Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Đề bài 1: Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.76 KB, 29 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

CHÍ PHÈO
- Nam CaoĐề bài 1: Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam
Cao.
I. MỞ BÀI
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam
hiện đại. Trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ơng ln có những trăn trở, nghĩ suy về
sống và viết. Ông từng viết: "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một vài
kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Có lẽ chính bởi những quan niệm
nghệ thuật chân chính ấy mà Nam Cao đã cho ra đời hàng loạt những tiểu thuyết, truyện
ngắn có giá trị. “Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết
về đề tài nông dân trước Cách mạng. Đó là một tác phẩm có thể “làm mờ hết các tác phẩm
khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện
thực phê phán 1930-1945. Bởi vì “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của
Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của
người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến
nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành cơng, nổi
bật hình tượng một nhân vật điển hình là nhân vật Chí Phèo.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Trước cách mạng, Nam Cao viết về hai đề tài là đề tài người nơng dân và đề tài
người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài người nông dân, khi Nam Cao xuất hiện trên văn đàn thì
các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… đã rất nổi tiếng. Đó là một thách thức
lớn với Nam Cao nhưng ơng đã lặng lẽ vượt qua để “Chí Phèo” ra đời, trở thành tác phẩm
hay nhất, tiêu biểu nhất về thân phận người nông dân trước cách mạng. Nếu như người
nông dân trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… chỉ bị đẩy vào con
đường bần cùng hóa bởi nạn tơ tức, cường hào thì nhân vật của Nam Cao vừa bị rơi vào bi


kịch bần cùng vừa bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi và bị xói mịn về nhân phẩm.
Như vậy, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc về nỗi khổ của người
nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến, quan tâm đến
một bi kịch cịn đau đớn hơn bi kịch tơ tức, cường hào là tấn bi kịch tinh thần.
2. Lai lịch và bản chất lương thiện
Lai lịch, nguồn gốc xuất thân của Chí Phèo không được kể ngay từ đầu tác phẩm mà
xen vào giữa, mỗi chỗ lại lướt qua một vài chi tiết nhưng cũng đủ để người đọc hiểu rõ về
lai lịch của Chí. Chí Phèo vốn là đứa khơng cha không mẹ. Cả làng Vũ Đại không ai biết
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

cha mẹ Chí Phèo là ai. Họ chỉ biết rằng vào một buổi sáng tinh sương, một anh đi thả ống
lươn nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lị gạch bỏ
khơng”. Anh thả ống lươn “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó bà góa
mù đem hắn bán cho bác phó cối. Khi bác phó cối mất, Chí bơ vơ, khơng cha mẹ, khơng
họ hàng thân thích, “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí
Phèo làm canh điền cho lí Kiến. Như vậy, ngay từ khi chào đời, Chí đã bị tước đi quyền
được sống bình thường như bao nhiêu người khác và dù có lúc hắn thành vật trao tay,
thành món hàng cho người ta mua bán thì hắn vẫn được sống trong vịng tay của những
người lương thiện. Bởi vậy, lúc 20 tuổi Chí Phèo vẫn là một chàng trai lực điền, hiền lành,
khỏe mạnh và lương thiện. Chí cũng có ước mơ giản dị của một người lương thiện là “có
một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn
nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Bản chất lương thiện, căm
ghét cái xấu cái ác của hắn còn được thể hiện khi bị bà Ba, vợ Bá Kiến gọi vào bóp chân,
xoa bụng. Hai mươi tuổi, Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn biết nhục khi phải làm những
việc mà người ta khinh. Bản chất hiền lành, nhút nhát của Chí cịn được thể hiện rõ ở chi

tiết chính Lý Kiến cũng có lần nhìn thấy bị bà Ba sai bảo, hắn vừa làm vừa run. Một người
như Chí nếu được sống trong một xã hội bình thường thì hắn cũng sẽ có một cuộc đời yên
ổn. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết ước mơ tưởng chừng rất giản
dị của Chí và đẩy hắn vào con đường tha hóa.
3. Chí Phèo tha hóa
Chỉ vì cái ghen vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí vào cảnh tù tội. Và nhà tù thực dân đã
tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một thằng
lưu manh, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Sau bảy, tám năm ở tù Chí trở về làng nhưng
người ta khơng cịn nhận được ra hắn. Hắn trở thành một người khác hẳn, trông đặc như
thàng sắng đá với “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng
cơng, hai mắt gườm gườm trơng gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái
ngực và cái tay chạm trổ hình rồng, phượng và một ơng tướng cầm chùy… Nhà văn đã
phải dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi trước vẻ ngoài lưu manh, cơn đồ
của hắn.
Hắn về hơm trước thì hơm sau đã ra chợ ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa tới xế
chiều cho đến lúc say khướt. Rượu say, hắn đến nhà Bá Kiến để chửi và điều đó cho thấy
ngay từ lúc ở tù về, hắn đã nhận diện được Bá Kiến là kẻ thù của mình. Hắn gọi cả tên tục
ra để chửi. Hắn chửi thật là ầm ĩ, thật là ngoa ngoắt và điếc tai, chửi đến mức “Mồ mả tổ
tiên đến lộn lên mất”, “Phen này cha con thằng Bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa”.
Lí Cường hữu dũng vơ mưu về chỉ làm tình hình thêm căng thẳng, Chí Phèo lăn ra rạch
mặt ăn vạ khiến Lí Cường tái mặt. Giữa lúc đó thì Bá Kiến về rồi chỉ bằng vài câu ngọt
nhạt Bá Kiến đã dần biến Chí Phèo từ chỗ hung hăng, coi Bá Kiến như kẻ thù dần trở
thành tên đầy tớ tay sai, thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Cũng kể từ đây, Chí đã
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


bán mình cho quỷ dữ. Hắn sống trong cơn say triền miên, cơn say này chưa qua thì cơn say
khác đã tràn đến thành cơn say dài mênh mông. Trong lúc say, hắn làm tất cả những gì
người ta sai bảo.
- Từ một người nơng dân lương thiện, Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ
Đại, trở thành nỗi ám ảnh của bao người. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn
mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”.
Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngồi bốn
mươi?” hắn khơng biết. Hắn đánh mất cả nhân hình lẫn nhân tính để từ hình hài đến tâm
tính khơng cịn là một con người:
+ Mất nhân hình: Sau những lần rạch mặt ăn vạ, bộ mặt Chí Phèo giờ đây có bao
nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, '‘Cái mặt vàng vàng ngả sang màu xám gio”. Nó dường
như khơng cịn là mặt người mà giống như “cái mặt của con vật lạ”.
+ Mất nhân tính: Tội lỗi của hắn chồng chất bởi trong lúc say, hắn làm tất cả những
việc mà Bá Kiến sai bảo “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho
hắn làm”. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch
mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”.
Trong con say, hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên
vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương
thiện.
- Khi đã trở thành con quỷ dữ, Chí Phèo đã bị cả xã hội từ chối, ruồng bỏ. Đến cái
thẻ có biên tên tuổi hắn cũng khơng có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân
lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn
qua”. Trước đây, người ta thường đi qua vườn chuối để ra sông lấy nước nhưng từ khi hắn
đến ở, người ta tìm đường khác dù có xa hơn. Không ai giao tiếp với hắn và hắn phải sống
kiếp sống cô độc của con quỷ dữ. Sự cô độc của hắn thể hiện rõ nhất qua chi tiết tiếng chửi
và ngay từ đầu tác phẩm hắn đã xuất hiện với tiếng chửi. Thường thì cứ rượu xong là hắn
chửi. Hắn chửi rất bài bản, lớp lang, đối tượng chửi của hắn rộng vô biên nhưng càng lúc
càng thu hẹp. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi
nhau với hắn và cuối cùng tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn… Dẫu hắn có chửi
đến thế nào thì cũng khơng ai ra nhời. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Thành thử,

chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Dù khơng có ai đáp lại nhưng hắn vẫn chửi
bởi vì chửi là một cách hắn phản ứng lại với xã hội đương thời là cái xã hội xấu xa thối nát
đã đẩy hắn vào kiếp sống của con quỷ dữ. Quan trọng hơn, chửi là phương thức duy nhất
để hắn giao tiếp với đồng loại. Như vậy, chỉ bằng một chi tiết rất nhỏ, rất đơn giản nhà văn
Nam Cao đã nói được rất nhiều điều về nỗi thống khổ, sự cô đơn đến cùng cực của Chí
Phèo khi hắn bị xã hội cự tuyệt khơng nhìn nhận là người. Bi kịch của Chí Phèo cịn trở
nên đau đớn hơn bởi hắn bị chính Bá Kiến, kẻ đã đẩy hắn vào kiếp sống quỷ dữ lợi dụng.
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Qua bi kịch tha hóa của Chí Phèo cùng với một số nhân vật xuất hiện thoáng qua
trong tác phẩm, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở xã hội
nơng thơn đương thời. Xã hội xấu xa, thối nát đó đẩy biết bao nhiêu người dân lương thiện,
vô tội vào con đường tha hóa. Năm Thọ “đầu bị đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh
Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Ở cuối tác phẩm có đoạn “đột nhiên thị
thống thấy hiện ra một cái lị gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”.
Chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi, Thị Nở lại bụng mang dạ
chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh và sẽ lại có một Chí Phèo con ra đời. Nhà văn
Nam Cao đã cho người đọc thấy rằng, chừng nào xã hội thực dân phong kiến xấu xa, thối
nát ấy còn tồn tại thì vẫn cịn những nỗi đau, những bi kịch như nỗi đau, bi kịch của Chí
Phèo. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì
chừng đó cịn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải
kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật.
Quả thật khơng sai khi nói rằng văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời. Sản phẩm
văn học chỉ được khai sinh ra từ hiện thực đời sống và nếu sáng tác văn học chỉ hoàn tồn
là sự hư cấu và tưởng tượng thì sẽ khơng truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Ý thức

được sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật, Nam Cao đã thâm nhập rất
sâu, đã đau nỗi đau của người dân cùng và đã không ngừng tìm tịi, sáng tạo để có thể phản
ánh đầy đủ nhất bi kịch của người nông dân trong xã hội cũ, biến Chí Phèo thành một hình
tượng nhân vật điển hình xuất sắc nhất của văn học Hiện thực phê phán Việt Nam 19301945.
4. Chí Phèo thức tỉnh
Đọc tác phẩm, người đọc sẽ nghĩ rằng Chí Phèo sẽ sống mãi kiếp sống của con quỷ
dữ rồi chết bờ chết bụi như một con quỷ cô độc. Nhưng bằng tài năng và trái tim của một
nhà nhân đạo lớn, Nam Cao đã phát hiện ra bản chất lương thiện của Chí Phèo và giúp hắn
thức tỉnh, kéo hắn trở về với cuộc đời lương thiện. Nam Cao không phải là nhà văn lãng
mạn, ông là một nhà văn hiện thực nghiêm nhặt nên đã lí giải một cách đầy thuyết phục về
sự trở về với bản chất lương thiện của Chí. Ơng nhìn thấy bản chất lương thiện của Chí
Phèo có một lúc nào đó bị mất đi do sự chi phối của số phận nhưng có điều kiện thuận lợi
bản chất ấy sẽ trở về đúng như H.Balzac đã phát biểu: “Bản chất của con người thường bị
bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.”. Nhà văn
đã sáng tạo ra nhân vật thị Nở và cuộc gặp gỡ với thị Nở đã giúp Chí Phèo trở về với bản
chất thật của mình.
4.1. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở
Chí Phèo gặp thị Nở vào một đêm trăng. Sau khi uống rượu với Tự Lãng, Chí phanh
ngực, vừa đi vừa gãi, tìm đường về mảnh vườn và cái lều của hắn. Hắn định ra sơng tắm
thì bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Đêm hôm ấy,
chúng ngủ với nhau dưới trăng. Đến nửa đêm thì Chí Phèo ốm và được người đàn bà ngoài
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" “quàng tay vào nách hắn” để
“hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”, thị Nở đắp chiếu cho Chí Phèo rồi ra về …

Có thể nói cuộc gặp gỡ với thị Nở đã làm thay đổi cuộc đời Chí Phèo vì sáng hơm sau, lần
đầu tiên kể từ khi ra tù Chí Phèo tỉnh rượu, thậm chí có cảm giác sợ rượu. Hắn tỉnh dậy và
thấy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Hắn nghe thấy những thanh âm của cuộc sống hàng
ngày, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo
đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc, bình dị của cuộc sống hàng ngày ấy hơm nào chả
có nhưng trước đây vì say rượu hắn khơng nghe thấy. Những âm thanh ấy như tiếng gọi tha
thiết của đời sống đánh thức linh hồn Chí, gợi hắn nhớ về ước mơ thời trai trẻ. Hắn nhớ lại
ngày xưa, hắn từng mơ ước “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Hắn thấy “chao ôi là
buồn!”. Trở về quá khứ giúp hắn nhận thức thực tại, hắn bỗng nhận ra rằng hắn đã ngồi
bốn mươi tuổi. Nếu ví cuộc đời con người như một cái dốc thì hắn đã sang cái dốc bên kia
cuộc đời. Trận ốm này của hắn như một con gió cuối thu báo biệu mùa đơng giá rét, khiến
hắn thấy trước một tuổi già đói rét, ốm đau. Và có một điều cịn đáng sợ hơn cả đói rét và
ốm đau đó là sự cơ độc. Hắn vẩn vơ nghĩ ngợi mà muốn khóc.
4.2. Chi tiết bát cháo hành của thị Nở
Chí Phèo tỉnh rượu là nhờ cuộc gặp gỡ với thị Nở nhưng Chí Phèo thực sự thức tỉnh
là nhờ bát cháo hành của thị. Giữa lúc Chí Phèo cịn đang vẩn vơ thì Thị Nở mang cho hắn
một nồi cháo hành. Điều đó làm Chí Phèo ngạc nhiên. Bởi vì, lâu nay khơng có ai tự nhiên
mà cho hắn cái gì. Muốn có thì hắn phải đâm chém, cướp giật và ăn vạ, phải làm cho người
ta sợ. Sau sự ngạc nhiên thì Chí Phèo cảm động bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người
đàn bà cho. Hắn thấy mắt mình ươn ướt. Khi ăn bát cháo, hắn thấy cháo ngon lạ lùng và
hắn nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất
ngon. Thị Nở nhìn Chí Phèo ăn cháo hành mà thốt lên: “Ơi sao mà hắn hiền”… Có thể nói,
thị Nở là người độc nhất trong làng Vũ Đại cư xử với Chí Phèo như với con người và nhận
biết được bản chất lương thiện của hắn. Chỉ có thị mới cảm nhận được “hắn cười nghe thật
hiền…”. Có lẽ, Chí Phèo đã cảm nhận được bát cháo mà Thị Nở mang đến khơng phải là
bắt cháo bình thường mà trong đó cịn ẩn chứa tình cảm mộc mạc, chân thành của thị dành
cho hắn. Đó là bát cháo của hơi ấm tình người và chính bát cháo hành của Thị Nở đã làm
cho bản chất lương thiện của Chí Phèo vốn bị vùi lấp giờ có cơ hội trở lại.
Như vậy bằng trái tim nhân đạo lớn, nhà văn Nam Cao khơng chỉ để Chí Phèo trở về

với cuộc đời lương thiện mà còn phát hiện bản chất lương thiện của hắn. Hóa ra bản chất
lương thiện ấy vẫn âm thầm sống trong tâm hồn Chí Phèo ngay cả khi hắn đã là một con
quỷ dữ. Để khi gặp được tấm lòng chân thành của Thị Nở bản chất ấy được hồi sinh. Sự trở
về của bản chất lương thiện ở nhân vật Chí Phèo được nhà văn lý giải đầy thuyết phục. Đó
là do trận ốm đã khiến Chí Phèo thay đổi cả về tâm lý và sinh lí, khiến hắn tỉnh rượu và
hơn cả là do hắn cảm nhận được hơi ấm của tình người.
5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Tỉnh rượu cũng là lúc Chí Phèo nhận ra rằng xưa nay hắn chỉ sống bằng dọa nạt và
cướp giật. Muốn ác phải là kẻ mạnh và thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Thế mà giờ
hắn đâu còn mạnh nữa, sẽ có một lúc nào đó “khơng thể nào liều được nữa” thì bấy giờ
mới nguy. Linh hồn thức tỉnh và bản chất trở về nên Chí Phèo thèm lương thiện biết bao.
Hắn nghĩ rằng Thị Nở sẽ là cây cầu nối giúp hắn trở về với xã hội bằng phẳng, thân thiện
của những người lương thiện. Thị Nở có thể sống n ổn với hắn thì tại sao người khác lại
không thể được. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây
ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy rất “tình tứ” biểu thị rằng Chí Phèo rất say thị Nở,
biểu lộ chân tình của hắn với thị và cũng là câu nói bộc lộ cái khao khát muốn được làm
người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Thế là sau hơn
hai mươi năm bị mất quyền làm người, Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm
người. Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Chí Phèo khao khát được trở về với cuộc đời lương thiện nhưng xã hội kia đã không
cho phép. Chúng ở bên nhau chẵn năm ngày thì thị Nở chợt nhớ ra thị có một bà cơ ở trên
đời và người cơ này nội trong ngày nay sẽ quay về. Thế là thị Nở vốn dở hơi quyết định
dừng yêu đương để về hỏi ý kiến bà cô. Khi được hỏi, bà cô thị Nở quyết không cho phép

cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta, cách nhìn
của bà ta cũng chính là cách nhìn của cả làng Vũ Đại. Bà cơ Thị Nở chính là đại diện cho
xã hội ấy, đại diện cho định kiến trong xã hội. Cả xã hội ấy đã quay lưng lại với Chí Phèo,
khơng ai cho phép hắn trở lại cuộc đời lương thiện. Thậm chí, người tưởng chừng như rất
xứng đơi với Chí Phèo cuối cùng cũng đã từ chối hắn. Khi thị Nở trút vào mặt hắn tất cả
những lời của bà cô thì đầu tiên hắn thú vị lắc lư cái đầu cười nhưng sau đó, hắn bỗng hiểu
ra. Khi thị Nở đã quay lưng bỏ về, hắn “sửng sốt” đứng lên gọi thị, hắn đuổi theo thị nắm
lấy tay. Hắn muốn níu thị ở lại bởi vì hắn ý thức sâu sắc được rằng Thị Nở là con đường
duy nhất giúp hắn trở về với cuộc đời lương thiện. Cái nắm tay níu lại ấy cho thấy hắn
khao khát trở về với cuộc đời lương thiện đến nhường nào. Đến khi bị thị Nở giúi cho một
cái lăn khoèo ra đất thì Chí Phèo mới hiểu hắn thực sự đã bị từ chối và hắn rơi vào tuyệt
vọng.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu
ăn vạ. Nhưng hắn nghĩ đập đầu ở đây chỉ thiệt, hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm
chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra, hắn
thấm thía nỗi đau vơ hạn của thân phận mình “chao ôi, buồn”, tỉnh ra lại thấy thoang
thoảng hơi cháo hành. Rồi “hắn ơm mặt khóc rưng rức”, hắn uống cho đến khi say mềm rồi
xách dao ra đi, vừa đi vừa lảm nhảm “Tao phải đâm chết nó”. Ý định của hắn là đâm chết
cô cháu nhà thị Nở, nhất là “con khọm già” đã chia rẽ tình duyên của hắn. Thế mà bước
chân hắn lại không đưa hắn đến nhà thị Nở mà đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Có phải vì hắn
say, mà những thằng điên và thằng say không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

