngay từ khi vẫn sống trong cảnh “Êm đềm chướng rủ màn che –
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Bất hạnh đã được báo hiệu từ bản đàn “Bạc
mệnh” hay ở sự nhạy cảm của nàng với số phận Đạm Tiên, khi bắt gặp nấm đất sè sè
bên đường trong tiết thanh minh:
Rằng hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Và còn biết bao đau đớn nữa thể hiện qua từ của chung đầy phi lí: “Dun này thì
giữ, vật này của chung”. Duyên đã trao đi rồi nhưng kỉ vật thì chẳng nỡ lịng nào
bng bỏ, Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung" của cả hai chị em. Nội tâm Thúy
Kiều lúc này hẳn đang có sự yếu mềm, ích kỉ và tâm lí này cũng thật dễ hiểu, bởi tình
yêu ai dễ để nhường cho ai. Nàng vừa trao kỉ vật vừa muốn giữ lại phần của mình
trong đó, vừa mong Thúy Vân và Kim Trọng có cuộc sống vợ chồng êm đềm, hạnh
phúc nhưng lại cũng muốn họ khơng bao giờ qn mình: “Xót người mệnh bạc ắt
lòng chẳng quên”. Nguyễn Du ở đây đã thấu tỏ và thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ sâu
sắc với nỗi niềm của nàng Kiều, qua đó cũng thể hiện tiếng nói tố cáo đối với xã hội
đã chà đạp lên hạnh phúc và phẩm giá của con người.
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

3.2. Kiều dặn dò em
- Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên: Kỉ vật đã trao đi, đã trọn vẹn nghĩa tình
nhưng Kiều khơng tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn, trái lại nàng đau đớn tưởng
chừng như đã chết. Quá khứ hạnh phúc, tươi đẹp vừa mới đây thôi thế mà giờ đây đã
trở thành quá vãng. Hạnh phúc trong quá vãng giờ chỉ làm Kiều nhận thức rõ hơn
hiện tại mất mát, đau thương. Nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Mất người còn chút
của tin”, đối lập giữa của còn và người mất đã cho thấy Thúy Kiều ý thức sâu sắc về
tình yêu tan vỡ, đau đớn đến mức như thấy mình đã mất đi. Các hình ảnh chập chờn,
hư ảo, đầy âm khí như lị hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, dạ đài…càng thể
hiện rõ Thúy Kiều thấy mình nửa sống, nửa như hồn ma.
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lị hương ấy, so tơ phím nàv.

Trơng ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn cịn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Dạ đài khuất mặt cách lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan”.
- Kiều dặn dị em: Lời Kiều nói với Thúy Vân cũng trở nên huyền hồ như từ cõi
âm vọng về. Nàng nhìn về tương lai là “Mai này”, trong tương lai ấy Kim Trọng và
Thúy Vân hạnh phúc bên nhau cùng “đốt lị hương”, “so tơ phím này” cịn nàng thì
đã chết. Nàng dặn dị em, mai này khi thấy cỏ cây hiu hiu gió thì đó là linh hồn của
nàng hiện về. Từ “bồ liễu” là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ yếu đuối, “nát
thân bồ liễu” ý chỉ cái chết đau đớn cả về linh hồn lẫn thể xác của nàng Kiều bạc
mệnh. Nhưng dù cho có “nát thân bồ liễu”, “thịt nát xương mịn” thì dưới tuyền đài
mối tình thanh mai trúc mã cũng vẫn cịn chưa tan. Hồn Kiều vì cịn nặng lời thề và
chết oan nên khơng siêu thốt, vẫn vương vấn ở chốn trần gian, quanh quẩn ở ngọn
cỏ lá cây, trong cơn gió hiu hiu trở về thăm lại tình xưa. Những vần thơ của Nguyễn
Du khiến người đọc đau xót thay số phận nàng Kiều, cho người con gái tài sắc vẹn
toàn nhưng sớm rơi vào đau thương, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng
đến chết vẫn nghĩ đến lời thề hẹn. Nàng thấy có lỗi với chàng Kim, thấy mình là
người phản bội lời thề:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa
Kiều dặn Thúy Vân, mai này dẫu có âm dương cách trở thì nàng vẫn mong nhận
được sự đồng cảm của Thúy Vân và Kim Trọng. Kiều mong họ có thể hiểu cho nỗi
oan khuất mà nàng phải đa mang mà đồng cảm với nàng, thể hiện sự đồng cảm bằng
việc “Rưới xin chén nước cho người thác oan” để linh hồn nàng được an ủi.Thật là:
“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.

