Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Quan hệ thương mại việt nam nhật bản (thời kỳ 1990 – 2007)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.56 KB, 15 trang )

Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
(Thời kỳ 1990 – 2007)

Tống Thùy Linh

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế thế giới & Quan hệ KTQT; Mã số: 60 31 07
Người hướng dẫn: TS. Trần Quang Minh
Năm bảo vệ: 2008


Abstract: Trình bày một số vấn đề lý luận chung về thương mại quốc tế; những đặc điểm
chủ yếu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Việt Nam và Nhật Bản; các nhân tố
chủ yếu thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Phân tích quan hệ thương
mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2007, chỉ ra được những thành tựu như:
sự tăng trưởng của thương mại hai chiều, sự cải thiện của cán cân mậu dịch, sự phát triển
của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; đồng thời cũng chỉ ra một số hạn chế bất cập của
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản: sự phát triển của quan hệ thương mại Việt -
Nhật chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước, cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu còn
nghèo nàn, chậm được cải thiện, chất lượng hàng hoá xuất khẩu chưa cao. Đề xuất một số
giải pháp chính sách đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt - Nhật ở tầm vĩ mô và vi mô đối
với Chính phủ và đối với doanh nghiệp

Keywords: Hợp tác song phương; Quan hệ thương mại; Nhật Bản; Việt Nam

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngược dòng lịch sử chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam và Nhật Bản vốn có quan hệ thương mại
từ hàng trăm năm nay. Ngay từ thế kỷ thứ XVI đã có những thương gia Nhật Bản đến kinh
doanh ở Việt Nam. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, quan hệ giữa hai nước cũng có nhiều thăng
trầm nhưng vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Và kể từ khi quan hệ ngoại giao chính thức


giữa Việt Nam và Nhật Bản được thiết lập vào tháng 9 năm 1973 thì quan hệ thương mại giữa
hai nước có điều kiện phát triển mạnh. Năm 1986, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, mở
cửa thị trường trong nước, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo
động lực cho quan hệ thương mại song phương phát triển mạnh hơn nữa. Đặc biệt, từ đầu thập
kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã đạt được nhiều
thành tựu rất đáng khích lệ. Nhật Bản luôn là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của
Việt Nam trong những năm gần đây với tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm khoảng 1/5
tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ ngoại thương giữa hai nước vẫn
còn khá nhiều hạn chế bất cập đòi hỏi sự cố gắng chung của cả hai nước để khắc phục nhằm đáp
ứng những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế khu vực đã và đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy thì
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thời gian qua đã phát triển như thế nào? Sự phát triển
đó diễn ra nhờ những nhân tố gì? Liệu có thể phát triển mối quan hệ thương mại giữa hai nước
trong tương lai hơn nữa hay không? Việt Nam cần phải làm gì để tăng kim ngạch xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản? Để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi này, việc nghiên cứu một cách toàn
diện và sâu sắc quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản là hết sức cần thiết và có ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả đã chọn chủ đề “Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản (Thời kỳ 1990 – 2007)” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều tài liệu đề cập đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Tuy
nhiên, các tài liệu này chỉ tập trung về từng mặt hàng cụ thể như: nông sản, thuỷ sản, thủ công
mỹ nghệ, sản phẩm gỗ hoặc khái quát quan hệ kinh tế, thương mại.
a. Thương mại một số mặt hàng
- Nguyễn Thế Vinh, Thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, Đại học Kinh tế Quốc
dân, Hà nội 2006.
- Phạm Thị Phương Nga, Xuất khẩu đồ gỗ nội thất Việt Nam sang Nhật Bản, Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà nội 2006.
- Nguyễn Thị Nhiễu (chủ nhiệm), Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển xuất khẩu nông, thuỷ sản và
hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà nội 2004.
- Nguyễn Thanh Đức, Nhật Bản - Thị trường mở cho xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam,

Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 5, tháng 10/2004.
- Đoàn Tất Thắng, Xuất khẩu hoa tươi sang Nhật Bản - Một thị trường có nhiều triển vọng, Tạp
chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2, tháng 4/2006.
- Trần Thu Cúc, Thực trạng thị trường nhập khẩu tôm của Nhật Bản và giải pháp đối với Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 3, tháng 6/2003.
- Dương Hồng Nhung - Trần Thu Cúc, Xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào thị trường Nhật
Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 1, tháng 2/2005.
b. Khái quát quan hệ hệ kinh tế, thương mại
- Trần Anh Phương, 25 năm quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản: Tiến trình phát triển và
vấn đề đặt ra, 25 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 1973 - 1998, Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà nội 1999.
- Trần Quang Minh, Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản: Thành tựu, vấn đề và giải pháp,
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 5, tháng 10/2005.
- Nguyễn Duy Dũng, Thực trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản, Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản, số 1, tháng 6/1995. Phùng Thị Vân Kiều: Quan hệ kinh tế Việt Nam -
Nhật Bản những năm gần đây, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 3, tháng 6/1999. Vũ Văn Hà,
Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 1,
tháng 2/2000.
Do vậy, tác giả luận văn muốn tổng hợp và cập nhật các tài liệu có liên quan để nghiên cứu đầy
đủ hơn về quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản (thời kỳ 1990 – 2007), tập trung vào một số
mặt hàng xuất và nhập khẩu chủ yếu. Từ đó, góp phần tạo nên cơ sở tham khảo cho việc hoạch
định chính sách thương mại của Việt Nam đối với Nhật Bản thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là phân tích thực trạng, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế của mối quan hệ
thương mại Việt Nam - Nhật Bản (thời kỳ 1990 – 2007). Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn là tổng hợp, thống kê số liệu, so sánh và phân tích
nhằm làm rõ thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong thời kỳ nói trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản (thời kỳ

1990 – 2007).
Trong phạm vi nghiên cứu quan hệ xuất nhập khẩu, luận văn chọn một số mặt hàng chủ yếu để
phân tích. Cụ thể là 6 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nhật Bản và 6 mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Nhật Bản. Các mặt hàng chủ yếu này thay đổi theo từng
năm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hệ phương pháp kết hợp logic và lịch sử, khái quát hoá và cụ thể hoá, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh trên cơ sở phân tích và tổng hợp số liệu. Ngoài ra còn dựa
trên các lý thuyết về thương mại quốc tế và chính sách thương mại.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề về lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản.
- Phân tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2007, chỉ ra được
những thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại song phương hơn nữa trong tương
lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
Chương 2. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2007.
Chương 3. Một số giải pháp chính sách đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về thương mại quốc tế
1.1.1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
1.1.1.1. Chủ nghĩa trọng thương
Các nhà kinh tế của chủ nghĩa trọng thương đã coi tiền là tiêu chuẩn căn bản của của cải. Theo
họ, một quốc gia giàu là phải có nhiều tiền, mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng trong phát

triển kinh tế thì phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Những người theo chủ nghĩa trọng thương cho
rằng của cải của một nước chỉ có thể tăng lên nhờ phát triển thương nghiệp, đặc biệt là ngoại
thương, tức là phát triển buôn bán với nước ngoài.
1.1.1.2. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối
Theo lý thuyết về lợi thế tuyệt đối do Adam Smith phát hiện: “Mỗi quốc gia chỉ nên sản xuất các
mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối, tức là sử dụng những lợi thế tuyệt đối đó họ có thể sản xuất
ra sản phẩm với chi phí thấp hơn các nước khác”. Theo đó, quốc gia nào có đất đai phì nhiêu thì
nên tập trung sản xuất trong ngành trồng trọt, nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp tại các nước
khác. Mỗi nước nên sản xuất chuyên môn hóa, dựa vào lợi thế tuyệt đối sẵn có của quốc gia thì
sẽ có lợi nhất.
1.1.1.3. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối)
Theo lý thuyết về lợi thế so sánh nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác
trong việc sản xuất tất cả sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tạo ra lợi ích khi tham gia vào
phân công lao động và thương mại quốc tế. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, nước đó sẽ
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất, tức là
chúng có lợi thế tương đối và nhập khẩu các sản phẩm mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất, tức là
sản phẩm không có lợi thế tương đối.
Lý thuyết thương mại quốc tế đã chỉ rõ: “Bất kỳ hai quốc gia nào tận dụng những lợi thế của mỗi
nước đều đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia và cho xã hội nói chung. Và sự phát triển thương
mại “hoàn toàn tự do” (theo cơ chế thị trường, không có sự can thiệp của nhà nước) sẽ đem lại
lợi ích tối đa cho xã hội”. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tùy theo mục tiêu kinh tế, chính trị ở mỗi giai
đoạn phát triển nhất định đều có những chính sách khuyến khích hoặc hạn chế trao đổi mậu dịch
đối với một số mặt hàng nào đó. Các công cụ chính sách để thực hiện các mục tiêu này là “trợ
cấp xuất hoặc nhập khẩu”; “hạn ngạch – quota”; “thuế quan – tariff”; “hạn chế xuất khẩu tự
nguyện – VER”;…
1.1.2. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
1.1.2.1. Thuế quan
Thuế quan được hiểu là loại thuế chính phủ đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
hoặc quá cảnh. Trong đó, thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, nên
người mua trong nước phải trả cho những hàng hóa nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người