định làm. Thực ra, Chí Phèo lúc này khơng hề điên và cũng hề khơng say, có thể coi đây là
những giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về. Chí tỉnh táo để xác định kẻ thù, hiểu

rõ kẻ thù của hắn là Bá Kiến “Ai cho tao lương thiện?”, tỉnh táo để thể hiện mong muốn
cháy bỏng của bản thân “Tao muốn làm người lương thiện.” và tỉnh táo với sự thật phũ
phàng trước mắt “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói ấy vừa
thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo.
Khi lưỡi dao của Chí Phèo vung lên kẻ thù đã phải đền mạng nhưng số phận của Chí
thì vẫn khơng thay đổi. Chí hiểu rõ rằng cánh cửa cuộc đời lương thiện đã đóng lại trước
mắt hắn. Bản chất lương thiện đã trở lại, hắn cũng không thể quay trở về với cuộc đời của
con quỷ dữ. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ cịn con đường duy nhất là tìm đến cái chết để chấm
dứt cuộc đời đầy bi kịch của hắn. Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân
phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì
hiện tại để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình.
Cái chết của Chí đã cho thấy, đối với Chí Phèo khao khát trở về với cuộc đời lương thiện
của hắn cịn cao hơn cả mạng sống. Nó cũng là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực dân
phong kiến. Xã hội ấy không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hố, lưu
manh hóa mà đến khi họ thức tỉnh lại không cho phép họ trở về với cuộc đời lương thiện,
đẩy họ vào chỗ chết. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo “Ai cho
tao lương thiện?” cịn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
6. Đánh giá chung
6.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật Chí Phèo được xây dựng rất thành cơng bằng nghệ thuật điển hình hóa.
Nhân vật xuất hiện với ngoại hình gây chú ý và được miêu tả ở nhiều điểm nhìn khác nhau,
lúc được miêu tả qua con mắt tác giả, lúc lại qua con mắt của thị Nở và Bá Kiến. Nội tâm
của nhân vật, ngôn ngữ đối thoại và hành động được sử dụng để khắc họa tính cách, khiến
nhân vật hiện lên sinh động trong trí tưởng tượng của bạn đọc. Hơn nữa, kết cấu truyện vơ
cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hố giàu kịch tính; ngơn ngữ mộc mạc, giản dị
mà sống động, linh hoạt cũng góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.
6.2. Nội dung
Qua nhân vật Chí Phèo, tác phẩm vừa bộc lộ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vừa
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc, xứng đáng được coi là một kiệt tác của văn học Việt Nam thế
kỉ XX.

- Giá trị hiện thực: Tác phẩm đã phơi bày hiện thực, lên án tố cáo xã hội đương
thời. Xã hội ấy đã đẩy người nơng dân và bi kịch tha hóa, bi kịch bị cự tuyệt làm người.
Mặt khác, với hai cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến, tác phẩm đã cho thấy mâu thuẫn giai
cấp trong xã hội nông thôn Việt Nam Nam 1930-1945 đã trở nên rất gay gắt. Mâu thuẫn ấy
chỉ có thể được giải quyết bằng các biện pháp quyết liệt.
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Giá trị nhân đạo: Nhà văn Nam Cao đã kể về bi kịch của Chí Phèo bằng một sự
đồng cảm chia sẻ, thương xót chân thành. Bằng trái tim nhân đạo, ông phát hiện và khẳng
định bản chất lương thiện của người nơng dân. Bản chất ấy có thể có lúc bị che lấp mất
nhưng nó vẫn le lói và chờ cơ hội được hồi sinh. Từ đó, tác giả thể hiện niềm tin vào sức
mạnh của tình người, vào nhân tính và bản chất tốt đẹp của con người. Những câu nói cuối
cùng của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm “Tao muốn làm người lương thiện”. “Ai cho
tao lương thiện?” là tiếng nói địi quyền sống cho con người, là hồi chng gióng lên để
cảnh tỉnh xã hội, cần phải có sự thay đổi để khơng cịn ai rơi vào bi kịch như Chí Phèo.
III. KẾT LUẬN
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn
nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Nhưng khi quyền con người cịn bị
xúc phạm thì bi kịch của Chí Phèo cịn được nhắc đến như một nỗi đau của tồn nhân loại.
Đề bài 2: Phân tích nhân vật Bá Kiến trong “Chí Phèo” của Nam Cao.
I. MỞ BÀI
Trải qua những thăng trầm trong cuộc đời và sự nghiệp, ông quan niệm văn chương
“phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca
tụng tình u, bác ái, cơng bằng”. Đó là quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, gắn liền với
hiện thực, khơng rời xa cuộc đời. Chính vì vậy mà các tác phẩm của Nam Cao đều đi sâu

vào đời sống tinh thần của con người, khám phá những góc khuất bên trong mỗi số phận
khác nhau.Trong truyện ngắn "Chí Phèo", Nam Cao đã tái hiện lại hình ảnh thu nhỏ của
nông thôn Việt Nam trước cách mạng qua bức tranh làng Vũ Đại. Bức tranh hiện thực ấy
không chỉ khắc họa người nông dân hiền lành bị lưu manh, tha hóa mà cịn nổi bật lên
những con người thuộc tầng lớp thống trị tàn ác, tiêu biểu là nhân vật bá Kiến. Bên cạnh
hai nhân vật Chí Phèo và thị Nở, nhân vật bá Kiến cũng để lại trong lòng bạn đọc những ấn
tượng riêng biệt.
Là một nhà văn trung thành của chủ nghĩa hiện thực, Nam Cao không chỉ cho thấy
số phận khốn khổ, bất hạnh của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến mà
con vạch trần bộ mặt của giai cấp thống trị. Bá Kiến chính là nhân vật điển hình cho sự độc
ác, tàn bạo của bọn thống trị đương thời.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nguyên mẫu:
Theo một số tài liệu, nhà văn Nam Cao đã xây dựng nhân vật Bá Kiến dựa trên một
ngun mẫu có thật ở làng Đại Hồng q ơng. Người này có tên là Trần Duy Bính, cịn
được gọi là nghị Bính, xuất thân từ một gia đình q tộc 6 đời làm lí trưởng. Ơng Bính làm
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Chánh tổng rồi sau đó lên ơng Nghị. Tuy nhiên nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm có nhiều
điểm được hư cấu so với nhân vật nghị Bính ở ngồi đời.
- Bá Kiến thuộc loại nhân vật cường hào, ác bá:
Truyện ngắn Chí Phèo phản ánh hiện thực xã hội nông thôn Việt Nam 1930-1945.
Truyện tập trung vào xung đột giai cấp giữa bọn địa chủ, cường hào với người nông dân,
vạch trần mối quan hệ đối kháng từ bao đời chưa thể điều hòa giữa giai cấp thống trị áp

bức, bóc lột và người dân nghèo khổ. Nếu nhân vật Chí Phèo là điển hình cho người nơng
dân thì nhân vật Bá Kiến là điển hình cho bọn cường hào, ác bá. Đem so sánh nhân vật Bá
Kiến trong “Chí Phèo” của Nam Cao với các nhân vật như nghị Lại trong “Bước đường
cùng” của Nguyễn Công Hoan và nghị Quế trong “Tắt đèn” của Ngơ Tất Tố có thể nhận
thấy nghị Lại và nghị Quế chỉ là bọn trọc phú hủ lậu, tham lam, bần tiện nhưng Bá Kiến thì
khơng chỉ tham lam, bần tiện mà cịn cáo già, lọc lõi, lắm mưu nhiều kế và đặc biệt nham
hiểm.
- Bối cảnh xuất hiện: Bối cảnh nhân vật Bá Kiến xuất hiện trong tác phẩm là bối cảnh xã
hội làng Vũ Đại, một xã hội thu nhỏ của nông thôn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Làng
Vũ Đại được một thầy địa lý phán là có thế đất “quần ngư tranh thực”, nghĩa là đàn cá săn
mồi, trong đó cá lớn thì nuốt cá bé. Cường hào trong làng thì chia năm bè bảy cánh như
phe Bá Kiến, cánh đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng… Ngoài mặt chúng tử tế với nhau nhưng
bên trong ngấm ngầm muốn cho nhau ăn bùn, để đè đầu cưỡi cổ lẫn nhau. Mặt khác, chúng
lại hợp với nhau để cùng bóc lột dân lành. Trong đàn cá tranh mồi ấy người ấy, Bá Kiến
được đánh giá là con cá lớn nhất.
2. Lai lịch và ngoại hình
2.1. Lai lịch: Có thể nói, cái trí xảo và gian tham của Bá Kiến cũng có dịng có dõi.
Hắn xuất thân trong một gia đình đã từng bốn đời làm Lí trưởng. Cái xuất thân dịng dõi
ấy, khiến Bá Kiến kế thừa mọi mánh khóe ở đời. Bằng đủ mọi mưu mô và thủ đoạn khôn
khéo, hắn đã lần lượt leo lên đỉnh cao danh vọng. Từ tiên chỉ làng Vũ Đại hắn leo lên làm
Bá hộ rồi Chánh hội kì hào, Huyện hào. Đến cả cái danh Bắc Kì nhân dân đại biểu hắn
cũng chiếm lấy. Con trai hắn sau cũng làm lí trưởng. Bá Kiến khét tiếng đến cả trong
hàng huyện. Đâu chỉ có dân lành mới sợ cái uy của cụ Bá, mà cả bọn lưu manh lẫn cường
hào đối nghịch cũng dè chừng và kiêng nể.
2.2. Ngoại hình
Khơng như các nhà văn hiện thực phê phán khác khi miêu tả bọn quan lại, cường
hào thường chú ý miêu tả ngoại hình của chúng, điển hình như nghị Quế của Ngơ Tất Tố,
huyện Hinh của Nguyễn Cơng Hoan. Nam Cao lại ít chú ý đến ngoại hình của nhân vật
Bá Kiến. Ơng chỉ phác thảo vài nét rất đơn giản như "Cụ cười nhạt nhưng giòn giã lắm”,
tiếng quát rất sang và “cụ hay quát để thử dây thần kinh người khác”, hoặc cái cười như

Tào Tháo… Tuy nhiên những nét ngoại hình ấy đã ít nhiều thể hiện bản chất, tâm địa của
kẻ độc ác, xảo quyệt.
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