5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

4. Kiều trở về với thực tại và hướng về Kim Trọng
4.1. Kiều ý thức về thực tại
Nếu đoạn thơ trước là đối thoại giữa Thúy Kiều với Thúy Vân thì những câu thơ
sau là độc thoại nội tâm của Thúy Kiều hay cũng có thể nàng Kiều tưởng Thúy Vân
trước mặt là Kim Trọng nên chuyển sang nói với chàng:
“Bây giờ trâm gãy, gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thơi!
Phận sao phận bạc như vơi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Kiều ý thức rõ về hiện thực đang hiện hữu của mình. Điều đó được thể hiện rõ qua
các thành ngữ được dùng rất sáng tạo: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”,
“phận bạc như vơi”, “nước chảy hoa trơi”. Trong đó, trâm và gương là những vật
dụng để điểm tô nhan sắc người phụ nữ, trai gái ngày xưa thường tặng nhau làm kỉ
niệm tình yêu. Thế mà bây giờ trâm gãy, gương tan, tình duyên đã tan vỡ, tơ duyên
thành ngắn ngủi. Các từ ngữ “ngắn ngủi”, “ngần ấy” nhấn mạnh quãng thời gian hạnh
phúc đôi lứa sao quá ngắn ngủi và nỗi đau vì duyên phận lỡ làng đã khiến hai người
không được ở bên nhau suốt đời, suốt kiếp. Với hai thành ngữ “phận bạc như vôi”,
“nước chảy hoa trơi” ta thấy, Kiều lại một lần nữa nhận mình là người mệnh bạc,
than khóc cho số phận bạc bẽo, cho cuộc đời như bông hoa đẹp lênh đênh trôi nổi,
phó thác cho dịng đời xơ đẩy. Nghệ thuật đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa tình
cảm là muôn vàn ái ân với tơ duyên ngắn ngủi đã thể hiện rõ nét tình yêu vẫn hiện

hữu, vẫn đầy khao khát nhưng phải chia lìa đầy đau đớn. Mỗi lời của nàng Kiều đều
làm động lòng thương của hết thảy chúng ta, thương cho thân phận người phụ nữ
trong xã hội xưa bất lực, phó mặc số phận cho kẻ khác vì khơng có tiếng nói, khơng
có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình. Đúng như Nguyễn Du đã khái quát:
Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã muôn phần bất hạnh. Vậy mà nàng
Kiều cịn trót đa đoan, mang thêm bi kịch của người con gái có đủ sắc tài:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau
4.2. Kiều hướng về Kim Trọng trong day dứt, nghẹn ngào
- Không chỉ ý thức và đau đớn cho cảnh tình của bản thân, cho tình u của mình,
dịng nội tâm của Thúy Kiều còn đầy day dứt khi nghĩ về Kim Trọng. Nàng dường
như quên mình, nhận hết tội lỗi về mình và ln nghĩ và chu tồn cho Kim Trọng. Đó
chính là đức hi sinh cao thượng rất đáng ca ngợi ở nàng Kiều.
- Trong đoạn thơ, nàng nhắc đến Kim Trọng nhiều lần. Nàng gọi Kim Trọng là
tình quân (người yêu) rồi gọi chàng là Kim lang (như một người chồng) và cụm từ
“Trăm nghìn gửi lạy” cho thấy Thúy Kiều trước sau đều yêu quý và kính trọng Kim
Trọng. Cái lạy của nàng với Kim Trọng không phải cái lạy của người chịu ơn như
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

nàng đã lạy trước Thúy Vân mà là cái lạy thống thiết của người muốn tạ tội. Nàng
nhận chữ “phụ” về mình, mặc cảm tội lỗi là người phụ bạc và đau đớn, tức tưởi gọi
tên tình nhân trong mê sảng:
“Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thơi thơi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Cách sử dụng ngôn từ biểu cảm với hư từ “Thôi thôi”, các thán từ “ôi”, “hỡi” và
gọi tên Kim Trọng đến hai lần khiến hai câu thơ như một tiếng kêu xé lòng. Thúy
Kiều như chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời, để rồi sau đó nàng đã ngất đi:
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Về nghệ thuật: Thể thơ lục bát uyển chuyển, linh hoạt phát huy tính nhạc và
diễn tả được cảm xúc, kết hợp đối thoại và độc thoại nội tâm, nghệ thuật miêu tả tâm
lí nhân vật sắc sảo, tinh tế. Ngơn ngữ giàu giá trị biểu cảm, đậm chất trữ tình, trang
trọng mà bình dị. Sử dụng sáng tạo các điển tích, từ cổ và thành ngữ, từ ngữ dân gian
cùng các biện pháp tu từ như điệp từ, ngữ...
- Về nội dung: Đoạn trích “Trao duyên” cho thấy số phận bất hạnh của Thúy
Kiều. Ở đó, đại thi hào Nguyễn Du đã bày tỏ sự đồng cảm, xót thương chia sẻ sâu sắc
với người con gái như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như
Mộng Liên Đường: Khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của
Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Qua "Trao duyên",
Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ
hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất cơng, bạc bẽo đã đẩy con người vào
cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng
hạnh phúc. Truyện Kiều vì thế thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
LUYỆN ĐỀ
Đề bài 1: Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích“Trao duyên”
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét đặc sắc nhất về tác giả, tác phẩm và vị trí của đoạn tích.
- Dẫn dắt đặt vấn đề (diễn biến tâm lí nhân vật trong đoạn trích).
II. Thân bài:
1. Khái quát: Tk ý khái quát của bài phân tích trên
2. Đoạn 1: Tâm trạng bình tĩnh, lí trí (Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình
trả nghĩa cho Kim Trọng)

- Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa).
Lời xưng hô của Kiều vừa như trông cậy, vừa như nài ép, phù hợp để nói về vấn đề tế
nhị “tình chị dun em”.
- Kể mối tình của mình với chàng Kim: thắm thiết, mặn nồng
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Kiều lay động ở Vân tình ruột rà máu mủ và viện cả cái chết để mong em nhận
lời.
=> Cách nói của Kiều thể hiện sự thơng minh khơn khéo, qua đó thể hiện tài năng
bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du.
2. Đoạn 2: Tâm trạng đau đớn, tiếc nuối (Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân và
dặn dị em)
- Kiều kỉ vật tình u cho em. Chú ý cách trao duyên – trao lời tha thiết, tâm
huyết; trao kỉ vật lại dùng dằng nửa trao, nửa níu – để thấy tâm trạng của Kiều trong
thời khắc đoạn trường này: Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và
tình cảm. Kiều trao dun chứ khơng muốn trao tình.
- Dự cảm về cái chết cứ trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều ; trong lời độc thoại nội
tâm đầy đau đớn, Kiều hướng về người yêu với tất cả tình yêu thương và mong nhớ.
3. Đoạn 3: Tâm trạng đau đớn, day dứt (Kiều ý thức về thực tại và như tâm
sự với Kim Trọng)
- Từ chỗ nói với em Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người u ; từ giọng
đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho số phận bất hạnh, khóc cho mối tình đầu
trong sáng, đẹp đẽ vừa mới chớm nở đã tan vỡ.
- Day dứt hướng về Kim Trọng và nhận chữ phụ về mình rồi đau đớn đến mức
ngất đi.

=> Với nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngơn ngữ độc
thoại sinh động, đoạn trích Trao dun đã ánh lên vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể
hiện qua nỗi đau đớn khi tình yêu tan vỡ và sự hy sinh đến quên mình vì hạnh phúc
của người thân.
3. Kết bài:
- Tài năng xuất sắc của Nguyễn Du trong việc khám phá và thể hiện quy luật nội
tâm sâu sắc của con người.
- Đoạn trích thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp
của Thúy Kiều, qua đó thấy được cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du.
Đề bài 2: Nhận xét về đoạn trích Trao duyên (Truyện Kiều- Nguyễn Du), có ý
kiến cho rằng: “ Cái thần của đoạn thơ là ở chỗ: Trao dun mà khơng trao được
tình! Đau khổ vô tận! Cao đẹp vô ngần!”
Anh ( chị) hãy phân tích đoạn trích Trao duyên để làm sáng tỏ ý kiến trên.
I. Mở bài:
Giới thiệu Nguyễn Du, Truyện Kiều và đoạn trích Trao duyên. Dẫn nhận
định.
II. Thân bài
1. Giải thích nhận định:
- “Cái thần của đoạn thơ”: Ý chỉ nội dung chủ yếu nhất, quan trọng nhất tạo
nên cái hồn, tạo nên giá trị cho đoạn trích.
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- “Trao dun mà khơng trao được tình!”: Chữ “dun” theo quan niệm của
Phật giáo chỉ sự gắn bó với nhau từ kiếp trước hay nói cách khác chỉ tình u, hơn
nhân nam-nữ. Qua đoạn trích, ta thấy Thúy Kiều đã trao được mối nhân duyên của

mình với Kim Trọng cho Thúy Vân nhưng khơng thể trao được tình u của nàng
dành cho Kim Trọng.
- “Đau khổ vơ tận!”: Đó là tâm trạng của Kiều khi phải dằn lòng trao mối
duyên đẹp đẽ, trao đi khát khao hạnh phúc và cả sau khi nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho
Kim Trọng rồi nhưng Kiều không thanh thản mà đau đớn đến tột cùng.
- “Cao đẹp vơ ngần!”: Qua đoạn trích chúng ta thấy được quan niệm về tình
yêu đẹp đẽ, đúng đắn, tiến bộ cùng với vẻ đẹp đáng quý về trí tuệ và nhân cách của
Kiều.
=> Khẳng định nội dung quan trọng tạo nên giá trị của đoạn trích là ở ở chỗ:
Trao duyên đi rồi mà tình cảm thì cịn sâu nặng. Từ đó thể hiện nỗi đau và ca ngợi vẻ
đẹp của nhân vật Thúy Kiều.
2. Phân tích, chứng minh
2.1. Thuý Kiều trao được duyên cho Thúy Vân (Đoạn 1)
+ Hoàn cảnh đặc biệt khác thường (chú ý sắc thái biểu cảm của các từ ngữ
"cậy", "lạy", "thưa"). Lời xưng hô của Kiều vừa như trông cậy vừa như nài ép, phù
hợp để nói về vấn đề tế nhị "tình chị duyên em".
- Kể mối tình của mình với chàng Kim: thắm thiết, mặn nồng
- Kiều lay động ở Vân tình ruột rà máu mủ và viện cả cái chết để mong em
nhận lời.
=> Cách nói của Kiều thể hiện sự thông minh khôn khéo, Vân mặc nhiên phải
chấp nhận.
2.2.Kiều khơng thể trao được tình u - Đau khổ vô tận (Đoạn 2 + Đoạn 3)
- Kiều trao duyên cho em. Chú ý cách trao duyên - trao lời tha thiết, tâm huyết
nhưng trao kỉ vật lại dùng dằng, nửa trao, nửa níu - để thấy tâm trạng của Kiều trong
thời khắc đoạn trường này có sự giằng xé dữ dội giữa lí trí và tình cảm trong hành
động trao kỉ vật (vật này của chung).
- Dự cảm về cái chết trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều ; trong lời độc thoại nội
tâm đầy đau đớn, Kiều hướng tới người yêu với tất cả tình yêu thương và mong nhớ.
- Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người u ; từ
giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu trong

sáng, đẹp đẽ vừa mới chớm nở đã tan vỡ.
2.3.Cao đẹp vô ngần:
- Quan niệm về tình yêu của Kiều: tình yêu - tình cảm thủy chung, mãnh liệt và
thiêng liêng, tình gắn với nghĩa thể hiện sự đúng đắn, tiến bộ.
- Trong hoàn cảnh bi kịch, Kiều vẫn thể hiện được vẻ đẹp của một trí tuệ thơng
minh, sắc sảo (qua lời thuyết phục thấu tình đạt lí của Thúy Kiều với Thúy Vân).
- Đức hy sinh, lòng vị tha của Kiều.
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

