Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đề bài 1: Phân tích bi kịch của Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu trùng đài” (Trích “Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.85 KB, 10 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI
- Nguyễn Huy TưởngĐề bài 1: Phân tích bi kịch của Vũ Như Tơ trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu trùng
đài” (Trích “Vũ Như Tơ) của Nguyễn Huy Tưởng.
I. MỞ BÀI
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn yêu nước. Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của
ông là cảm hứng lịch sử, vừa đậm chất bi kịch, vừa giàu chất lãng mạn. Ơng khát khao và
có thiên hướng sáng tác những tác phẩm có quy mơ lớn dựng lên những hình tượng hồnh
tráng để phản ánh lịch sử bi hùng của dân tộc. Ông sáng tác ở nhiều thể loại, nhưng có
nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại kịch và tiểu thuyết. “Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử có
qui mơ hồnh tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch nói Việt Nam hiện
đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941 và được tác giả viết thêm lời tựa năm 1942. Vở
kịch được viết dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu
Lê và gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch.
Trong đoạn trích, gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lịng người đọc là nhân vật Vũ Như Tô
cùng bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Khái niệm bi kịch:
- Bi là buồn, bi thương, là những mất mát, bế tắc khơng có lối thốt. Bi kịch thường
nảy sinh từ mâu thuẫn, xung đột giữa mơ ước, khát vọng, hồi bão, lí tưởng và mong muốn
của con người với hiện thực cuộc sống khiến con người rơi vào sự thất bại, trạng thái bi
thương tuyệt vọng, thậm chí dẫn đến cái chết.
- Bi kịch cịn là một thể loại kịch thể hiện mối xung đột không điều hoà được giữa
thiện và ác, cao cả và thấp hèn, lí tưởng và thực tại,.... Kết thúc các bi kịch nhân vật chính
thường có kết cục bi thảm, đau thương, các thành quả quan trọng thường bị phá hủy, gây
cảm xúc đau thương mãnh liệt cho người đọc, người xem. Trong văn chương khơng ít bi
kịch như bi kịch giữa tình yêu và thù hận của Romeo và Jiuliet …


- Ngun mẫu:
Vũ Như Tơ là một nhân vật có thật đã từng được “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép
rất tỉ mỉ: "Trước đây,Vũ Như Tô một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp những thanh nứa làm
thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua; nhà vua bằng lịng phong cho
Như Tơ làm đơ đốc đứng trơng nom việc dựng hơn trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi
cơng làm Cửu trùng đài. "(Khâm Định Việt Sử Thơng Giám Cương Mục Chính Biên,
quyển 26). Tuy nhiên Cửu trùng đài đã làm "Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân
năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha mơn ở trong ngồi
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các
nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại,
sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên mien khơng dứt. Qn lính đắp thành
mắc chứng dịch lệ đến một phần mười."(Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Quyển
XV, Kỷ Nhà Lê, Tương Dực Đế). Sau đó, Trịnh Duy Sản phản nghịch, Vũ Như Tơ bị thợ
thuyền giết chết, xác quăng ngoài chợ, bị mọi người khinh khi nhổ nước bọt. Tuy nhiên, bi
kịch đó của họ Vũ là sự oan khuất bởi ông chỉ là người thừa lệnh của vua làm Cửu Trùng
Đài vì thế nhân dân lầm tưởng ông chỉ biết phụng sự cho hôn quân bạo chúa. Năm 1941,
Nguyễn Huy Tưởng đã minh oan cho họ Vũ bằng vở kịch năm hồi này.
- Giới thiệu Vũ Như Tô trong tác phẩm:
+ Trong vở kịch cũng như trong đoạn trích, Vũ Như Tơ là người nghệ sĩ tài năng, có
lý tưởng cao đẹp nhưng lâm vào cảnh ngộ không giải quyết được một cách đúng đắn vấn
đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì nghĩa là khơng giải quyết được mối quan hệ
phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống cuối cùng rơi vào bi kịch đau đớn.
+ Bối cảnh Vũ Như Tơ xuất hiện trong tác phẩm: Hồn cảnh xảy ra bi kịch của Vũ