3. Bản chất gian hùng
3.1. Bản chất gian hùng của nhân vật bá Kiến được thể hiện ngay từ lần đầu xuất hiện
Nhà văn để cho Bá Kiến xuất hiện đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say
rượu, đến cổng nhà hắn để rạch mặt, kêu làng, ăn vạ. Cảnh tượng rất hỗn loạn huyên náo.
Lí Cường hữu dũng vơ mưu chỉ làm cho tình hình thêm căng thẳng. Đúng lúc Chí Phèo
rạch mặt ăn vạ khiến Lí Cường tái mặt thì cụ Bá về. Vừa thấy Chí Phèo "nằm dài, khơng
nhúc nhích lên khẽ như gần chết" "thống nhìn qua" Bá Kiến "đã hiểu cơ sự", hắn nhanh
chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để ứng phó. Với sự từng trải, hắn biết rõ tác hại
của đám đông này. Bá Kiến hiểu ngay rằng nếu để dân chúng chứng kiến hành động thơ
tục của Chí thì bố con hắn chỉ thêm mất mặt. Hắn cũng thừa biết tâm kế của thằng "đầu
bị", với nó đám đơng kia chính là hậu thuẫn, kích thích để nó hung hăng hơn. Và cũng cần
phải có ít nhiều thời gian để Chí Phèo giã rượu, đỡ táo tợn đi đã. Vả lại, trước đơng người,
Bá Kiến khó có thể hiện thành cơng mánh khóe mua chuộc, dụ dỗ. Muốn dụ dỗ, ắt phải
nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh
ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì cịn ra cái thể thống gì. Bởi vậy, việc đầu tiên, Bá
Kiến tìm cách giải tán đám đơng ngay đã, hắn "quát mấy bà vợ" và đuổi họ vào nhà. Chắc
những người "tuôn đến xem" nghe tiếng quát "rất sang" này đủ hiểu cụ muốn đuổi khéo
mình. Tiếp theo, "quay sang bọn người làng", Bá Kiến dịu giọng hơn một chút "cả các ơng,
các bà nữa, về đi thơi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Đến đây, tất nhiên "khơng ai nói gì,
người ta lảng dần đi ". Cho dù vừa tò mò, vừa hả hê; nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ Bá. Vả lại
ngay vợ của cụ cũng phải vào nhà rồi... Đến khi "chỉ còn trơ lại Chí Phèo", cụ bắt đầu giở

giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ của mình, nay như đã biến thành con vật gớm ghiếc bằng
"anh", vồn vã mời Chí "vào nhà uống nước". Chưa đủ, cụ "tiên chỉ làng Vũ Đại" "khét
tiếng trong hàng huyện" cịn nhận có họ hàng với anh cùng đinh này "rồi giết gà mua rượu
cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc"... Chỉ cần Chí ngồi lên, Bá
Kiến biết là mình đã thắng. Tuy vậy, cụ vẫn qt mắng lí Cường, sau khi đã "đưa mắt nháy
còn một cái". Với cách xử sự như trên, chứng tỏ cụ bá lõi đời đã đi guốc vào bụng dạ Chí
Phèo lúc này: ưa phỉnh nịnh, hám cái lợi trước mắt... Rốt cuộc, Bá Kiến "khơn róc đời", đạt
được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt ngọn lửa hờn căm trong con người Chí, vừa chuẩn
bị biến Chí thành tay sai lợi hại. Như vậy, qua một tình huống, cái xảo quyệt lọc lõi của tên
cường hào này được thể hiện một cách sinh động.
3.2. Nham hiểm, thủ đoạn
Bá Kiến đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm làm quan qua bốn đời làm tổng lý, trở
thành một kẻ già đời trong nghề đục khoét, bóc lột dân lành, một lão cáo già đểu giả đầy
thủ đoạn. Nhà văn Nam Cao đã rất tài tình khi thâm nhập vào dịng nội tâm của Bá Kiến để
hắn tự phơi bày bản chất thật của mình. Tất cả sự mưu mơ, đểu giả, tàn bạo của Bá Kiến
không chỉ thể hiện ở hành động, việc làm mà còn hiện lên rất rõ qua dòng nội tâm của hắn.
10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Đáng lẽ thân làm quan phụ mẫu người mang sứ mệnh chăm lo cho đời sống nhân
dân thì Bá Kiến chỉ lo vơ vét tiền của, chèn ép dân đen. Để vơ vét được nhiều tiền của, lão
đã vận dụng hết các ngón nghề điêu luyện, khơng trừ ngón nào. Với người nơng dân hiền
lành nhưng khốn khó, lão tha hồ bóp nặn trong những vụ thu thuế. Kinh nghiệm bóp nặn
của cụ là bám vào thằng có tóc chứ khơng bám vào đứa trọc đầu, những thằng dễ bóp nặn
là những thằng có máu mặt, vợ đẹp con đàn và khi bóp nặn chỉ bóp đến nửa chừng.
Bá Kiến là một kẻ khơn róc ở đời “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng

liều thân”. Vậy nên, cụ biết “mềm nắn rắn buông”, xử nhũn với những thằng tứ cố vô thân,
du côn, liều lĩnh khơng sợ chết. Cụ khơng dại gì mà đối đầu với chúng vì cụ nghĩ cũng phải
có những thằng đầu bị để trị những thằng đầu bị. Trị khơng được thì cụ dùng, chúng trị
lẫn nhau đứa nào chết cụ cũng có lợi. Điển hình là trường hợp Bá Kiến mua chuộc và lợi
dụng Chí Phèo để Chí đi địi nợ Đội Tảo, một tay vai vế trong làng, kẻ địch đối đầu với cụ.
Cụ luôn dùng đúng, người đúng việc, bởi thế mà, khơng có cái nợ nào cụ khơng địi được,
khơng có kẻ thù nào mà cụ khơng làm cho điêu đứng, tán gia bại sản. Làng Vũ Đại được ví
như mảnh đất "quần ngư tranh thực", các phe cánh đối đầu nhau và cụ lấn át được những
vây cánh khác bởi cụ biết "thu dụng những thằng bạt mạng khơng sợ chết và khơng sợ đi
tù" vì chúng là "những thằng được việc".
Cái nham hiểm ghê người của nhân vật này cịn ở chỗ tìm cách làm cho lũ đàn em,
hoặc đám dân làng sinh chuyện, tức là chém giết, đốt phá, kiện tụng lẫn nhau để hắn có dịp
mà ăn. Chứ theo cụ ở cái làng có hai nghìn dân lại xa phủ xa tỉnh như làng Vũ Đại chỉ
trơng vào hai vụ thuế thì có bán cha đi cũng không đủ tiền để mua triện đồng.
3.3. Ném đá giấu tay, giả nhân giả nghĩa
Bá Kiến là con người vô cùng xảo quyệt, ném đá giấu tay, giả nhân giả nghĩa. Sự
gian xảo của hắn được phơi bày trọn vẹn trong âm mưu hại người. Nếu ghét kẻ nào, lão
ngám ngầm đẩy người ta xuống sông, đưa vào chốn tù tội hoặc khốn cùng. Nhưng rồi lão
lại dắt tay họ lên để họ phải cảm ơn. Lão sẵn sàng dùng mọi cách để đòi được số tiền cần
lấy, để rồi ném trả lại một ít với luận điệu thương hại giả dối vì thương kẻ bần hàn cùng
túng quá. Hắn diễn kịch cứ như thật. Vì thế mà nhận cho ra bộ mặt thật của tên cáo già Bá
Kiến không phải là điều dễ dàng.
3.4. Đểu cáng, tàn bạo
Bá Kiến là đại diện tiêu biểu nhất của giai cấp thống trị trong xã hội xưa. Bản chất
bạo tàn, vơ tình của Bá Kiến đã khiến bao người lâm vào cảnh cùng khổ. Cụ bá khét tiếng
là một người hách dịch, nham hiểm và độc ác dùng nhiều thủ đoạn để buộc người khác
phải cắm đất cắm nhà, xúi giục bọn lưu manh đến ức hiếp dân nghèo.
Hơn nữa, không chỉ gây ra những nỗi khổ về vật chất mà Bá Kiến còn chà đạp tinh
thần, khiến cho những người lương thiện như: Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo rơi vào bi
kịch lưu manh hóa. Đặc biệt, Bá Kiến đã vận dụng triệt để những mưu mô, thủ đoạn khiến

để biến Chí Phèo - một thanh niên chất phác, tự trọng và khỏe mạnh thành "con quỷ dữ của
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

làng Vũ Đại", sẵn sàng theo lệnh hắn để đi đâm chém ... rồi phải kết liễu cuộc đời mình
một cách thảm khốc. Rõ ràng, bi kịch của Chí Phèo đã góp phần quan trọng hồn thiện
chân dung gian hùng của Bá Kiến.
4. Nhân cách bỉ ổi
4.1. Dâm ô, đồi bại
Bên cạnh việc khắc họa sinh động, sâu sắc bản chất lọc lõi xảo quyệt, Nam Cao
không quên vạch trần nhân cách bỉ ổi của "tiên chỉ làng Vũ Đại", trong những mối quan hệ
kín đáo. Và Nam Cao đã phơi bày thói dâm ơ vơ độ và sự đê tiện của tên cường hào này.
Dù có bốn vợ nhưng Bá Kiến không bỏ lỡ việc ngồi chung xe lên tỉnh với vợ Binh Chức.
Lão khơng chỉ lừa tình mà cịn lừa tiền chị nơng dân vắng chồng khốn khổ. Đâm ra, tiền
của anh Binh gửi về chỉ vừa đủ cho Bá Kiến chơi bời hành lạc với chị Binh trong chuyến
lên tỉnh.
4.2. Ghen tng, ích kỉ
Nhân cách bỉ ổi của Bá Kiến còn được thể hiện rõ ở cái ghen bóng ghen gió. Chỉ vì
ghen tng vơ lí mà lão cường hào có thể nhẫn tâm dùng mưu mơ để đẩy người khác vào
tù. Chí Phèo chính là nạn nhân của tính ghen tng, ích kỉ ấy, chỉ vì bị bà ba gọi vào bóp
chân, xoa bụng mà Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù mất 7,8 năm. Rồi khi thấy bà vợ thứ tư gần
bốn mươi tuổi mà vẫn cịn trẻ, cịn phây phây, lại đa tình thì "Cụ chỉ muốn cho tất cả
những thằng trai trẻ đi ở tù".
5. Cái chết của Bá Kiến
Cuối cùng, bá Kiến cũng phải trả giá cho sự xấu xa, tàn ác của hắn. Bá Kiến đã phải
chết dưới lưỡi dao của Chí Phèo. Nam Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực bậc thầy khi