+ Luôn nghĩ cho người khác.
+ Nhận hết lỗi lầm về mình.
3. Bình luận
- Lời nhận định đã chỉ ra cái thần, linh hồn, điều cốt lõi, đặc sắc của đoạn trích Trao
dun, thể hiện đúng tình cảnh éo le và tâm trạng cũng như vẻ đẹp của nhân vật Thúy
Kiều.
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của lời nhận định.
- Nêu cảm xúc, suy nghĩ về tài năng ( nghệ thuật ngơn từ, miêu tả tâm lí nhân vật) và
tấm lịng của Nguyễn Du qua đoạn trích.
Đề bài : Tiếng nói nhân đạo mới mẻ và sâu sắc qua Trao duyên và Tình
cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Cần chốt được các điểm mới mẻ:
- Mới mẻ về nghệ thuật: Đi sâu vào thế giới nội tâm của con người
- Mới mẻ về nội dung:
+ Quan tâm đến người phụ nữ.

+ Quan tâm và đòi quyền sống, quyền cá nhân của con người, đặc biệt là
quyền hạnh phúc lứa đôi.
Bài làm
Nếu bản nhạc hay là bản nhạc được dệt nên bằng cảm xúc, nếu bức tranh đẹp
là bức họa được vẽ bằng tâm hồn thì một bài thơ hay phải là những vần thơ được kết
tinh cao độ từ một trái tim nồng nàn hơi thở nhân đạo. Như nguồn nhựa sống dồi dào,
mạch nguồn nhân đạo, long yêu thương là cơ sở để đóa hoa thơ nở rộ dưới ánh mặt
trời và dễ dàng chạm khẽ trái tim người trong thiên hạ. Và nếu hoa có trăm hương thì
tình u thương cũng có trăm đường để thể hiện. Đó chính là tiếng nói sâu thẳm nhất
khơng trộn lẫn của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương.
Từ cổ chí kim, vạn vật luôn vận động theo những quy luật riêng của nó. Tất cả
các hành tinh trong hệ mặt trời đều phải quay xung quanh nó. Mọi vận động trên trời
đất đều xoay quanh chất và lượng. Trung tâm của văn học cũng trên cơ sở đó, mọi
vấn đề phản ánh đều tập trung xoay quanh con người. Con người là đối tượng trung
tâm của văn học. Văn học chỉ thực sự có giá trị khi “nó vì cuộc đời mà có”. Do đó,
đời sống cuộc sống xã hội lồi người chính là mảnh đất dồi dào, phong phú và tràn
ngập điều mới mẻ, kích thích trái tim của những kẻ “ nặng nợ với đời” hay “ nâng
giấc mơ cho người khác”. Đó là những cá nhân ln “ mở hồn ra đón lấy những vang
động của cuộc sống”, nên tâm hồn của họ luôn dễ xao động, dễ rung cảm trước mọi
chuyển biến của vạn vật, của con người dù là nhỏ nhất“. Con hãy lắng nge nỗi buồn
của cành cây khô héo, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt, nhưng
trước hết con hay lắng nghe nỗi buồn của con người”. Do đó, “ từ bao giờ đến bây
giờ, từ Hômerơ đến knh thi tới ca dao Việt Nam” con người vẫn luôn là chủ thể của
văn học. Bao yêu ghét hờn giận, bao hạnh phúc khổ đau, bao thành công thất bại của
con người luôn là niềm trăn trở, day dứt khôn nguôi đối với tâm hồn nghệ sĩ.
10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Có thể nói tình u thương con người là động lực thôi thúc trái tim nghệ sĩ
rung động để rồi tiếng long thiết tha của tác giả theo ngòi bút tràn rat rang giấy. Có lẽ
vì vậy mà Sê-Khốp đã quả quyết; “ nhà văn lớn phải là nhà nhân đạo từ trong cốt
tủy” và một văn sĩ nổi tiếng khác lại phát biểu một cách hàm súc và đầy ấn tượng: “
Nhà văn là người cho máu”, tình yêu như một viên ngọc sáng lung linh nhưng nó trở
thành “ viên kim cương long lánh dưới ánh mặt trời” bởi nó đã được mài từ chính sự
hy sinh trong cuộc đời độc nhà văn.Người nghệ sĩ muôn đời đều cất lên tấm lịng
thấm đẫm tình thương, niềm trâ trọng ngợi ca con người mỗi khi hồn mình rung lên
những tiếng tơ lịng như một nhà văn Xơ Viết từng tâm sự: “ Khi tôi viết nghĩa là toi
thấy đau ở đâu đó”. Nhà văn sáng tạo nên tác phẩm khơng thể khơng gửi vào đó cái
nhìn đầy tình u thương nhưng lại rất đổi mới mẻ và độc đáo. Tóm lại, văn học phản
ánh cuộc sống một cách đa chiều, có những cái nhìn sâu sắc về cuộc sống thơng qua
lăng kính chủ quan của tác giả và tấm lòng nhân đạo của một “ người vẫn còn mang
vết thướng, đã lại đi chữa vết thương cho người khác”.
Trải qua hàng nghìn lớp sóng bụi của thời gian, bao mùa thu qua đi, bao ngày
xuân thay áo,có những thứ đã chìm vào dĩ vãng, lui vào cõi vĩnh hằng. Nhưng cũng
có những tác phẩm vượt qua những định luật băng hoai của thời gian tìm đến với hậu
thế, có những tấm lòng nhân đạo chưa bao giờ ngủ, trăm năm vẫn cịn thức:
“Thời gian qua kẽ tay
Làm khơ những chiếc lá
Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát cịn xanh”
“Những câu thơ cịn xanh” ấy có thể kể đến Nguyễn Du-ngôi sao băng đã đưa
Truyện Kiều lướt qua đêm trường trung cổ tối tăm mịt mù. Và không thể khơng kể
đến đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, một bức màn tâm trạng được hé
mở. Cả hai tác phẩm tưởng chừng như hai đường thẳng song song hóa ra lại giao
nhau ở tấm lịng nhân đạo sâu sắc của hai trái tim ấm nồng hơi thở con người. Tấm
lịng nhân đao hay đó là vẻ đẹp tâm hồn của những thi nhân luôn dành một tình u