Như Tô là bối cảnh của nước Việt Nam thời trung đại, vua quan ăn chơi hưởng lạc, nhân
dân rơi vào cảnh lầm than. Khi được Lê Tương Dực mời làm một kiến trúc sư xây dựng
Cửu Trùng Đài thì ban đầu Vũ Như Tơ không chịu hợp tác. Bản thân ông cũng căm ghét
Lê Tương Dực vì đây là một tên vua quen ăn chơi hưởng lạc. Khi bị Lê Tương Dực đe dọa
giết cả gia đình, ơng cũng khơng đồng ý. Vũ Như Tô đã nhờ một cung nữ là Đan Thiềm
mách đường chạy trốn, nhưng cung nữ Đan Thiềm vì say mê cái tài, cái đẹp đã khuyên Vũ
Như Tô hãy lợi dụng tiền bạc của Lê Tương Dực để thi thố tài năng, thực hiện khát vọng
nghệ thuật của mình. Khi Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm thì cũng là lúc
bi kịch bắt đầu.
2. Bi kịch của Vũ Như Tô
2.1. Giới thiệu về Vũ Như Tô
- Tài năng:
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài ngàn năm chưa dễ có một. Ơng có tài sai
khiến gạch đá như tướng cầm quân, có thể xây “những lâu đài tráng lệ mà khơng hề tính
sai một viên gạch”. Tài năng của ơng cịn được ví như người nghệ sĩ “chỉ cần vẩy bút là
chim, hoa đã hiện trên mảnh lụa, thần tình biến hóa như cảnh hóa cơng”.
- Khát vọng cao đẹp:
Vũ Như Tơ khơng chỉ có tài mà ơng cịn là nghệ sĩ lớn có khát vọng, hồi bão, lí
tưởng lớn lao, cao cả. Ơng muốn đem hết tài năng của mình để xây dựng một cơng trình
tuyệt mĩ “tranh tinh xảo với hóa cơng” và “bền như trăng sao” để cho nhân dân ta nghìn
năm cịn hãnh diện. Cơng trình kiến trúc vĩ đại tuyệt mĩ ấy sẽ tô điểm cho non sông, đất
nước để giữa cõi trần có một cảnh bồng lai. Lí tưởng, khát vọng ấy của Vũ Như Tô xuất
phát từ thiên chức của người nghệ sĩ trong lao động, sáng tạo nghệ thuật, đem lại vinh dự
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


cho non sông và niềm tự hào cho hậu thế. Lý tưởng cao đẹp ấy ông gửi gắm ở Cửu Trùng
Đài.
Cửu Trùng Đài – như cái tên của nó – là một cơng trình kiến trúc vĩ đại. Tầm vóc
của nó được tính đếm bằng lượng gỗ, đá khối mà nghe qua cũng đủ kinh hoàng “hai trăm
vạn cây gỗ chất đống cao như núi, tồn những gỗ q vơ ngần”,“hai mươi vạn phiến đá
lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”... Tầm vóc của nó phải hình dung là
một cơng trình độc nhất vơ nhị, vượt xa tất cả những kỳ quan ở Trung Quốc, Ấn Độ,
Chiêm Thành,… những cơng trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng.
- Nhân cách:
Vũ Như Tơ cịn là người có cái tâm sáng, có bản lĩnh vững vàng, khơng sợ cường
quyền. Ơng khinh bỉ bọn thống trị thối nát, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc và ông cũng không
hám lợi, không hề sợ chết. Bởi thế, Lê Tương Dực đã yêu cầu ông xây dựng cửu Trùng
Đài, nhưng ông không khuất phục, ngay cả khi bị dọa sẽ giết chết, Như Tô vẫn không
thuận ý. Sau này, khi đã chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài được Lê Tương Dực thưởng
lụa là, châu báu ông đều đem chia hết cho thợ.
Ông cũng vượt lên mối hận riêng và những vất vả khổ sở của bản thân, gia đình để
xây dựng Cửu Trùng Đài. Mẹ bị xơ chết, các con thiếu đói, đau yếu, bản thân bị quan triều
khinh thị, lại bị đá đè gãy chân ông vẫn kiên định vì thành cơng của kiệt tác nghệ thuật.
2.2. Diễn biến bi kịch
Cửu Trùng Đài là hiện thân của cái đẹp, khơng phải cái đẹp nói chung mà là cái đẹp
“siêu đẳng”. Tuy nhiên, Đài Cửu Trùng lại là hiện thân cho cái đẹp xa hoa. Xây nên kỳ
quan ấy, tất nhiên cực kỳ tốn kém, một sự tốn kém khơng chỉ tính bằng tiền của ngân khố
quốc gia, mà cịn phải tính bằng cả mồ hơi, nước mắt và máu của nhân dân. Thế mà Đài
xây nên chỉ phục vụ cho kẻ ăn chơi sa đọa là vua Lê Tương Dực. Như vậy, ý nghĩa của
Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài
hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh
nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng,
Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hơi, xương máu,… giống như cơng trình kiến trúc Vạn Niên
của triều đình Nguyễn bị nhân dân nguyền rủa sau này:
“Vạn niên là vạn niên nào?

Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.
Cịn nhớ đời Tây Chu bên Trung Hoa, U vương vì Bao Tự mà bắt dân xây Giao Đài
để ăn chơi hưởng lạc, khiến cho lịng dân trong nước ốn hận rồi cuối cùng đời Tây Chu
cũng diệt vong. Và bao nhiêu vị vua khác thời phong kiến cũng vì ăn chơi hưởng lạc mà
khiến đất nước rơi vào cảnh nguy nan, bị nhân dân trừng phạt. Vũ Như Tô đã sai lầm khi
chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ thuần tuý nên vô hình chung trở thành kẻ cũng phe với Lê
Tương Dực và đối nghịch, gây đau khổ cho nhân dân. Để xây dựng Cửu đài, triều đình đã
ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt, thợ oán Vũ Như Tơ vì nhiều người chết vì tai nạn,
vì ông cho chém những kẻ bỏ trốn để giữ kỉ luật công trường. Nhân dân căm giận bạo
chúa, đồng thời cũng ốn hận, nguyền rủa Vũ Như Tơ. Mâu thuẫn đỉnh điểm khi Trịnh
Duy Sản phát động nổi loạn. Quần chúng nổi loạn giết chết tên hôn quân Lê Tương Dực,
đốt phá Cửu Trùng Đài và tìm giết Vũ Như Tô để rửa hận.
Đến trước khi chết Vũ Như Tô vẫn không thể nào trả lời câu hỏi xây dựng Cửu
Trùng Đài là đúng hay sai, là có cơng hay có tội? Khi Đan Thiềm mặt cắt khơng cịn hột
máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì ơng sẽ bị giết, nhưng Vũ
Như Tơ vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tơi có tội gì?”, vẫn quyết thực
hiện khát vọng của mình “Tơi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi
không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây!”. Ngay cả khi bị bắt Vũ vẫn
không tin là sự thật, khi Đan Thiềm nói lời vĩnh biệt vẫn “đời ta chưa tận, mệnh ta chưa
cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ”. Khi quân sĩ cười ầm lên và dọa vả vỡ
miệng, Vũ vẫn khơng ngừng nói về Cửu đài: “…vài năm nữa, Đài cửu trùng sẽ hoàn
thành, cao cả, huy hoàng giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai”. Vũ Như Tơ vẫn hi

vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã
diễn ra một cách phũ phàng tàn nhẫn vì chính An Hồ Hầu đã cho quân đốt phá kinh
thành, đốt phá Cửu Trùng Đài tan thành tro bụi.
Khi tận mắt thấy Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ thì Vũ mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên
trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng “Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta
cái tài để làm gì. Ơi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết! Dẫn ta
đến pháp trường”. Trong lời thoại, "mộng lớn", "Đan Thiềm", "Cửu Trùng Đài" là những
nỗi đau được Vũ Như Tô đặt kế tiếp nhau, tất cả những mất mát ấy như nhập hòa làm một,
thành một nỗi đau bi tráng, tột cùng. Bi kịch của Vũ Như Tô không chỉ là bi kịch bị nhân
dân coi là kẻ thù nên giết chết mà còn là bi kịch bị vỡ mộng lớn khi khát vọng, lí tưởng
cao đẹp bỗng tan tành. Cửu Trùng Đài mà Vũ Như Tô coi trọng hơn cả tính mạng đã bị tàn
phá khiến chính bản thân ông cũng không muốn sống. Sự đau đớn, thất vọng khiến ơng
sẵn sàng chấp nhận cái chết.
2.3. Lí giải bi kịch (nguyên nhân)
Về nguyên nhân bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả Tất Thắng nhận định “Lỗi lầm của
Vũ Như Tô là lỗi lầm của người nghệ sĩ tưởng rằng có thể thực hiện khát vọng nghệ thuật
của minh trong cuồng vọng của bạo chúa […] Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người
nghệ sĩ khát khao sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khát khao đó”. Đây là
một nhận xét hồn tồn xác đáng. Cụ thể hơn thì bi kịch của Vũ Như Tô là do:
- Mâu thuẫn giữa khát vọng cao cả của người nghệ sĩ xuất phát từ ý thức sâu sắc về
thiên chức của người lao động nghệ thuật với thực tại là xã hội không thuận chiều. Trong
hồn cảnh khơng thích hợp, cái đẹp thành ra phù phiếm, cao siêu, thậm chí là tai hại. Nhìn
chung thời đại, xã hội ấy khơng đủ điều kiện cho Vũ Như Tô phát huy tài năng.
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