xây dựng tình huống Chí Phèo giết Bá Kiến. Từ lâu Chí đã biết Bá Kiến là kẻ thù của hắn
và ngay sau khi ra tù đã đến nhà Bá Kiến để chửi. Lúc đó, bằng sự "khơn róc đời" cụ bá đã
biến Chí Phèo từ chỗ coi mình là kẻ thù đến chỗ dần trở thành tên đầy tớ, tay sai. Khi bị cự
tuyệt quyền làm người Chí Phèo càng uống rượu càng tỉnh và tỉnh ra hắn ý thức sâu sắc
được rằng Bá Kiến chính là kẻ thù lớn nhất của hắn, chính Bá Kiến đã đẩy hắn vào kiếp
sống của con quỷ dữ, để hắn rơi vào bi kịch. Như vậy, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tâm
lí của kẻ cùng đường nhất quyết muốn trả thù. Bình thường, Bá Kiến khơn ngoan có thể
chuyển bại thành thắng nhưng lần này cụ phải chịu chết dưới tay Chí Phèo. Bởi vì Chí
Phèo đến đúng lúc cụ đang tức giận, cụ đang ghen vì bà Tư và muốn cho tất cả lũ trai trẻ đi
ở tù. Giữa lúc đang tức giận như thế, một người khơn ngoan đến mấy cũng khơng bình tĩnh
được, nhất là khi trơng thấy một thằng chỉ đến để vịi tiền uống rượu. Sự ghen tuông đã
khiến cho bá Kiến khơng chú ý để nhận ra ý định của Chí Phèo nên khi lưỡi dao của Chí
vung lên Bá Kiến đã phải đền mạng.
Cái chết của bá Kiến là tất yếu, bởi bọn quan lại cường hào đã quen thói ức hiếp, bóc
lột dân lành. Và khi bị đẩy đến con đường cùng thì nhất định họ phải vùng dậy để đấu
12


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

tranh cịn bọn áp bức bóc lột sẽ phải đền tội. Sau khi giết chết Bá Kiến, Chí Phèo cũng tự
sát vì hắn cũng khơng cịn con đường nào khác. Cái chết của hai nhân vật này cho thấy tình
trạng mâu thuẫn xã hội ở nông thôn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chỉ có thể được giải
quyết bằng biện pháp quyết liệt.
Kết thúc truyện, người đọc hả hê khi nhìn thấy Bá Kiến nằm giãy chết trong vũng
máu. Nhưng người đọc cũng lập tức lo âu và suy nghĩ vì "Tre già măng mọc, thằng ấy chết
cịn thằng khác". Bá Kiến này chết nhưng trong xã hội vẫn cịn có biết bao Bá Kiến khác.
Những kẻ đối địch bấy lâu của Bá Kiến thì chờ đợi cái chết của lão mà nhảy lên tiếp tục đè

đầu, cưỡi cổ người nông dân. Kiếp sống lầm than của dân lành như thế khơng biết bao giờ
mới chấm dứt. Điều đó cho thấy sự bế tắc của các nhà văn HTPP như Nam Cao trong việc
tìm ra con đường để thay đổi xã hội.
III. KẾT BÀI
1. Nghệ thuật:
Bá Kiến thuộc kiểu nhân vật phản diện được xây dựng theo bút pháp điển hình hóa
nên nhân vật này vừa có nét chung của giai cấp thống trị tham lam, tàn bạo, không từ một
thủ đoạn nào để bóc lột người nghèo lại có nét riêng của tên ác bá gian hùng, nham hiểm,
thủ đoạn. Nhà văn không chú ý miêu tả ngoại hình mà tập trung miêu tả nhân vật qua cách
ứng xử, hành động, lời nói và đặc biệt khắc sâu đời sống nội tâm bên trong. Hơn nữa, tác
giả còn khéo sử dụng một lối văn linh hoạt sinh động, giản dị và trong sáng, gần với khẩu
ngữ hàng ngày của quần chúng để cho Bá Kiến hiện lên rất sinh động.
2. Nội dung:
Nhân vật Bá Kiến quả là một thành công của nhà văn Nam Cao. Bá Kiến tiêu biểu
cho giai cấp thống trị đương thời và thông qua nhân vật, nhà văn lên án nạn cường hào ác
bá, tố cáo xã hội xấu xa thối nát đã sản sinh ra những kẻ như Bá Kiến để chúng làm hại dân
lành. Tác phẩm vì thế thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Đề bài 3: Phân tích nhân vật thị Nở trong “Chí Phèo” của Nam Cao.
I. MỞ BÀI: Tk đề 1,2
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nguyên mẫu:
Giống như các nhân vật khác trong truyện ngắn “Chí Phèo”, nhân vật Thị Nở cũng
được xây dựng dựa trên một ngun mẫu có thật ở làng Đại Hồng, q của tác giả. Ở
ngồi đời ngun mẫu cũng có tên là Thị Nở, tên đầy đủ là Trần Thị Nở, con ơng phó
Kính, có ngoại hình xấu và ế chồng. Ngoài ra, những nét khác về nhân vật trong tác phẩm
là do nhà văn hư cấu.
- Vị trí, vai trò của nhân vật trong tác phẩm:
13



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Thị Nở chỉ là nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển của câu chuyện và làm nổi bật chủ đề tác phẩm. Thị Nở là tác nhân khơi dậy tính
người giúp Chí Phèo tỉnh ngộ, quay về bản chất lương thiện. Đồng thời cũng chính nhân
vật này giúp Chí Phèo nhận ra bi kịch bị cự tuyệt làm người, giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn
bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Hơn nữa, thị Nở cũng là một nhân vật truyền tải giá trị yêu
thương, góp phần thể hiện giá trị nhân văn, nhân đạo của tác phẩm.
2. Ngoại hình (xấu)
Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngồi xấu xí, được nhà văn Nam
Cao nhận xét trong tác phẩm là "xấu ma chê quỷ hờn" hoặc "cái mặt của thị thực là một sự
mỉa mai của hóa cơng”. Diện mạo của thị cịn được miêu tả rõ hơn với các nét "Cái mũi thì
vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với
những cái môi cũng cố to cho khơng thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở
như rạn da. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng
may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to
lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính vì
ngoại hình với những nét bề ngồi cực xấu xí mà người ta thường lấy Thị Nở ra để ví "xấu
như Thị Nở". Nam Cao miêu tả thị như vậy không phải để bôi nhọ ngoại hình của người
phụ nữ mà đó là một dụng ý nghệ thuật. Tác giả phải miêu tả thị như vậy mới có thể “Đơi
lứa xứng đơi” được với Chí Phèo.
3. Lai lịch (nghèo, mả hủi)
Trong tác phẩm, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ
phác họa đôi nét. Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo và khơng cịn ai thân thích ngồi “một
người cơ đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị”. Hai cô cháu ở trong một
cái nhà tre, thị sống bằng cách làm các việc lặt vặt ở làng, chủ yếu là gánh nước thuê kiếm
ăn. Gia cảnh đã nghèo mà thị lại mang dịng giống mả hủi.

4. Tính cách, phẩm chất
4.1. Ngơ ngẩn, dở hơi
Đã thế thị Nở lại còn ngơ ngẩn, dở hơi. Thành thử nghèo mà có mả hủi, xấu và ngẩn
ngơ gộp lại tạo thành ba đỉnh của một tam giác cân. Thế nên, Thị Nở khơng có chồng và
"người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm". Thị Nở cũng như Chí là những kẻ cơ
đơn giữa xã hội lồi người. Thị dở hơi, “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí cơng;
nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất”.
Chính vì dở hơi nên trong khi cả làng Vũ Đại sợ và tránh Chí Phèo, chỉ mình thị Nở
là khơng sợ. Người trong làng đi lấy nước khơng cịn dám đi qua vườn chuối nhà Chí Phèo
mà phải tìm đường khác dù xa hơn, chỉ có thị Nở dở hơi khơng từ bỏ thói quen của mình.
Thị vẫn đi qua vườn chuối nhà hắn và thậm chí cịn “vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa”
hay “ xin của hắn một ít rượu về để bóp chân” và “lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê
hắn thế”.
14


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Vì dở hơi, ngơ ngẩn nên thị rất dễ ngủ. Để rồi một đêm trăng thanh thị đi gánh nước,
gặp lúc gió mát như quạt hầu mà ngủ quên bên bụi chuối trong tư thế hớ hênh. Anh Chí
vừa uống rượu say bên nhà tự Lãng vơ tình gặp “một người đàn bà ngồi tênh hênh" nên
xông vào và đêm ấy chúng ngủ với nhau dưới trăng. Sau đêm ấy, thi Nở giúp Chí Phèo
tỉnh rượu, tỉnh ngộ nhưng Chí Phèo cũng đánh thức khát khao phụ nữ của thị Nở để rồi
chúng yêu nhau được năm ngày chẵn.
Cũng vì dở hơi mà “đến hơm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cơ ở
đời. Người cơ ấy nội nay sẽ về”. Thị quyết định dừng yêu để hỏi cô thị đã. Tường rằng khi
bị bà cô xỉa xói, thị sẽ bảo vệ tình u của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn
ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”.

Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng
đồng” trút vào mặt Chí Phèo tất cả lời bà cơ rồi “ngoay ngốy mơng đít đi ra về” xem mọi
thứ như chưa từng xảy ra. Thị dứt tình đến mức khi Chí Phèo “đuổi theo thị, nắm lấy tay”
thị đã giúi cho hắn ngã khoèo xuống đất. Sự ngớ ngẩn, dở hơi khiến thị dường như quên
hết mọi thứ kể cả bát cháo hành và tình u thương trước đó của mình.
4.2. Là con người với đủ ba chữ thiên chức, thiên lương và thiên năng
Dẫu khơng ai có thể mơ mộng được với ngoại hình xấu xí, gia cảnh nghèo, có mả
hủi và tính cách dở hơi của Thị Nở nhưng người đọc đều thừa nhận thị là một “thiên sứ”
với trái tim con người, giúp vá lại trái tim rỉ máu và chằng chịt tội lỗi của Chí Phèo. Thị là
hiện thân của con người với đủ thiên chức, thiên lương và thiên năng. Trong đó, thiên chức
là trách nhiệm, sứ mệnh của con người, là sự chăm lo cho những người xung quanh. Thiên
lương là cái tâm trong sáng, không bị vẩn đục ngay cả trong mơi trường độc hại. Cịn thiên
năng là bản năng, năng lực mà trời phú cho con người. Thị Nở chính là người tử tế nhất
làng Vũ Đại khi đối xử với Chí Phèo bằng những phẩm chất mà trời phú ấy.
Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ
dữ của làng Vũ Đại. Cuộc gặp gỡ của chúng tưởng chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy,
song không phải vậy. Trong đêm gặp nhau ở vườn chuối, nửa đêm Chí Phèo bỗng đau
bụng, nơn mửa. Khi ấy, thị Nở ngơ ngẩn, dở hơi đã biết thực hiện thiên chức làm người là
“dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về”. Và cứ thế những gì
thuộc về bản chất nhất của con người ở thị đã được bộc lộ ra.
Thiên chức làm người và cái tâm trong sáng không bị vẩn đục giữa xã hội làng Vũ
Đại vốn rất vơ tình với Chí Phèo khiến thị Nở trở về nhà mà vẫn lo lắng và có trách nhiệm
với Chí “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc… Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ
gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành.
Ra được mồ hơi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà”. Ý thức được trách nhiệm của bản
thân với Chí nên sáng hơm sau Thị Nở dậy sớm nấu cháo cho Chí Phèo. Giữa lúc Chí Phèo
đang “thấy miệng đắng, lịng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay khơng buồn nhấc”
và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc
15



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

đời”, “Chí Phèo hình như đã trơng thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cơ độc”
mà muốn khóc thì thị Nở mang cháo sang. Thị Nở cịn múc cháo và giục Chí ăn cho nóng,
đối xử với hắn rất ân cần. Thị nhìn hắn ăn mà lắc đầu thương hại. Và cũng vào lúc này, cái
tâm trong sáng đã khiến thị nhìn ra bản chất lương thiện của hắn “Ôi sao mà hắn hiền, ai
bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người”.
Có thể nói xuất phát điểm của bát cháo hành chính là tình người. Sự chăm sóc của
thị Nở với Chí Phèo cũng là biểu hiện của tình người. Bát cháo tuy xồng xĩnh mà đầy ắp
tình người và đó là cái mà Chí Phèo chưa bao giờ được hưởng, bởi từ trước đến giờ chưa ai
cho khơng hắn một cái gì. Hắn cũng chưa bao giờ được chăm sóc bởi một tay đàn bà. Vì
thế mà bát cháo hành ấy đã cảm hóa được Chí Phèo, nó khơng chỉ là liều thuốc giải cảm
mà hơn nữa cịn là một liều thuốc giải độc. Nó tẩy ố đi men rượu và thức dậy tình người
vốn đã bị vùi lấp trong Chí Phèo, làm cho Chí Phèo tỉnh ngộ và khiến hắn khao khát được
trở về với xã hội bằng phẳng, lương thiện. Thị Nở đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí,
đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong con người hắn và thị trở thành minh
chứng cho sức mạnh không giới hạn của tình u thương. Chí Phèo cảm nhận được vẻ đẹp
của thị nên ngay cả khi thị cười toe toét rất vơ dun nhưng Chí vẫn cảm thấy thị có duyên
và đáng yêu biết bao.
Cuộc gặp gỡ với Chí Phèo cũng khiến cho thị Nở chìm đắm trong cơn say của bản
năng thiên tạo, khiến thị quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu thị
lúc ấy chỉ cịn tình u với Chí Phèo. Sau đêm ấy, chúng nhất định lấy nhau. Chí Phèo thì
cố uống rượu thật ít để đỡ tốn tiền và đủ tỉnh táo để u nhau cịn Thị Nở thì ở nhà hắn cả
ngày lẫn đêm, trừ lúc phải đi kiếm tiền. Điều đó cho thấy thị Nở cũng như bao nhiêu người
phụ nữ khác cũng ln khao khát tình u và mong ước có một gia đình.
Có thể nói, nhân vật thị Nở không mang vẻ đẹp rờ rỡ từ vẻ bên ngoài, vẻ đẹp của thị
Nở là vẻ đẹp khuất lấp, bị ẩn đi sau bề ngồi xấu xí và nét duyên thầm của thị có thể cảm

hóa cả một "con quỷ dữ". Thị xuất hiện trong tác phẩm để là cứu rỗi linh hồn Chí, giúp
người đọc phát hiện ra bản chất lương thiện vẫn cịn le lói trong tâm hồn con quỷ dữ.
4. Kết thúc
Thị Nở là người đã giúp Chí Phèo trở về với bản chất lương thiện, khơi dậy hi vọng
vào tương lai cho Chí, nhưng cũng chính sự dở hơi của thị đã dập tắt hi vọng, đã chặn
đứng con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Việc bị thị Nở từ chối đã đẩy
Chí Phèo từ đỉnh cao của niềm hy vọng rơi xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng, bất hạnh,
tủi nhục. Ngay cả một người xấu ma chê quỷ hờn, nghèo, dở hơi và có mả hủi mà cũng có
thể từ chối hắn. Niềm hạnh phúc mong manh và muộn mằn hóa ra là quá tầm tay của hắn.
Cánh cửa vào cuộc đời lương thiện vừa hé ra đã đóng lại, khát vọng được làm hịa với mọi
người hóa thành tuyệt vọng, uất ức, thù hận đẩy Chí Phèo đến hành động trả thù rồi tự sát
một cách nhanh chóng, quyết liệt và bi thảm.
16


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Chi tiết cuối tác phẩm, khi nghe tin Chí Phèo chết Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng
mình và thống thấy cái lị gạch cũ bỏ khơng vắng người qua lại như một dự báo về một
Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ảnh đó cũng ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị
Nở.
III. KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật
Thị Nở được miêu tả bằng thủ pháp cực tả, tạo thành các đỉnh chóp của tam giác cân
với ba cạnh bằng nhau là xấu xí, dở hơi, nghèo mà có mả hủi; nghệ thuật tương phản đối
lập giữa bên ngồi xấu xí và phẩm chất bên trong tốt đẹp; là nhân vật địn bẩy để khắc họa
sâu sắc tính cách, nhân phẩm, bi kịch của nhân vật trung tâm Chí Phèo. Cùng với những
chi tiết nghệ thuật đặc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở khiến nhân

vật để lại ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc.
2. Nội dung
Nhân vật thị Nở cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng,
đồng thời cho thấy vẻ đẹp sáng ngời của con người đằng sau bề ngồi xấu xí. Từ đó, nhà
văn đã thể hiện một quan niệm rất hiện đại về hai chữ con người rằng khơng có con người
hồn tồn lương thiện, cũng khơng có con người hồn tồn xấu xa, con người có thể hiện
diện qua những mặt đối lập.
Thị Nở tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng thị là ngọn lửa sưởi ấm và thắp lên ánh sáng
lương tri làm người, khẳng định tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim có sức mạnh kì
diệu cảm hóa được con người tội lỗi và mang lại giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.
Nhân vật thị Nở đã giúp người đọc nhận ra rằng tình yêu thương là phẩm giá cao nhất của
con người và “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrang
Xoa Cope). Thị Nở còn giúp chúng ta rút một bài học nhận thức đúng đắn là không được
“Nhìn mặt mà bắt hình dong”, một người có ngoại hình bên ngồi tuy xấu xí nhưng bên
trong có tình thương yêu, lòng nhân hậu và biết quan tâm đến người khác thì họ cũng rất
đẹp và rất đáng được trân trọng.
Đề bài số 4: Phân tích tấn bi kịch của Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của
Nam Cao
I. MỞ BÀI: Tk đề 1,2
II. THÂN BÀI
1. Giải thích
- Bi là buồn, bi thương, là những mất mát, bế tắc khơng có lối thốt. Bi kịch thường nảy
sinh từ mâu thuẫn, xung đột giữa mơ ước, khát vọng, hoài bão, lí tưởng và mong muốn của
con người với hiện thực cuộc sống khiến con người rơi vào sự thất bại, trạng thái bi thương
tuyệt vọng, thậm chí dẫn đến cái chết.
17


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Ta đã thấy trong văn chương khơng ít bi kịch như bi kịch giữa tình yêu và thù hận của
Romeo và Jiuliet, bi kịch bị bán vào lầu xanh của Kiều… Trong văn học hiện thực phê
phán Việt Nam 1930-1945 cũng có những bi kịch như bi kịch của chị Dậu trong “Tắt đèn”
của Ngô Tất Tố, của anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan… Nhưng
nếu như chị Dậu, anh Pha… chỉ rơi vào bi kịch bần cùng hóa bởi nạn sưu cao, thuế nặng,
cường hào ác bá, bi kịch của họ chỉ là bi kịch về miếng cơm manh áo thì bi kịch của Chí
Phèo trong tác phẩm của Nam Cao còn đau đớn hơn nhiều. Chí Phèo khơng chỉ phải chịu
đựng bi kịch của sự bần cùng hóa mà cịn rơi vào tấn bi kịch tinh thần đầy đau đớn, bi kịch
bị từ chối quyền làm người. Đầu tiên là bi kịch bị bỏ rơi, bị khước từ quyền làm người từ
lúc sinh ra, tiếp theo là bi kịch bị tha hóa và sau đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Có thể nói bi kịch của Chí Phèo là bi kịch sinh ra là người nhưng không được sống đúng
nghĩa là một con người.
2. Tấn bi kịch của Chí Phèo
2.1. Bi kịch từ khi mới chào đời (bị bỏ rơi thành đứa trẻ không cha, không mẹ)
Tham khảo mục II.2 đề 1
2.2. Bi kịch tha hóa
Tham khảo mục II.3 đề 1
2.3. Bi kịch bị cự truyệt quyền làm người
Tham khảo mục II.4 + II.5 đề 1
III. KẾT LUẬN
Tham khảo đánh giá chung và Kết luận đề 1
Đề bài số 5: Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của
Nam Cao
I. MỞ BÀI
1. Giới thiệu khái quát về Nam Cao)
2. Hồn cảnh, xuất xứ của "Chí Phèo"
3. “Chí Phèo” trở thành một kiệt tác chính là nhờ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vừa
sâu sắc, vừa độc đáo, mới mẻ.