sâu sắc, một tấm lịng cảm thương đối với những người phụ nữ có số phận đầy sóng
gió mưa sa, như cành hoa tàn bị vùi dập giữa biển khơi đầy sóng gió, tìm đâu chẳng
thấy bờ. Với họ, chỉ có thể dùng “hịng nhan họa thủy” nghe thì rất trang trọng nhưng
đắng cay, ngậm ngùi thay. Thế nên, với những tấm lịng nhân đạo lớn thì một giọt
nước mắt người phụ nữ rơi cũng như một hạt châu, là tấm kính biến hình vũ trụ. Một
nét buồn mịn mỏi trên gương mặt phận hồng nhan có thể ví như mũi dao đăm thẳng
vào tim những con người ấy-nhà nhân đạo lớn của thời đại. Đề tài là thế, tình yêu
thương dành cho thân phận hồng nhan bạc mệnh là thế, nhưng ở hai tâm hồn khác
nhau, hai cái nhàn khác nhau, hai góc độ khác nhau, lại cho ra những hạt nhân đạo
màu sắc lóng lánh khác nhau. Chung nhưng lại riêng như hai mặt của đồng tiền vậy,
trơng thì có vẻ là một nhưng nó chẳng bao giờ có thể hợp nhất được.
Khi nhắc đến hai tiếng; “phụ nữ” thì có vẻ như đề tài này khơng phải đến văn
học trung đại mới xuất hiện mà nó đã nở rộ từ những ngày đầu của thời kì lịch sử nói
chung, chặng đường văn học nói riêng:
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài cát, hạt ra ruộng cày
“Thân em như trái bần trơi
Gió dập sóng dồi, biết tắp vào đâu”
Người phụ nữ muôn đời đều là mảnh đất bất tận thử thách tài năng khám phá
của người nghệ sĩ. Nếu giai đoạn đầu văn học dân gian và trung đại thường xây dựng
những con người ngun phiến với tính tình khơng thay đổi mà bất diệt. Nhưng nhân
vật của Tố Như thì khơng như thế. Ông nhìn con người như một thực thể sinh động
và biến đổi theo hoàn cảnh. Những nỗi đau khổ đến quặn thắt con tim đã được

Nguyễn Du tái hiện lại qua bức tranh btâm trạng đầy đau đớn của Vương Thúy Kiều
qua trích đoạn đầy đau đớn được Nguyễn Du xẻ một nữa trái tim cho những mất mát
ấy Đọc cả đoạn, dường như ta khơng cị thấy từ ngữ nưã mà bao trùm lên đó là một
màn độc thoại đầy nước mắt tan thương của người con gái ấy:
“Rằng: lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Ngỏ mơi ra cũng thẹn thùng
Để lịng thì phụ tấm lịng với ai”
Khơng đợi đến khi Kiều đã trần tình đầy đủ sự tình ta mới nhận biết được bi
kịch của nàng. Nguyễn Du đã từng bước cho ta đi vào thế giới nội tâm với những dằn
vặt ghê gớm đang diễn ra tận đáy sâu cõi lòng nàng. Hóa ra đối với một cá nhân, cái
giá trị đích thực của nó được xác lập bởi sự tồn tại của thế giới nội tâm và những hệ
lụy mà nó phải gánh chịu cũng khởi đi từ đó.
Màn trao duyên thực sự bắt đầu khi trong lời Kiều xuất hiện một giọng bất
thường, nghiêm trọng;
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Nguyễn du đã rất thành công khi sử dụng từ ; “ cậy, chịu” thay vì “nhờ, nhận”.
Các thanh trắc có âm vực thấp ở những tiếng ấy gợi được vẻ ấm ức của tâm trạng mà
ngay sắc thái ngữ nghĩa của chúng cũng làm nổi bật sự vật vã trong nội tâm của Kiều:
“Cậy” là ủy thác trong niềm tin tưởng tuyệt đối cho ai đó về một việc rất mực qaun
trọng. “Chịu lời” là nhận lời trong thế bị nài ép, bị thua thiệt. Quả là Kiều khơng chỉ
nói khó mà cịn làm khó qua cử chỉ trái với lễ giáo gia phong; rước em gồi lên để bái
lạy, sau đó mới thưa nguyện vọng tha thiết của mình. Nàng là người thơng minh chu
tồn mọi thứ và có tình sâu nghĩa nặng với những ai đã từng hay sắp sửa gia ân cho
mình. Mặt khác, ta cịn thấy sự tinh tế rất mực của Nguyễn Du khi chọn được những
từ đắt để miêu tả nội tâm và tính cách nhân vật. Phải chăng điều mà tác giả muốn là
độ căng của tâm trạng chứ không phải là cái chi tiết tự sự lặt vặt mà độc giả có thể tự
đốn định hay tự do thêm vào. Sau đó, Kiều đã trần tình một mạch thơng suốt khơng
hề gián đoạn:

“Giữa đường đứt gán…cịn thơm lây”
Tâm trạng như những đợt sóng khi thăng khi trầm. Giờ là lúc nàng cần phải
tỉnh táo để gỡ mối tơ cuối ùng đầy phức tạp. Đoạn thơ được ông viết ra một cách
12


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

khúc chiết, gối len nhau một cách liên tục. Có một sự tương hợp kì lạ giữa nhịp điệu
của lời thơ và nhịp điệu của tâm trạng, tình cảm. Đúng là “một dây một buột ai dằng
cho ra”. Nếu ở câu trước ta thấy Kiều như dùng tư cách người chị để ép, để phó thác
chuyện “chắp mối tơ thừa”, thì ở câu sau lời nàng thật thấu tình đạt lí. Nếu Vân nhận
lời thì khơngchỉ vì nàng là phận em nên buột phải nhận mà vì nàng đang làm một
việc nghĩa, một việc lớn làm thơm danh chob gia đình, chongười thân. Nguyên Du
thương Kiều thì đã cho nàng làm trịn chữ hiếu dù phụ nghia mốitình đầu trong sáng
thơ ngây. Thế nhưng dù lí trí đến đâu thì tận sâu trong trái tim nàng vẫn là người con
gái yếu ớt, vẫn khát khao được yêu, được hưởnh hạnh phúc. Ấy thế nên, Kiều vẫn
muốn níu kéo một cái gì, vẫn âm thầm hy vọng hồn mình cịn có cơ hội trở về với
dương thế, nhờ những tín vật, kỉ vật xưa “ Duyên này thì giữ, vật này của chung”.
Niềm luyến nhớ, nuối tiếc mối tình đầu, nỗi đau đớn trước sự tan vỡ của giấc mơ
hạnh phúc ddã chi phối mạnh mẽ tính mạch lạc của lời Kiều nói, làm cho nó đơi khi
trở nên mâu thuẫn, đây chính là bằng chứng ngơn từ sống động nhất chỉ lối cho ta tìm
về những nghịch lí của tâm trạng kẻ đang đau khổ. Qua đó, ta cảm trước tấm lịng
nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, ơng đã cho nhân vật làm tròn chữ hiếu dù hy dinh
đi quãng thời gian tươi đẹp của thanh xuân sau này Đồng thời, thông qua cách khắc
họa sự sắc xảo, thông minh, tinh tế của Kiều đã cho ta hình dung ra tấm lòng của tác
giả: trân trọng vẻ đẹp của con người dù trong bất cứ tình thế nào, người phụ nữ trong
thơ văn của ai có thể xấu, nhưng trong những áng thơ đậm hơi thởv tình người của

Nguyễn Du thì đó đều là những người: “Sắc đành địi một, tài đành họa hai”
Sự gắng gượng của lí trí cũng đã đạt đến giới hạn cuối cùng Sau đó, lí trí
bng xi cho tình cảm bi thiết “điều hành” lời lẽ. Những vâu nói gỡ liên tiếp được
thốt ra từ Kiều:
“Dù em nên vợ nên chồng
… giọt nước cho người thác oan”
Lúc trước, Kiều chưa kịp nghĩ đến bản thân, bây giờ nàng thấy thương mình vơ
hạn. Trước, Kiều mong em vì xót tình máu mủ hãy thay lời nước non Hơn thế, giúp
Kiều cũng vì Kim Trọng. Sau, Kiều như muốn khẩn cầu em đối thương đến mình
như cô hồn khi vất vưởng chốn dạ đài, khi lại bơ vơ miền duong thế. Kiều chẳng cịn
gì nữa hết, chẳng cịn lí do gì để tồn tại, lấy cớ gì mà ép buột ai? Thật tội nghiệp cho
nàng vì chính nàng cũng thấy mình tội nghiệp! Hồn cịn mang nặng ước xưa nhưng
nẻo về đã tuyệt, âm dương cách trở, mặt chẳng thể chạm mặt cịn lời thì bị nuốt
chửng bởi hư vô. Nỗi đớn đau như thế là đã đạt đến mức tuyệt cùng. Bề ngoài, Kiều
như đang nói với em, nhưng tận sâu bên trong, phải chăng Kiều đang tự nhủ với lịng
mình? Kiều đang thực sự sống trong ảo giác? Nguyễn Du đã giúp người đọc hình
dung về sự thốt xác của một tấm linh hồn bắt đầu phiêu diêu vào miền vô định theo
sự nới rộng nhẹ nhàng như làn khói.
Nói chuyện “mai sau”, do mải để hồn đi theo tưởng tượng mà nàng chưa kịp để
ước mắt chảy dàn. Khi quay lại với thực tế đổ vỡ ngổn ngang, đau đớn quá, Kiều đã
khóc, nước mắt vỡ òa ra.Cay đắng!.;
“Bây giờ trâm gãy gương tan
13