xuất khẩu ngoại quốc thu được. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu.
Các nước đang phát triển thường sử dụng thuế xuất khẩu như một công cụ để tăng lợi ích quốc
gia.
1.1.2.2. Hạn ngạch
Hạn ngạch là qui định số lượng hoặc giá trị xuất nhập khẩu đối với từng hàng hóa, từng thị
trường. Hạn ngạch xuất khẩu là hạn chế số lượng xuất khẩu theo từng mặt hàng, theo từng quốc
gia, thị trường và theo thời gian. Hạn ngạch nhập khẩu là hạn chế số lượng nhập khẩu nên cũng
ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa và lợi ích xã hội
1.1.2.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraint – VER) được hiểu là một loại hạn
ngạch được thực hiện một cách “tự nguyện” bởi nước xuất khẩu đối với hàng xuất khẩu của
mình sang các nước khác nhằm tránh các biện pháp trả đũa do nước nhập khẩu đưa ra.

1.1.2.4. Những quy định về điều kiện kỹ thuật
Một quốc gia có thể hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu bằng cách đưa ra những
quy định về điều kiện kỹ thuật. Đây là những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa
nhằm bảo vệ sức khỏe, sự an toàn của con người, các loài động thực vật và môi trường, về bao bì
của hàng hóa nhập khẩu, …
1.1.2.5. Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp tiền trực tiếp hay cho vay với lãi suất thấp đối với doanh nghiệp
xuất khẩu trong nước hoặc cho các bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để họ có thể mua hàng hóa
do nước mình xuất khẩu nhằm khuyến khích xuất khẩu quốc gia.
1.2. Những đặc điểm chủ yếu về điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội của Việt Nam và Nhật
Bản
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Việt Nam
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với
Trung Quốc, phía Tây giáp với Lào, Campuchia, phía Đông và Nam trông ra biển Đông và Thái
Bình Dương. Đây là điều kiện địa lý thuận lợi giúp Việt Nam trở thành đầu mối giao thông quan
trọng từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.

Ngoài những tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, Việt Nam còn có nguồn tài nguyên
khoáng sản đa dạng như: than (trữ lượng khoảng trên 6 tỉ tấn), dầu khí (trữ lượng dầu mỏ khoảng
3 – 4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50 – 70 mét khối), kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc…),
… Hiện nay, Việt Nam chỉ mới khai thác và chế biến khoáng sản ở mức độ thấp, các khoáng sản
xuất khẩu chỉ ở dạng sơ chế, dầu chỉ là dầu thô. Đây là điều kiện thuận lợi trước mắt giúp phát
huy hiệu quả kinh tế cao mà cần ít vốn đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có các mỏ nhỏ rải rác
trên cả nước, rất thuận tiện cho việc khai thác và phát triển kinh tế giữa các vùng.