- Mâu thuẫn giữa con người nghệ sĩ con người với con người công dân, tức là không
giải quyết được mâu thuẫn giữa lợi ích của nghệ thuật với quan niệm nghệ thuật cao siêu
thuần tuý với lợi ích thiết thực, trực tiếp của quần chúng nhân dân.
- Mâu thuẫn giữa mục đích cao cả với cách thực hiện khát vọng cao cả ấy. Mục đích
của Vũ Như Tơ là tốt đẹp nhưng con đường thực hiện lại sai lầm, khi ông lợi dụng quyền
lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật.
- Bi kịch của Vũ Như Tơ do chính bản thân ơng khi ơng chỉ say sưa với nghệ thuật
mà xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân. Khát vọng sáng tạo đến mức đắm chìm
trong mơ mộng của người nghệ sĩ đã đẩy Vũ Như Tô đến vị thế đối nghịch với nhân dân.
Chính vì thế mà ơng khơng những khơng thực hiện được hồi bão mà cịn biến thành kẻ
ác trong mắt người đời, phải trả giá bằng cả sinh mệnh của mình.
- Mặt khác, bi kịch của Vũ Như Tơ cũng do sự hiểu biết hạn chế của nhân dân. Họ
không hiểu được Vũ Như Tô, không ý thức được giá trị của nghệ thuật và càng không hiểu
được cần phải có những cơng trình nghệ thuật vĩ đại để tơ điểm cho đất nước và là niềm tự
hào cho hậu thế.
3. Cảm nghĩ về bi kịch Vũ Như Tơ
Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc bởi:
- Thể hiện và khơi gợi sự thương cảm với người nghệ sĩ có tài năng và nhân cách, có
đam mê, khao khát sáng tạo nghệ thuật, sẵn sàng hi sinh tất cả để tô điểm cho đất nước,
làm đẹp cho đời nhưng phải chịu một kết cục bi thảm.
- Tác phẩm viết về số phận người nghệ sĩ (Vũ Như Tô), số phận của nghệ thuật
(Cửu Trùng Đài) và từ đó thể hiện quan niệm khơng có cái Đẹp tách rời cái Chân, cái
Thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần t, nó phải có mục đích
chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. Nghệ thuật khơng thể cao hơn cuộc
đời bởi vì nghệ thuật chân chính phải xuất phát từ cuộc đời, thực chất là cuộc đời và cái
đích hướng đến của nghệ thuật cũng là cuộc đời. Người nghệ sĩ có hồi bão lớn lao, có
khát vọng sáng tạo những cơng trình vĩ đại cho mn đời thì phải biết xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa khát vọng với điều kiện thực tế cuộc sống, phải xử lí hài hịa giữa lợi ích của
nghệ thuật với lợi ích của nhân dân. Trong hồn cảnh xã hội không thuận chiều, họ phải
biết hi sinh nghệ thuật để đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Vì nghệ thuật sẽ chết yểu

khi nó là thứ nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật chân chính bao giờ cũng phải là nghệ
thuật vị nhân sinh. Cửu Trùng Đại là cơng trình nghệ thuật tuyệt mĩ nhưng nó khơng tuyệt
thiện, nó là một bơng hoa nhưng là bông hoa ác nên đã bị tiêu hủy.
- Bi kịch của Vũ Như Tô cũng đưa ta đến với suy nghĩ xã hội phải trân trọng, tạo
điều kiện cho người nghệ sĩ phát huy tài năng và phải biết quý trọng, nâng niu những giá
trị nghệ thuật đích thực (như Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài) bởi nghệ thuật chân chính là
cái Chân, Thiện, Mĩ mà con người mn đời vẫn khao khát và theo đuổi. Ngày nay, nếu
nhiều dân tộc trên thế giới được tự hào về những cơng trình nghệ thuật cha ơng họ để lại
5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

như tháp Eiffel của Pháp, Vạn lí trường thành của Trung Quốc, Kim tự tháp của Ai Cập,
chùa Vàng của Thái Lan… Và ngay cả quốc gia láng giềng nhỏ bé như Campuchia cũng
có Ăngcovat được cả thế giới biết đến, thì dân tộc ta với bốn ngàn năm lịch sử đã có được
những gì?
4. Lời tựa
Một năm sau khi hoàn thành vở kịch, tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã viết lời tựa cho
vở kịch. Trong đó, có đoạn viết: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô
phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Đoạn văn cho thấy, Nguyễn Huy Tưởng dường như vẫn chưa tìm được cách giải
quyết triệt để các mâu thuẫn trong vở kịch của mình. Vũ Như Tô đáng tôn vinh ca ngợi hay
đáng thương hại? Xây đài Cửu Trùng là đúng hay sai? Những kẻ giết Vũ Như Tô đúng hay
Vũ Như Tô đúng? Thậm chí, đam mê nghệ thuật khiến nhà văn có dấu hiệu “nghệ thuật vị
nghệ thuật” khi nhận mình là người cùng bệnh với Đan Thiềm. Có lẽ đây là một cách để
ông khơi gợi đến cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm nghệ thuật là "nghệ thuật vị nghệ
thuật" và “nghệ thuật vị nhân sinh" diễn ra trên văn đàn vào những năm 1930. Trong cuộc