II. THÂN BÀI
1. Giải thích:
1.1. Giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. Một tác phẩm
văn học nào cũng có giá trị hiện thực vì văn học bắt nguồn từ đời sống, bắt nguồn từ hiện
thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, bắt nguồn từ hiện thực, tình cảm, tâm lí... Trong tác
phẩm văn học, giá trị hiện thực là sự phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi
khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh; chỉ ra nguyên nhân
18


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

gây đau khổ cho con người và miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Ở mỗi tác
phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được miêu tả đa dạng.
1.2. Giá trị nhân đạo
Nhân là người và đạo là đạo đức, đạo lí làm người. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm
văn học là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với
người. Một nhà văn chân chính là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh
giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người. Trong tác phẩm văn học, giá
trị nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống của con người được
miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lịng xót thương những con người bất hạnh; phê
phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất, khát
vọng tốt đẹp của con người; đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người... Đồng thời
tư tưởng nhân đạo cịn thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc,
giọng điệu... Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì,
giai đoạn, do hồn cảnh lịch sử, xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau

nên có những biểu hiện riêng.
2. Giá trị hiện thực trong tác phẩm “Chí Phèo”.
- Phản ánh những vấn đề cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng:
Mối quan hệ của nội bộ giai cấp thống trị, những bè cánh địa chủ cường hào. Một mặt
chúng đối nghịch với nhau. Vì bọn chúng là một “quần ngư tranh thực”, mồi thì ngon mà
bè nào cũng muốn ăn. Do đó chúng ln rình cơ hội để trị nhau, mong cho nhau lụn bại để
cưỡi lên đầu lên cổ nhau. Mặt khác chúng du lại với nhau để bóc lột người nơng dân.
=>Phản ánh ý thức tranh chấp và giành địa vị bá chủ trong làng xã.
- Mâu thuẫn giai cấp đối kháng, gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào thống trị với
những người nông dân bị áp bức, bóc lột. Tiêu biểu là mâu thuẫn giữa bá Kiến với Chí
Phèo. Mâu thuẫn này khơng thể điều hoà được phải giải quyết bằng những biện pháp quyết
liệt, dữ dội. Cuối cùng cả hai đều phải chết.
- Hiện thực đời sống tăm tối, đau khổ của người nông dân, người lao động lương
thiện được thể hiện tập trung qua số phận của nhân vật Chí Phèo. Chí là đại diện, điển hình
cho bi kịch bị chà đạp cả nhân hình, nhân tính: từ một ngwịi lao động lương thiện, bị tha
hoá thành kẻ lưu manh và trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, cuối cùng chết một
cách thảm khốc trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện.
- “Chí Phèo” đã khái quát hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ: có áp bức,
có đấu tranh, đấu tranh tự phát thường dẫn đến kết cục bi thảm. Và những cuộc đấu tranh
như thế này chưa thể kết thúc được vì “tre già măng mọc”. Bá Kiến chết cịn Lí Cường,
cịn nhiều tên cường hào ác bá khác thì cịn những “hiện tượng Chí Phèo” và cịn những
cuộc đấu tranh tự phát như thế =>Phản ánh sự bế tắc của trào lưu văn học HTPP.
19


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

3. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chí Phèo”.

Trong tác phẩm "Chí Phèo", Nam Cao đã dành cho người nơng dân mà ơng từng gắn
bó những tình cảm nhân đạo rất sâu sắc.
- Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã khám
phá ra nỗi khổ bị đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động
lương thiện. Nam Cao bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đó.
- Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao đã cất lên tiếng kêu
cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện: Làm thế nào để cho con
người được sống một cuộc sống xứng đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy; hãy tiêu
diệt hồn cảnh phi nhân tính, hãy làm cho hồn cảnh trở nên nhân đạo hơn.
- Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” cịn thể hiện qua thái
độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao
động (bọn thống trị độc ác; nhà tù thực dân; những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).
- Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở thái
độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn còn khám
phá ra những phẩm chất lương thiện của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u
mê, cằn cỗi.
- Những vẻ đẹp ở Chí Phèo:
+ Chí Phèo vốn là người nơng dân lương thiện: “Một thằng hiền như đất”, giàu lịng
tự trọng, biết “khơng thích cái gì người ta khinh”; biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng
và cảm giác nhục dục thấp hèn, Hắn đã từng mơ ước rất bình dị: “Có một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, ni một con lợn để làm vốn liếng. “Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
+ Bị nhà tù xã hội thực dân phong kiến biến Chí thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”,
nhưng dưới đáy sâu tâm hồn hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm.
+ Có tinh thần phản kháng: Chí Phèo đã đến thẳng nhà Bá Kiến, vung lưỡi dao căm
hờn lên giết chết Bá Kiến - kẻ thù khủng khiếp đã cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính của
Chí để địi quyền làm người lương thiện của mình. Sau đó Chí Phèo đã tự sát vì tuyệt vọng,
vì Chí khơng muốn sống tăm tối, tủi nhục như kiếp sống thú vật nữa.
=> Dựng lên một hình tượng người nơng dân bị tha hóa, “một con quỷ dữ của làng
Vũ Đại”, Nam Cao khơng hề có ý định bôi nhọ người nông dân, trái lại đã dõng dạc khẳng

định nhân phẩm của họ, trong khi họ đã bị rách nát cả hình hài lẫn tâm hồn. Điều đó chứng
tỏ con mắt nhân đạo của Nam Cao rất sâu sắc, mới mẻ và “tinh đời”.
- Những vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở:
+ Giàu tình thương. Đằng sau cái bề ngồi xấu xí và tính khí “dở hơi” còn ẩn chứa
một trái tim nhân hậu. (Thiên chức, thiên lương)
+ Cũng như những người phụ nữ khác, Thị Nở rất khao khát tình yêu và hạnh phúc.
(Thiên năng)
20


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

III. KẾT BÀI
“Chí Phèo” là một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Giờ đây, nền
văn học Việt Nam đã bước sang thiên niên kỉ mới, nhìn lại chặng đường đã qua, “Chí
Phèo” của Nam Cao vẫn xứng đáng là kiệt tác của văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Đề bài số 6: Phân tích các chi tiết nghệ thuật tiếng chửi, bát cháo hành và cái lị gạch
cũ trong “Chí Phèo” của Nam Cao.
I. MỞ BÀI: Tk
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Khái quát nhân vật Chí Phèo:
+ Chí Phèo là một điển hình nghệ thuật về người nông dân từ lương thiện rơi vào tha
hóa trở thành quỷ dữ rồi bị gạt ra khỏi xã hội loài người, cuối cùng quay quắt trở về với bi
kịch của khát vọng “làm người lương thiện” và phải chấp nhận cái chết.
+ Chí Phèo của Nam Cao tạo được nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Các chi tiết
nghệ thuật ấy không chỉ hàm ẩn nhiều nội dung sâu sắc mà còn rất tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của Nam Cao.

- Giải thích: Chi tiết nghệ thuật là gì?
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, chi tiết nghệ thuật là “Các tiểu tiết của tác phẩm
mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng
theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể
hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội
tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật”
về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định”
Sách giáo khoa ngữ văn 11 (bộ nâng cao) cho rằng chi tiết nghệ thuật “là những biểu
hiện cụ thể, lắm khi nhỏ nhặt, nhưng lại cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ
của chúng, đồng thời cũng biểu hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Do
đó chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị vừa bộc lộ ý nghĩa
của chúng”.
Như vậy chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức
chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền
cảm thi góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn lôi cuốn người đọc là nhờ chi
tiết.
2. Chi tiết tiếng chửi
2.1. Điểm đặc biệt về kết cấu trần thuật:
Tiếng chửi được tác giả đưa lên đầu truyện với mục đích để lại sự độc đáo và ấn
tượng cho người đọc. Tác giả đã không sử dụng cách kể chuyện theo khuôn khổ truyền
21


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

thống mà theo kết cấu hồi tưởng, những tình tiết mở đầu cực kỳ bất ngờ và khiến người
đọc thực sự lơi cuốn. Tiếng chửi của Chí Phèo được trần thuật qua nhiều ngôi khác nhau
như giọng trần thuật của tác giả, giọng bực tức của Chí Phèo, giọng dân làng thờ ơ, hờ

hững.
2.2.Tiếng chửi lớp lang, bài bản, tăng cấp:
Ban đầu là chửi đơn thuần chửi chung như chửi “trời”, “đời”, “tất cả làng Vũ Đại”,
“chửi đứa nào không chửi nhau với hắn”, “chửi đứa đẻ ra hắn”. Tăng cấp về cảm xúc của
nhân vật mỗi lúc một tăng dần như: “Tức mình”, “Tức thật!”, “Thế này thì tức thật!”, “Tức
chết đi được mất”.
=> Thể hiện cảm xúc của nhân vật mỗi lúc một tăng theo và bi kịch của Chí Phèo ngày
càng bi thảm.
2.3.Ý nghĩa tiếng chửi:
- Qua tiếng chửi, Nam Cao đặt ra một nghịch lý trước người đọc: Chí Phèo say hay
tỉnh? Rõ ràng ơng đã khẳng định “cứ rượu say là hắn chửi”. Nhưng nếu đó là tiếng chửi
của một người say và mất hết ý thức, tại sao lại lớp lang rành mạch (sự tăng cấp giữa các
đối tượng), tại sao vẫn nhận ra “thân hắn khổ đến nông nỗi này”. Say mà tỉnh, tỉnh mà say,
đó là trạng thái lưỡng phân của hình tượng Chí Phèo, qua đó Nam Cao hé lộ cho người đọc
thấy được ý thức tỉnh táo của Chí Phèo sau cái vô thức của kẻ say, nỗi đau con người sau
hình thù quỷ dữ, khát vọng lương thiện sau những hành động, lời nói cơn đồ, ác độc.
- Chửi là một cách để Chí Phèo phản ứng với xã hội xấu xa, thối nát đã đẩy hắn vào
cuộc đời đầy bi kịch.
- Tiếng chửi thể hiện bi kịch cô đơn đến cùng cực trong kiếp sống của con quỷ dữ:
Tiếng chửi của Chí Phèo khơng có một lời đáp. Bởi vì, tất cả dân làng Vũ Đại đều khơng
xem Chí Phèo là con người. Đây là hệ quả tất yếu từ những đau thương mà Chí Phèo gây
ra cho họ. Tình cảnh “chỉ ba con chó dữ với một thằng say rượu” cho thấy sự cô đơn tận
cùng của Chí Phèo, bị chối bỏ, bị đẩy ra ngồi xã hội người của làng Vũ Đại, bị tước đoạt
quyền làm người. Khơng ai đáp lại nhưng Chí Phèo vẫn chửi vì đó là phương thức duy
nhất để hắn giao tiếp với đồng loại.
=> Ẩn sâu trong giọng điệu tự sự lạnh lùng có phần khinh bạc ấy, là một trái tim u
thương, thấu hiểu, xót xa thấm thía của một tấm lòng đau người, đau đời tha thiết.
3. Chi tiết bát cháo hành
3.1. Đặc điểm về kết cấu trần thuật:
- Chi tiết xuất hiện trong phần giữa truyện, sau cuộc gặp gỡ về thể xác giữa Chí