1.2.1.2. Dân cư và nguồn nhân lực
Tính đến năm 2007, dân số của Việt Nam là trên 85 triệu người, đứng thứ 2 tại Đông Nam Á và
đứng thứ 13 trên thế giới. Dân số Việt Nam được đánh giá là có quy mô lớn và phát triển nhanh
với tốc độ tăng dân số ở mức 1 triệu người/năm.
1.2.1.3. Thị trường tiềm năng
Việt Nam là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên trên mặt đất cũng như dưới nước, đất đai màu
mỡ rất phù hợp để phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp để xuất khẩu nông sản và thủy sản. Việt
Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên các tiềm năng đó chỉ mới khai thác
bước đầu, nên có thể cung ứng phần nào cho Nhật Bản. Mặt khác, Việt Nam cũng cần nhập khẩu
từ Nhật Bản nhiều thiết bị máy móc hiện đại, nguyên vật liệu cần thiết để phát triển kinh tế trong
nước. Theo Tổng cục Thống kê dự tính: Năm 2024, dân số Việt Nam sẽ vượt qua con số 100
triệu người, đạt 100,5 triệu người. Mật độ dân số lúc đó đạt 335 người/km2, tăng hơn nhiều so
với 258 người/km2 hiện tại. Dân số đông, trẻ thì nhu cầu tiêu dùng cao, là một điều kiện thuận
lợi cho việc tiêu thụ hàng hóa và phát triển kinh tế của Nhật Bản.
1.2.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Nhật Bản
1.2.2.1. Quốc đảo đồng nhất
Nhật Bản là quần đảo hình cánh cung, ôm lấy lục địa châu Á với diện tích khoảng 380.000 km2,
chiều dài đất nước khoảng 3.500 km. Trong lịch sử, trước năm 1945, quốc gia này chưa từng bao
giờ bị một quốc gia khác chiếm đóng. Điều này giúp hình thành nên một quốc đảo có sự đồng
nhất về dân tộc, về ngôn ngữ, về tôn giáo, về kinh tế, và cả sự đồng bộ về giáo dục.
Với hơn 90% dân số thuộc dân tộc Yamato (người Nhật) nên hầu hết mọi người đều có thể giao

tiếp với nhau bằng tiếng Nhật chuẩn được dạy trong trường học. Sự đồng bộ giáo dục trong
chương trình và chất lượng giảng dạy cũng được thực hiện trên khắp mọi miền đất nước. Tất cả
những sự đồng nhất kể trên tạo nên ý thức đoàn kết trong công việc, tinh thần tập thể, có tính kỷ
luật cao và ham học hỏi của người Nhật.
1.2.2.2. Siêu cường kinh tế
GDP bình quân đầu người của Nhật Bản luôn trong danh sách hàng đầu trên thế giới. Năm 2003,
GDP bình quân đầu người của Nhật Bản đạt 33.640 USD, tăng 0,8% so với năm 2004. Năm
1996, xuất khẩu của Nhật chiếm 8% thị trường thế giới và nhập khẩu chiếm 6,6%, đứng thứ 3
sau Mỹ và Đức. Năm 2004, Nhật Bản xuất siêu với kim ngạch 12 ngàn tỷ yên (khoảng 112,3 tỷ
USD).
1.2.2.3. Khoa học công nghệ, kỹ thuật chế tạo phát triển
Nước Nhật là nước có kỹ thuật chế tạo đứng hàng đầu thế giới. Nhật Bản đã có ưu thế tương đối
trong lĩnh vực công nghệ cao như: vi điện tử, chất bán dẫn, vi tính, người máy công nghiệp… Sự
phát triển của công nghệ Nhật còn được thể hiện qua cán cân buôn bán công nghệ, thể hiện khả
năng công nghệ và nghiên cứu phát triển của đất nước. Năm 2000, xuất khẩu kỹ thuật của Nhật
Bản đạt 1.057,9 tỷ yên, tăng 10,1% so với năm 1999.
1.2.2.4. Vốn đầu tư dồi dào
Năm 1967, tỉ lệ vốn đầu tư của các công ty Nhật Bản trong tổng số đầu tư nước ngoài của các
nước ASEAN chỉ chiếm 2%, thấp hơn nhiều so với lượng đầu tư của các công ty Mỹ, chiếm
82%. Tuy nhiên, sau gần chục năm, vào năm 1975, vốn FDI của các công ty Nhật ở khu vực này
tăng lên 41%, cao hơn hẳn tỉ lệ 18% của các công ty Mỹ. Lượng FDI của Nhật được đầu tư chủ
yếu vào các ngành thương mại và tài chính ở Bắc Mỹ và châu Âu. Năm 1986, 45,5% lượng FDI,
tương đương 10,2 tỷ USD đã được Nhật đầu tư vào Mỹ. Năm 1994, tổng FDI của Nhật Bản trên
thế giới là 41,05 tỷ USD.
1.2.2.5. Các sản phẩm với hàm lượng kỹ thuật cao
Kể từ khi thời đại công nghiệp hoá mới bắt đầu, việc bảo đảm cung cấp một nguồn năng lượng
ổn định luôn luôn là một thách thức đối với Nhật Bản. Các nhà khoa học của Nhật Bản đã nghiên
cứu thành công và đưa những kỹ thuật mới vào áp dụng trong cuộc sống, để sử dụng tiết kiệm
năng lượng hơn. Đó là những sản phẩm: vật liệu làm tường nhà và cửa sổ có hai lớp kính giúp
ngăn hơi nóng và khí lạnh tràn vào trong nhà; bóng điện huỳnh quang – tuổi thọ gấp 6 lần và chỉ