đấu tranh quyết liệt ấy, phe “nghệ thuật vị nghệ thuật" cho rằng nghệ thuật chỉ thuần túy là
nghệ thuật mà thôi và nghệ thuật là phải hướng đến cái đẹp lớn lao, siêu đẳng. Trái ngược
với quan điểm trên, trường phái "nghệ thuật vị nhân sinh" lại quan niệm rằng nghệ thuật
suy cho cùng thì cũng phải quay lại phục vụ cuộc sống con người, mà theo như Nam Cao
nói "Nghệ thuật khơng cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Và nhà văn
không được trốn tránh mà phải “đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động
của đời". Trong hồn cảnh đó, vở kịch “Vũ Như Tơ” của Nguyễn Huy Tưởng ra đời như
góp thêm một tiếng nói bênh vực cho quan điểm "nghệ thuật vị nhân sinh". Bởi trong vở
kịch ấy ông đã thể hiện cho người đọc thấy nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì
đó nó chỉ là những bơng hoa ác và chết yểu mà thôi.
III. KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật:
Bằng một ngơn ngữ kịch có tính tổng hợp (miêu tả, kể, bộc lộ...) mang tính hành
động cao, nhịp điều nhanh chóng, gấp gáp, các lớp kịch ngắn kết hợp với tiếng reo hò,
tiếng động dưc dội… nhất là trong hồi cuối của vở kịch Vũ Như Tô, tác giả đã dẫn dắt
hành động xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh lịch sử hoành tráng trong
nhịp điệu bão tố của nó. Mâu thuẫn kịch bị đẩy lên đến cao trào, giúp bộc lộ rõ tính cách
nhân vật Vũ Như Tơ.
2. Nội dung:
Nguyễn Huy Tưởng đã từng nói rằng “Người khơng biết lịch sử nước mình giống
như con trâu đi cày ruộng, cày ruộng nhà ai cũng được”. Thông qua vở kịch “Vũ Như Tô”,
nhà văn đã thể hiện sự am hiểu lịch sử dân tộc, từ đó bồi đắp thêm cho bạn đọc tình yêu
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


với lịch sử dân tộc mình. Tác phẩm khơng chỉ tái hiện được khơng khí lịch sử của dân tộc
ở một thời đại mà sâu sắc hơn đã phản ánh được một vấn đề nhức nhối trong đời sống văn
chương nghệ thuật. Vở kịch thể hiện tâm huyết của nhà văn và có sức sống bền vững nên
sau mấy chục năm kể từ khi ra đời, đến nay nó vẫn cịn ngun giá trị, thậm chí cịn có tính
thời sự trong đời sống hiện đại.
Đề bài 2: Phân tích nhân vật Đan Thiềm trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu trùng đài”
(trích vở kịch "Vũ Như Tơ") của Nguyễn Huy Tưởng.
I. MỞ BÀI:
- Giới thiệu Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô:Tk đề 1
- Giới thiệu nhân vật Đan Thiềm: Tạo nên thành công cho tác phẩm “Vĩnh biệt Cửu
Trùng Đài” khơng chỉ qua nhân vật chính Vũ Như Tơ mà cịn phải nhắc đến nhân vật Đan
Thiềm- một cung nữ có cái nhìn tỉnh táo, thức thời và đặc biệt nhưng quan trọng hơn là có
một tình u mãnh liệt dành cho cái đẹp.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Bối cảnh nhân vật xuất hiện:
Bối cảnh của vở kịch cũng như bối cảnh xuất hiện của nhân vật là nước Việt Nam
thời trung đại, vua quan ăn chơi hưởng lạc, nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Khi được Lê
Tương Dực mời làm kiến trúc sư xây dựng Cửu Trùng Đài thì ban đầu Vũ Như Tơ khơng
chịu hợp tác. Bản thân ông cũng căm ghét Lê Tương Dực vì đây là một tên vua quen ăn
chơi hưởng lạc. Khi bị Lê Tương Dực đe dọa giết cả gia đình, ơng cũng khơng đồng ý. Vũ
Như Tơ đã nhờ Đan Thiềm mách đường chạy trốn, nhưng vì say mê và thương tiếc cái tài,
cái đẹp mà Đan Thiềm đã khuyên Vũ Như Tô hãy lợi dụng tiền bạc của Lê Tương Dực để
thi thố tài năng, thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình. Và Vũ Như Tơ đã nghe theo lời
khuyên của Đan Thiềm nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài và cũng chính bà là người
khuyên Vũ Như Tô đi trốn.
- Giới thiệu nhân vật:
+ Đan Thiềm không phải là nhân vật trung tâm của tác phẩm nhưng có vai trị làm
nổi bật nhân vật chính Vũ Như Tô và giúp chúng ta hiểu rõ hơn tư tưởng chủ đạo của tác
phẩm.