Phèo và thị Nở ở vườn chuối, Chí Phèo bị cảm. Chính Thị Nở là người đã chủ động về nhà
nấu cháo sang mang sang cho Chí Phèo.
- Đây là chi tiết thúc đẩy cốt truyện phát triển, giúp khắc họa sâu sắc nét tính cách,
tâm lí và bi kịch của nhân vật Chí Phèo, thể hiện niềm tin vào sức mạnh cảm hóa con
người bằng tình người.
22


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

3.2. Bát cháo hành được miêu tả trong tác phẩm
- Tác giả không tập trung miêu tả bát cháo hành mà chỉ xen vào lời kể một vài nét
miêu tả: Vừa sáng thị đã đi tìm gạo, hành thì may nhà lại cịn, nồi cháo cịn nóng ngun,
bát cháo bốc khói...
- Tuy vậy, tác giả lại rất tập trung trong việc miêu tả những suy nghĩ, cảm nhận của
Chí Phèo khi ăn cháo như “Trời ơi! Cháo mới thơm làm sao”, “cháo hành ăn rất ngon”,
“Chỉ khói xơng vào mũi cũng đủ làm cho nhẹ nhõm”. Bát cháo hành khiến Chí Phèo rất
“ngạc nhiên” và thấy “mắt như ươn ướt”, bởi vì đây là lần đầu tiên hắn được một người
đàn bà cho. Bát cháo hành khiến Chí Phèo “bâng khuâng”…
- Tác giả cũng miêu tả suy nghĩ, cảm tưởng của người cho cháo: “Mình mà bỏ hắn
lúc này thì cũng bạc… Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ.
Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hơi thì là
nhẹ nhõm người ngay đó mà”. Rồi thị nấu cháo mang sang, múc cháo và giục Chí ăn cho
nóng, đối xử với hắn rất ân cần. Thị nhìn hắn ăn mà lắc đầu thương hại. Và thị nhìn ra bản
chất lương thiện của hắn “Ơi sao mà hắn hiền, ai bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu,
rạch mặt mà đâm chém người”.
3.3. Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành
- Đó là bát cháo của hơi ấm tình người, thể hiện tình u thương của Thị Nở dành

cho Chí phèo, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
- Chính bát cháo hành của Thị Nở đã làm cho bản chất lương thiện của Chí Phèo vốn
bị vùi lấp giờ có cơ hội trở lại, khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi
vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện.
=> Như vậy bằng trái tim nhân đạo lớn, nhà văn Nam Cao khơng chỉ để Chí Phèo
trở về với cuộc đời lương thiện mà còn phát hiện bản chất lương thiện của hắn. Hóa ra bản
chất lương thiện ấy vẫn âm thầm sống trong tâm hồn Chí Phèo ngay cả khi hắn đã là một
con quỷ dữ. Để khi gặp được tấm lòng chân thành của thị Nở bản chất ấy được hồi sinh.
4. Chi tiết cái lò gạch cũ
1.1. Đặc điểm về kết cấu trần thuật:
- Là chi tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm khi kể về nguồn gốc xuất thân của Chí Phèo và
là sau đó lại xuất hiện ở kết thúc tác phẩm tạo nên là kết cấu vòng tròn, gợi lên nhiều liên
tưởng sâu sắc cho độc giả.
4.2. Hình ảnh cái lò gạch cũ
- Xuất hiện ở phần đầu tác phẩm khi nói về lai lịch, lúc Chí Phèo ra đời: Một anh đi
thả ống lươn đã nhặt được Chí Phèo “trần truồng, xám ngắt trong một cái váy đụp để bên
cái lị gạch bỏ khơng”.
- Xuất hiện ở kết thúc tác phẩm: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lị gạch cũ
bỏ khơng, xa nhà cửa, vắng người lại qua.
23


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

=> Kết cấu đầu cuối nhưng theo kiểu kết thúc khơng có hậu.
4.3. Ý nghĩa của chi tiết cái lị gạch cũ
- Nâng cao giá trị nhận thức: Gợi ra liên tưởng về sự lặp lại của hiện tượng Chí
Phèo, tạo ra vòng quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch bị tha hóa. Cảnh báo chừng nào xã

hội ấy còn tồn tại, chừng nào vẫn còn những tên cường hào như Bá Kiến thì những bi kịch
như bi kịch Chí Phèo vẫn cịn tiếp diễn.
- Nâng cao giá trị tố cáo: Lên án xã hội đen tối đã đẩy con người vào bước đường
cùng, tiêu diệt đến tận cùng quyền sống của con người.
- Khẳng định sức mạnh của sự thức tỉnh lương tri: Thể hiện được tinh thần nhân đạo
sâu sắc của nhà văn Nam Cao khi đồng cảm, thấu hiểu với cuộc sống đau khổ, bị chà đạp
tàn nhẫn của người dân dưới chế độ thống trị tàn bạo của địa chủ phong kiến.
Cái chết của Chí Phèo trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện khẳng định
chiến thắng của lương tâm, của phần thiện trong một con người. Chí Phèo thà chấp nhận
cái chết chứ không chịu quay về kiếp sống của con quỷ dữ. Qua đó, nhà văn thể hiện niềm
tin vào những giá trị tốt đẹp bên trong con người, trân trọng khát vọng sống lương thiện
của con người.
- Tạo kết thúc truyện giàu tính nghệ thuật: Kết cấu đầu cuối, đặc biệt là kết thúc tác
phẩm như vậy rất phù hợp với mạch truyện, khiến liên kết trong tác phẩm trở nên chặt chẽ,
đồng thời cũng cho thấy khả năng khái quát hóa hiện thực đời sống, khả năng chọn chi tiết
nghệ thuật tài tình của nhà văn Nam Cao.
- Hạn chế: Thể hiện cái nhìn bi quan về số phận người nơng dân và sự bế tắc trong
việc tìm ra con đường thay đổi cuộc sống của các nhà văn HTPP nói chung.
III. KẾT BÀI
- Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật: Các chi tiết nghệ thuật đều có ý nghĩa
quan trọng trong việc thể hiện giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, giúp tác
phẩm trở nên cuốn hút, hấp dẫn bạn đọc.
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.

Đề bài số 7: Từ lúc ra đời truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao đã có mấy tên gọi?
Ý nghĩa của các tên gọi đó.
I. MỞ BÀI
- Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn; có phong cách
độc đáo, đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần con người.


24


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xi Việt Nam hiện đại, khẳng định được tài
năng của tác giả, là một truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ
nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát:
- Nội dung của truyện ngắn:
+ Phơi bày trần trụi cuộc sống của Chí Phèo và một số bộ phận người dân nghèo
trước cách mạng.
+ Khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ
phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.
+ Lên án đanh thép xã hội tàn bạo, tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao
động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị vùi dập mất cả
nhân hình, nhân tính.
- Nghệ thuật của câu chuyện:
Xây dựng thành công những nhân vật điển hình bất hủ, nghệ thuật trần thuật linh
hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ; ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc.
Nghệ thuật xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo, đưa nhân vật qua nhiều cung
bậc cảm xúc khác nhau từ đó bộc lộ được rõ hơn bản chất, tính cách của nhân vật.
2. Tác phẩm “Chí Phèo” có những nhan đề:
2.1. Nhan đề “Cái lị gạch cũ”:
- Là nhan đề đầu tiên của tác phẩm, tái hiện sự xuất hiện của Chí Phèo trong cuộc
đời, cách gọi này dựa vào hình ảnh cái lị gạch bỏ không ở phần đầu và được lặp lại ở câu
kết của tác phẩm như một lời dự báo Chí Phèo bố chết rồi sẽ có Chí Phèo con ra đời.

- Nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo, tạo ra ám ảnh trong tâm trí
người đọc. Khẳng định chừng nào xã hội thối nát kia còn tồn tại, chừng nào vẫn còn những
tên cường hào, ác bá như Bá Kiến cịn tồn tại thì vẫn cịn những bi kịch như Chí Phèo.
- Tạo kết cấu vịng tròn, đặc biệt là kết thúc tác phẩm như vậy rất phù hợp với mạch
truyện, khiến liên kết trong tác phẩm trở nên chặt chẽ, đồng thời cũng cho thấy khả năng
khái quát hóa hiện thực đời sống, khả năng chọn chi tiết nghệ thuật tài tình của nhà văn
Nam Cao.
- Hạn chế: nhan đề này đã thể hiện cái nhìn bi quan của tác giả về số phận của
người nông dân.

2.2. Nhan đề “Đôi lứa xứng đôi”:
- Đây là nhan đề do nhà xuất bản Đời Mới đặt khi in tác phẩm (1941). Nhan đề này
dựa vào mối tình Chí Phèo – thị Nở, gợi sự tị mị của độc giả.
25


×