tiêu hao 1/4 năng lượng điện so với bóng điện thông thường với độ sáng tương tự; …
1.2.3. Nhận xét chung về lợi thế so sánh phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần nguồn vốn đầu tư dồi dào ở
Nhật để phát triển khoa học kỹ thuật, cải thiện cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế. Năm 2001, vốn
đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản chỉ đạt 160 triệu USD, và 9 tháng đầu năm 2002 là 90 triệu
USD. Ngoài ra, Việt Nam cần nhập các công nghệ tiên tiến hiện đại từ Nhật Bản. Bởi hiện tại
công nghệ của Việt Nam ở mức thấp so với khu vực như Thái Lan, Xingapo, Do vậy, muốn đạt
được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì Việt Nam cần tăng cường hợp
tác hơn nữa với các quốc gia, nhất là những quốc gia phát triển có vốn và công nghệ hiện đại như
Nhật Bản.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, Nhật Bản không chỉ cần nguồn lương thực phẩm
phục vụ cho đời sống hàng ngày mà còn cần nguồn nhiên liệu như than, dầu mỏ… phục vụ cho
sản xuất và kinh doanh. Trong vòng 10 năm, kể từ năm 1960 đến 1970, số mỏ than tại Nhật Bản
đã giảm từ 600 xuống còn 102. ến năm 1985, tại Nhật Bản chỉ còn 11 mỏ than lớn với sản lượng
hàng năm 16 triệu tấn. Số công nhân mỏ cũng chỉ còn 1/10, mức cao nhất là 230.000 người.
1.3. Các nhân tố chủ yếu thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
1.3.1. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một đặc trưng của sự
phát triển trên thế giới. Tất cả các quốc gia, dù ở trình độ phát triển nào cũng không thể ở ngoài
xu thế khách quan này, bởi mỗi nước muốn phát triển kinh tế, muốn bảo toàn các lợi ích của
mình đều phải tham gia vào xu thế chung của thời đại. Thực tiễn lịch sử cũng cho thấy, không
một quốc gia nào có thể phát triển với một nền kinh tế khép kín.
1.3.2. Chính sách đối ngoại mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Sự hội nhập ngày càng sâu của Việt Nam vào khu vực và quốc tế (gia nhập ASEAN, AFTA,
WTO…) khiến quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới
ngày càng phát triển. Nếu năm 1986 Việt Nam có quan hệ xuất nhập khẩu với 43 quốc gia, năm
1995 là 100 quốc gia, năm 2000 là 192 quốc gia thì hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.
1.3.3. Sự điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại hướng về châu Á của Nhật Bản
Năm 1977, khi Thủ tướng Nhật Fukuda công bố chính sách đối ngoại với Đông Nam Á của Nhật

Bản tại Manila thì quan hệ Nhật Bản – ASEAN mới trở nên tốt đẹp hơn. Chính sách đối ngoại
trên được biết đến như là học thuyết Fukuda, gồm ba nội dung chính: “Thứ nhất, Nhật Bản, một
quốc gia yêu cầu hòa bình, không chấp nhận vai trò siêu cường quân sự và dựa trên cơ sở đó,
quyết tâm đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng của Đông Nam Á, và của cả cộng đồng thế
giới; Thứ hai, Nhật Bản với tư cách là một người bạn thực sự của các nước Đông Nam Á sẽ làm
hết sức mình để củng cố mối quan hệ tin cậy lẫn nhau và dựa trên sự hiểu biết từ trái tim đến trái
tim với các nước này, mở rộng sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và cả trong các
lĩnh vực văn hóa và xã hội; Thứ ba, Nhật Bản sẽ là một đối tác bình đẳng với ASEAN và các
nước thành viên của họ và hợp tác tích cực với các nước này phù hợp với khả năng của mình
nhằm củng cố sự đoàn kết các mối quan hệ đặc biệt của nước này, cùng với các quốc gia khác
bên ngoài khu vực, xây dựng một quan hệ hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia Đông Dương và
như vậy sẽ đóng góp vào việc thiết lập hòa bình và thịnh vượng trong toàn khu vực Đông Nam
Á”.
Trong lĩnh vực đầu tư, từ năm 1951 đến 1984, FDI của Nhật ở các nước ASEAN đạt 12,6 tỷ
USD, chiếm 17,7% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản. Năm 1986, lượng FDI của
Nhật vào khu vực Đông Nam Á chỉ là 15 tỷ USD thì đến năm 1989 đã tăng lên 25 tỷ USD.
Trong lĩnh vực thương mại, các nước ASEAN ngày càng trở thành thị trường quan trọng của
Nhật Bản. Vào nửa sau những năm 1970, Nhật đã chiếm 25,1% tổng kim ngạch của ASEAN.
Trong 10 năm, từ 1973 – 1983, xuất khẩu của các nước ASEAN tới Nhật chiếm 23 - 30% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của khối này. Nhập khẩu của các quốc gia Đông Nam Á từ Nhật
chiếm 23 - 27% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Nhật Bản là một trong những quốc gia có viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho các quốc gia
khác lớn nhất trên thế giới. Từ những năm 1970, Nhật Bản đã vượt Mỹ về lượng ODA cho các
nước ASEAN. Đầu thập kỷ 90, Mỹ và Nhật đều có lượng ODA như nhau, nhưng Nhật Bản dành
tới 60% lượng ODA cho các nước châu Á, nhiều hơn so với 15% lượng ODA của Mỹ.