+ Đan Thiềm là một cung nữ say mê cái đẹp, trân trọng người tài, có con mắt nhìn
đời nhưng trong tác phẩm nhân vật cũng rơi vào những bi kịch đau đớn. "Bệnh Đan
Thiềm" (như chữ của Nguyễn Huy Tưởng) là bệnh mê đắm người tài hoa, hay bệnh của kẻ
"biệt nhỡn liên tài" (như chữ của Nguyễn Tuân). Nhưng cái tài ở đây không phải cái tài nói
chung mà là một tài năng nổi bật, siêu đẳng. Tìm hiểu sẽ thấy ở nhân vật có những nét đẹp
đáng q, đáng trân trọng mà ít người có được.
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

2. Diễn biến tâm trạng và tính cách Đan Thiềm
2.1. Đan Thiềm là tri âm, tri kỉ nhưng cũng là người gây ra bi kịch của Vũ Như Tô
- Trong vở kịch, Đan Thiềm là tri kỉ, tri âm của Vũ Như Tơ. Nếu Vũ Như Tơ là
người có tài, khao khát được thi thố tài năng thì Đan Thiềm là người say mê cái tài, cái
đẹp, mê đắm những người có tài năng siêu việt. Khơng chỉ đam mê, tơn thờ cái tài, cái đẹp
mà Đan Thiềm cịn là người ln khích lệ, động viên, thậm chí sẵn sàng hi sinh để bảo vệ
cái tài cái đẹp. Dù chỉ là một cung nữ nhưng nàng luôn mang một nỗi ưu tư về cái tài, cái
đẹp và những giá trị cao đẹp ở trên đời. Tình yêu của Đan Thiềm với cái đẹp và người tài
xuất phát từ tấm lòng của một người con yêu nước có tinh thần tự tơn dân tộc, muốn hồn
thành cơng trình nghệ thuật kì vĩ, hồnh tráng để điểm tơ đất nước.
- Sự tri âm tri kỉ của của Đan Thiềm với Vũ Như Tô được thể hiện rõ:
+ Đối với Đan Thiềm, Vũ Như Tơ là một viên ngọc q, là người có trí sáng như
vầng nhật nguyệt. Nàng thể hiện sự đề cao, tôn thờ và gọi ông là ông Cả.
+ Khi Vũ Như Tô nhờ Đan Thiềm mách đường chạy trốn thì chính Đan Thiềm là
người đã thuyết phục Vũ Như Tô lợi dụng tiền bạc, quyền lực của vua trổ để hết tài năng
để xây dựng Cửu Trùng Đài, để sáng tạo nghệ thuật tạo nên một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại
“bền như sao trăng” có thể “tranh tinh xảo với hóa cơng” để điểm tơ cho đất nước và cho