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

….phụ chàng từ đây”

Trâm đã gãy, gương đã tan và tất cả đã là “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Những
thành ngữ chỉ sự tan vỡ đã xoáy sâu vào nỗi đau của Kiều-một nõi đau chưa từng có
trong đời. Các thán từ “ôi, hỡi, thôi thôi” không ngớt muôn vàn đau khổ, tình cảm
của Kiều đã lâm li tới cực đại. Giọng điệu chì chiết, đay nghiến số phận của nàng thì
được diễn tả rất nổi bật ở câu: “Phận sao phận bạc như vôi” với sự trùng điệp của từ
phận và sự xuất hiện của so sánh lạnh ngắt như nhát chém vơ tình vào tim độc giả. Ta
xót cho số phận Kiều bao nhiêu thì Nguyễn Du càng rỉ máu trong tim bấy nhiêu. Bởi
lẽ sức chịu đựng tinh thần của nàng đã đạt giới hạn hay nói cách khác là đợt sóng
lịng đã dâng đến đỉnh cao nhất. Sau đó, chỉ cịn là sự sụp đổ của trạng thái tinh thần,
được Nguyễn Du họa ra đầy đau đớn từ tấm lịng nhân đạo của mình;
“Cạn lời, hồn ngất, máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng”
Từng câu Kiều như từng đợt sóng ngầm âm ỉ thổn thức trong lòng độc giả bao
thế hệ. Giáo sư Phan Huy Dũng đã từng đau đớn kêu lên: “ Ln có một Nguyễn Du
ở bên nàng Kiều đau khổ”, làm sao không đau khổ khi chứng kiến nỗi đau vơ bờ của
nàng. Từ đó, giáo sư muốn nhấn mạh một điều, muốn hiểu một cách trọn vẹn nhân
vật thì phải có sự giao thoa với một hình tượng nữa đó là chân dung của tác giả. Ở
Kiều, chính tấm lịng nhân đạo của Nguyễn Du đã khóc cùng Kiều, từ đó khái quát
nên những vấn đề nhức nhối cả một thời đại. Ông đồng cảm và hiểu sâu sắc được nhu
cầu được sống hạnh phúc trong tình yêu của con người tha thiết và cháy bỏng. Phản
nhân đạo nhất chính là việc tước đoạt cái nhu cầu, cái quyền cính đáng ấy. Như Tản
Đà từng cho rằng: “ Trong cả quyển Kiều, văn tả tình khơng mấy đoạn dài hơn như
đây Đoạn này thật lâm li mà như vậy mới hết tình sự” Phải chăng ơng muốn tạo ra
một điểm nhấn để người đọc cảm nhận sâu sắc tấn bi kịch tình u?
Khép lại với tấm lịng nhân đạo của Nguyễn Du đãm nước mắt của một kiếp
người: “ Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” thì ta hãy bước sang 1 trang mới của
cuộc hành trình đi tìm sự khẳng định và giải thốt trong nỗi nhớ của Tình cảnh lẻ loi
của người chinh phụ. Chồng đi chinh chiến nơi xa choán đầy tâm sự của người chinh
phụ là nỗi nhớ triền miên và dai dẳng. Nỗi nhớ được miêu tả thông qua những cử chỉ
hành động thẫn thờ và gắng gượng của nhân vật: “dạo hiên vắng” cuộn rèm, buông

rèm, “gượng” đốt hương, soi gương, gãy đàn. Chúng diễn ra thuận theo sự chi phối
của những xáo trộn trong tâm hồn.Chinh phụ biết có cuốn rèm lên thì cũng chẳng
nghe tiếng chim thước mách tin; có đốthương thì cũng để mùi hương đưa mình dấn
sâu hơn vào mộng mị; có soi gương thì cũng biết trước sẽ khơng thấy gì khác ngồi
dịng lệ chảy dàn; có đánh đàn thì cũng để tiếng đàn khía sâu hơn vào nỗi đau chia
cách.
Quá tẻ nhạt với cuộc sốn g hiện tại, chinh phụ đã tìm đối tượng có thể chuyện
trị và tâm sự. Ngọn đèn chăng? Khơng, “đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Nang
thấy chua xót cho cả mình lẫn ngọn đèn đang kết hoa trên đầu ngọn bấc: “Hoa đèn
kia với bóng người khá thương”. Ngọn đèn và người chinh phụ-2 đối tượng vừa khác
biệt vừa đồng nhất. Tìm đến cây đàn, nhưng ối oăm thay đàn như ngại ngùng, không
14