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM – NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2007

2.1. Những thành tựu chủ yếu của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản

2.1.1. Sự tăng trưởng của thương mại hai chiều
Nhật Bản là một trong những bạn hàng thương mại quan trọng của Việt Nam. Năm 1990, kim
ngạch thương mại song phương chỉ đạt 509,3 triệu USD, chiếm khoảng 10% trong tổng kim
ngạch thương mại của Việt Nam thì năm 1997 đã tăng lên 3.184,7 triệu USD, chiếm hơn 15%
trong tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam. Giá trị kim ngạch thương mại tăng dần qua
từng năm và tăng gấp hơn 6 lần trong vòng 8 năm.
2.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
Từ năm 1991 đến năm 2001, 11 năm liên tiếp, Nhật Bản luôn là bạn hàng số 1 của Việt Nam với
kim ngạch nhập khẩu tăng ổn định ngoại trừ năm 2001 giảm 2,53% so với năm 2000. Năm 1991
– 1993, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam lớn hơn 30% đến năm 1994 – 1996 giảm còn khoảng trên 20% và từ năm
1997 – 2001 giảm chỉ còn trên 10%. Các mặt hàng Việt Nam xuất sang Nhật Bản có giá trị lớn là
dầu thô, hải sản, hàng dệt may, than.
2.1.1.2. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản.
Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản sang Việt Nam là 169 triệu USD, thì đến năm
1997 đã tăng lên 1.509,3 triệu USD, tăng gần 9 lần trong vòng 8 năm. Nhật Bản xuất khẩu sang
Việt Nam chủ yếu là xe máy, ô tô các loại, xăng dầu, máy thu hình, phân bón, thuốc trừ sâu…
phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân. Tỷ trọng nhập khẩu từ Nhật Bản trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cũng tăng dần, đạt 13,02% vào năm 1997. Từ năm
1996 đến 2000, Nhật Bản xuất khẩu thêm sang Việt Nam những mặt hàng có giá trị cao, kỹ thuật
cao như: máy móc, phụ liệu may, linh kiện điện tử và ti vi, máy tính và linh kiện máy tính… đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Sự cải thiện của cán cân mậu dịch.
Trong cán cân mậu dịch với Nhật Bản, Việt Nam chủ yếu là thặng dư nhưng mức thặng dư ngày
càng giảm dần. Trong vòng 18 năm, chỉ có 4 năm nước ta nhập siêu, 14 năm còn lại Việt Nam
xuất siêu sang Nhật. Đây là một biểu hiện không bình thường, vì Nhật Bản ít khi ở tình trạng
nhập siêu trong quan hệ thương mại với các nước khác. Có thể giải thích bằng hai lý do chính.
Thứ nhất, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản tăng lên là nhờ tăng xuất khẩu dầu thô, chiếm
tỷ trong cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Thứ hai, Việt Nam
chỉ là thị trường nhỏ bé, chưa có tầm quan trọng với hàng xuất khẩu Nhật Bản nên Nhật Bản