“dân ta nghìn thu cịn hãnh diện”.
+ Khi đám thợ thuyền cùng đám tạo phản làm loạn, Đan Thiềm“hớt hơ hớt hải, mặt
bà cắt khơng cịn hột máu” truy tìm bằng được Vũ Như Tơ, nhanh chóng báo tin và khẩn
khoản khuyên Vũ Như Tô hãy bỏ trốn bởi nếu Vũ Như Tơ bị giết chết thì tài năng của ơng
sẽ bị bỏ phí. Trong tâm trạng hoảng hốt, Đan Thiềm hết lời khuyên nhủ, thậm chí van nài
thúc giục Vũ Như Tô cầu xin ông hãy trốn đi nếu khơng bọn chúng bắt được thì nguy. Khi
bị bắt cô sẵn sàng quỳ gối cầu xin bọn chúng tha chết cho ơng, sẵn sàng đem thân mình để
chết thay cho Vũ Như Tơ. Hiếm có một người nào lại sẵn lịng hi sinh mạng sống của mình
cho người khác như thế.
Nhưng cũng chính Đan Thiềm là người đã tạo nên bi kịch của Vũ Như Tô và Cửu
Trùng Đài. Đan Thiềm chỉ nhìn thấy lợi ích của nghệ thuật mà chưa thấu tỏ nỗi khổ của
nhân dân. Nghệ thuật mà Đan Thiềm đang hướng đến là nghệ thuật vị nghệ thuật. Mà nghệ
thuật mà không xuất phát từ cuộc đời, vì cuộc đời thì nó cũng chết yểu mà thơi. Vì nghe
theo lời khun của Đan Thiềm mà Vũ Như Tô đã nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài, để
rồi bi kịch của ơng cũng bắt đầu từ đó. Xây dựng Cửu Trùng Đài vơ hình chung Vũ Như
Tơ trở thành kẻ cũng phe với Lê Tương Dực và đối nghịch, gây đau khổ cho nhân dân. Để
xây dựng Cửu đài, triều đình đã ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ
những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt, thợ ốn Vũ Như
Tơ vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ơng cho chém những kẻ bỏ trốn để giữ kỉ luật công
trường. Nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán hận, nguyền rủa Vũ Như Tô.
Mâu thuẫn đỉnh điểm khi Trịnh Duy Sản phát động nổi loạn. Quần chúng nổi loạn giết
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

chết tên hôn quân Lê Tương Dực, đốt phá Cửu Trùng Đài và giết cả Vũ Như Tô để rửa
hận.

2.2. Đan Thiềm là người tỉnh táo, sáng suốt, ứng xử mềm mại, uyển chuyển
- Đan Thiềm tôn thờ cái đẹp một cách tỉnh táo chứ không hề mù quáng như Vũ Như
Tô. Điều này được thể hiện rõ ngay cả ở khi nàng khuyên Vũ Như Tô lợi dụng Lê Tương
Dực để xây dựng Cửu Trùng Đài. Nàng thấy Vũ Như Tô là một người yêu nghệ thuật, sẵn
sàng sống chết vì nghệ thuật, tơn thờ nghệ thuật. Nếu một người tha thiết cống hiến cho đời
một kiệt tác của cái đẹp như Vũ Như Tơ nhưng lại khơng có điều kiện thực hiện thì chính
bản thân người đó cũng như đã chết. Thấu hiểu lẽ đó hơn ai hết, Đan Thiềm mới khuyên
Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài. Mặt khác, Vũ Như Tô từ chối quyết không xây Cửu Trùng
Đài thì sớm muộn cũng bị vua ép vào tội làm phản và bị giết chết. Vậy sao không nhân cơ
hội khun ơng Tơ xây dựng cơng trình ấy để vừa bảo vệ được mạng sống vừa thi thố được
tài năng.
- Đan Thiềm cũng là người thích ứng với hoàn cảnh xung quanh và đặc biệt nhạy
cảm với bi kịch của người có tài. Nếu Vũ Tơ đam mê sáng tạo đến mức khơng chú ý,
khơng cần biết gì đến xung quanh thì Đan Thiềm lại rất nhạy bén. Đan Thiềm nhìn thấy
nguyên nhân vì sao nhân dân căm ghét Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài. Theo Đan Thiềm
“ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ơng, cơng khố hao hụt là vì ơng, dân gian
lầm than là vì ơng, man di ốn hận là vì ơng, thần nhân trách móc là vì ông”. Đan Thiềm
cũng đau đớn nhận ra thất bại của giấc "mộng lớn" xây Cửu Trùng Đài, nhưng nhạy bén,
sớm sủa, kịp thời hơn Vũ Như Tô. Vậy nên, tâm trí của nàng giờ đây khơng cịn hướng vào
thành bại của việc xây Cửu Trùng Đài, mà hướng vào sự sống cịn của Vũ Như Tơ, người
nghệ sĩ tài ba "ngàn năm chưa dễ có một".
- Bên cạnh đó, Đan Thiềm cũng suy nghĩ thấu đáo và nhận thức rõ được thời thế, có
cách ứng xử rất linh hoạt và uyển chuyển. Nàng chỉ ra nguyên nhân và một mực khuyên
ngăn Vũ Như Tô bỏ trốn, chờ cơ hội khác vì đại sự vỡ rồi “Khi trước trốn đi thì ông nguy,
giờ trốn đi thì ông sống”. Đan Thiềm nhận thức được tình cảnh nguy nan “Ơng mà có
mệnh hệ nào thì nước ta khơng cịn ai điểm tơ nữa”. Nàng nhận rõ thời thế đại sự đã hỏng
chỉ mong Vũ Như Tô bỏ trốn chờ cơ hội khác, “Đợi chờ là thượng sách đừng để phí tài
trời”. Khi Vũ Như Tơ vẫn một lịng sống chết cùng Cửu Trùng Đài quyết khơng chịu chạy
trốn thì Đan Thiềm rơi vào tâm trạng đau đớn và thất vọng.
- Đan Thiềm có thể qn mình để khích lệ, bảo vệ cái tài, dám mạnh miệng buông