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

thể nảy lên những âm thanh nàng muốn nghe- âm thanh hóa giải sầu muộn. Lại thêm
1 đối tượng nữa đồng nhất với chinh phụ? Có bạn, nhưng bạn im lặng-im lặng trong
sự bất lực-chẳng phải điều đó càng đáng sợ, ám ảnh hơn khi ở 1 mình thơi sao?
Đã ngậm ngùi vì nỗi: “Lịng thiếp bi riêng thiết mà thôi” nhưng chinh phụ vẫn
không ngừng day dứt. Mối sầu vốn đã “dằng dặc tựa miền biển xa” theo khắc giờ
đằng đẵng như niên” càng có cơ nhân lên trùng trùng khiến nàng sợ.
“Lịng này gửi gió đơng có tiện
… bằng trời”
Non Yên thì xa, trời thì thăm thẳm, nỗi bất lực chinh phụ càng rõ hơn. Cuộc
tìm kiếm lối thốt trong vơ vọng, sự mãnh kiệt của đời sống nội tâm con người vào
thời ý thức cá nhân đã phần nào được đánh thức
“Gà eo óc gáy sương năm trống

…thốc ngoài hiên”
Cảnh vật được miêu tả nhằm bộc lộ những ẩn ức của người chinh phụ-nhu cầu
thầm kín mà đôi khichinh phụ cũng không tự ý thức được rõ rệt
“Lá màn lay ngọn gió xun
..trong lịng xiết đâu!”
Lịng đang bị thúc động bởi sự hồi nhớ khắc khoải về những giây phút ân ái
mặn nồng thuở nàng chưa phải chịu cảnh li biệt. Nàng đang nhớ và đang thực sự run
rẩy bồi hồi bởi chính nỗi nhớ của mình-làm lay thức tồn bộ con người, từ phần lý trí
dến phần bản năng bị giấu che,khỏa lấp. Nhưng,nhớ chỉ để đau!?
Phải nói rằng, tác giả và dịch giả trong khi miêu tả nội tâm con người đã thực
sự nhập thân vào nhân vật, dám nói những điều mà VHTĐ rất ngại nói Tác giả đã đề
cao sự cộng hưởng giữa ý thức cá nhân của nhân vật với ý thức cá nhân của chính tác
giả và dịch giả. Họ đã bày tỏ niềm cảm thương vơ hạn đối với tình cảnh éo le, ngang
trái của người chinh phụ và thấu hiểu nỗi thống khổ, cô đơn khib chồng đi bchunh
chiến,biền biệt không biết ngày nào se quay trở về. Lắng nghe được tiếng thời gian
trôi hay tuổi thanh xuân dần bỏ lỡ. Để có thể làm được những điều lớn lao và vĩ đại
như thế đều là nhờ trái tim thấm đượm tình yêu thương, sự sẻ chia và cảm thơng đối
với số kiếp con người nói chung, những con người cùng khổ nói riêng.
Tóm lại, hai bài thơ và hai tác giả không cùng quan điểm sáng tác với nhau
cùng chung đề tài nhưng cảm hứng nhân đạo lại có lối đi riêng cho mình, khơng trộn
lẫn, nhưng ở họ lại là những “điệu hồn” ln đi tìm “hồn điệu” của chính mình. Tấm
lịng nhân đạo của họ vẫn sáng mãi nghìn đời. Khơng chỉ dừng lại ở hai bài thơ này
mới có lịng nhân đạo, mà dường như cảm hứng nhân đạo bao trùm toàn bộ hệ thống
tác phẩm, đã trở thàh quan niệm sáng tác chung cho họ-những con người không cùng
không gian địa lý nhưng lại hòa quyện với nhau ở vẻ đẹp nhân đạo rất nhân văn, tạo
nê nhân bản đích thực.
Lê Đạt cho rằng;
“Mỗi cơng dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà văn thứ thiệt đều có một dạng vân chữ”
15



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

“Vân chữ “ kia không chỉ duy nhất Nguyễn Du hay Đồn Thị Điểm có, mà hầu
như mỗi nhà văn khi bước chân vào thế giới văn chương, thế giới của những kì quan
đồ sộ bằng ngơn từ thì đều mang một nét riêng cả về phong cách nghệ thuật, lẫn cảm
hứng nhân đạo. Nhân đạo không phải chỉ ngợi ca vẻ đẹp và đức tính của họ. Mà đơi
khi đặt nhân vật vào hình hài thật ghê tởm để ngịi bút nhân đạo có thể tỏa sáng (Chí
Phèo) hoặc là một con người sống có lí tưởng nhưng tự mình chà đạp lên nguyên tắc
sống mà bản thân từng tôn thờ để làm nổi rõ tinh thần nhân đạo của tác giả (Đời
thừa). Từ đó, ta có thể thấy, tình u với con người khơng có giới hạn và phạm vi thể
hiện chúng khơng có điểm dừng. Xuất phát từ trái tim tác giả và đích đến là hàng
triệu trái tim người đang sống.
Ta có thể đóng lại vơ vàn những quyển sách, có thể khép lại tất cả những trang
truyên, nhưng làm sao ta có thể gấp lại hết tấm lòng nhân đạo trên thế gian này. Mỗi
nhà văn đều là những con người khơng cho phép mình thờ ơ với cuộc sống, trước nỗi
thống khổ của con người. Do đó, mỗi tác phẩm ra đời đều mang trong mình trái tim
nhân đạo của tác giả. Nếu soi những trang văn vào mình, thì lấp lánh đâu đó những
giọt nước mắt và rỉ máu ở từng điểm nhỏ nhất.

16



×