lời khuyên Ngô Hạch và xin được chết thay: “Tướng quân hãy nghe tôi đừng phạm vào tội
ác. Đừng giết ông cả. Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời! Tha cho ông cả. Tôi xin
chịu chết”. hoặc “Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho Ông Cả.
Ông ấy là một người tài”. Tấm lòng của người cung nữ thật bao la rộng lớn, sẵn sàng hi
sinh mạng sống để bảo vệ cái đẹp.
3. Bi kịch của Đan Thiềm
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Đến lúc nhận ra việc đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tơ cũng khơng được
nữa thì Đan Thiềm như đã thấy bi kịch sẽ xảy ra. Nàng đành buông lời vĩnh biệt tất cả "Đài
lớn tan tành! Ơng Cả ơi! Xin cùng ơng vĩnh biệt!" Đó là lời vĩnh biệt với Vũ Như Tô,
người kiến trúc sư tài năng nhưng cũng là lời vĩnh biệt với Cửu Trùng Đài, vĩnh biệt một
"giấc mộng lớn" trong máu và nước mắt. Cuối cùng, Đan Thiềm bị áp giải đi tàn nhẫn rồi
bị giết chết, cái đẹp Đan Thiềm tôn thờ và người tài đều bị hủy diệt bởi bọn gian tà hung
bạo. Bao nhiêu tâm huyết của người tài và người cung nữ say mê cái đẹp cùng biết bao mồ
hôi, công sức, xương máu, của cải của nhân dân đổ xuống sơng xuống biển, chỉ cịn lại
đống tro tàn và thây xác bao người bỏ mạng vì nó.
Vũ Như Tô và Đan Thiềm không chỉ là tri âm tri kỉ trong khát vọng mà còn tri âm tri
kỉ trong nỗi đau. Có thể nói nhân vật bi kịch trong tác phẩm khơng chỉ có Vũ Như Tơ mà
bao gồm cả Đan Thiềm. Nếu bi kịch của Vũ Như Tơ là bi kịch của tài năng và khát vọng
thì bi kịch của Đan Thiềm là bi kịch hồng nhan bạc mệnh, khổ lụy vì tài. Đan Thiềm cũng
phải nhận lấy cái bi kịch vỡ mộng giống như Vũ Như Tô. Yêu cái tài, cái đẹp nhưng không
bảo vệ được, khích lệ cái tài, cái đẹp nhưng lại chứng kiến người tài bị giết. Có lẽ đây
chính là bi kịch đau đớn nhất của Đan Thiềm. Bi kịch của Đan Thiềm còn là bi kịch nhan
sắc, bởi Đan Thiềm vốn là một cung nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bị ruồng bỏ, gần 20 năm bị

giam lỏng, hầu hạ cho vua, phải đành ngậm ngùi chôn vùi tuổi xuân của mình. Thậm chí,
nàng cịn bị khinh miệt, xem thường, phải nhận tiếng oan khó gột rửa là "gian phu dâm
phụ", là người phụ nữ khơng đoan chính, trên mê hoặc vua dưới thì gian díu với Vũ Như
Tơ.
III. KẾT BÀI
1. Nghệ thuật
Với tài năng trong cách xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân
vật một cách chân thuực, xúc động, ngôn ngữ nhân vật giàu tính cá thể, ngơn ngữ tính tổng
hợp cao, đặt nhân vật trong nhiều mối quan hệ: với Vũ Như Tô thì tri kỉ, với cung nữ thì bị
ghen ghét, tác giả đã thể hiện được sâu sắc tính cách của nhân vật Đan Thiềm trong tác
phẩm. Nhân vật mang một tính cách riêng, điển hình đã làm nên thành cơng của một tác
phẩm nghệ thuật.
2. Nội dung
Tác phẩm đã thể hiện được chân dung người cung nữ có tấm lịng yêu mến, say mê
cái đẹp, biết trân trọng người tài nhưng lại không may mắn gặp phải bi kịch. Thông qua
nhân vật Đan Thiềm, tác giả bộc lộ khát khao của người nghệ sĩ trong đời cần có kẻ tri âm,
tri kỷ trong hành trình sáng tạo nghệ thuật đầy cô đơn.

10



×