chưa cần phải duy trì sự cân bằng trong cán cân thương mại đối với Việt Nam.
2.1.3. Sự phát triển của một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực
2.1.3.1. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nhật Bản
* Dầu thô
Năm 1990, dầu thô xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản chiếm 56,5% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của ta sang quốc gia này, với trị giá 193,4 triệu USD, tương đương 1.037 tấn. Đến năm
1996, Việt Nam xuất khẩu dầu thô với kim ngạch trị giá 757,7 triệu USD, vẫn duy trì tốc tộ tăng
trưởng trong 7 năm liên tiếp. Nhưng đến năm 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính,
xuất khẩu dầu thô của Việt Nam sang Nhật chỉ đạt 416,4 triệu USD, chiếm 24,85% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật.
* Hàng dệt may
Năm 2006, hàng dệt may sang Nhật đạt kim ngạch xuất khẩu 627,6 triệu USD, tăng 5,2% so với
cùng kỳ năm 2005, chiếm 12,0% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật của Việt Nam. Kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong tháng 8 năm 2006 sang thị trường Nhật Bản đạt
66,7 triệu USD, tăng 28,3% so với tháng 7 và tăng 10% so với cùng kỳ năm 2005.
* Hàng hải sản
Năm 1990, Việt Nam xuất khẩu hàng hải sản sang Nhật vớii kim ngạch 51,9 triệu USD, trong đó
chủ yếu là tôm đông lạnh, với giá trị 43,2 triệu USD, chiếm tới 83% kim ngạch xuất khẩu hàng
hải sản. Ngoài ra, còn có mực đông lạnh 7,4 triệu USD (chiếm 14,3%) và cá đông lạnh 1,3 triệu
USD (chiếm 2,5%). Khoảng thời gian từ 1991 – 1994, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của mặt
hàng này sang Nhật khá cao. Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này sang Nhật đã
284,8 triệu USD, tức tăng gần gấp 3 lần về giá trị so với năm 1990, nhưng chỉ tăng 5,21% so với
năm 1994, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật.
* Đồ gỗ
Đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang phải cạnh tranh với hàng hóa cùng loại của Trung Quốc,
Đài Loan, Thái Lan và Inđônêxia. Trung Quốc với ưu thế về nguồn nguyên liệu phong phú, nhân
công rẻ đã trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất vào thị trường Nhật (chiếm 41,4% thị phần),
tiếp theo đó là Đài Loan (chiếm 9%), Thái Lan (chiếm 8,7%) và Inđônêxia (chiếm 6,8%). Tại thị
trường Nhật Bản, 11 tháng đầu năm 2004, đồ gỗ nội thất của Việt Nam chỉ đứng thứ 5 với 7,2%
thị phần nhưng năm 2005 đã vươn lên vị trí thứ 4, trở thành nước có tốc độ xuất khẩu đồ gỗ vào

thị trường này nhanh nhất. Tháng 3 năm 2006, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 3, sau Trung Quốc,
Đài Loan, chiếm 8% thị phần và đến nay, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2.
* Linh kiên điện tử và ti vi, máy tính và linh kiện máy tính
Năm 1997 lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu sang Nhật linh kiện điện tử và ti vi, máy tính và linh
kiện máy tính. Kim ngạch xuất khẩu trong năm này đạt 20,1 triệu USD đã tăng lên 97,4 triệu
USD vào năm 2001, tức tăng gần 5 lần giá trị trong vòng 5 năm.

* Dây cáp điện
Năm 2001, Việt Nam có mặt hàng xuất khẩu mới sang Nhật là dây cáp điện với kim ngạch xuất
khẩu đạt 172,7 triệu USD. Những năm gần đây sản phẩm chế tạo dây, cáp điện Việt Nam đã có
chỗ đứng trên thị trường Nhật Bản với tốc độ tăng trưởng đạt 53% năm 2003 và trên 31% trong
2004 và 2005. Nếu năm 2004, dây, cáp điện Việt Nam đứng thứ 3 tại thị trường này, sau Trung
Quốc và Philíppin thì hiện Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng đầu của dây, cáp điện Việt
Nam. Tỷ trọng của mặt hàng này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
cũng tăng dần qua từng năm, từ 9,2% năm 2003 lên 10,77% năm 2005.
2.1.3.2. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Nhật Bản
* Phân bón
Năm 1990, Việt Nam nhập 53.800 tấn phân bón với trị giá lên tới 10,1 triệu USD, chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu từ Nhật 5,98%. Năm 1991, phân bón là mặt hàng nhập
khẩu có kim ngạch lớn nhất, đạt 12,8 triệu USD, tương đương với 66.000 tấn. Giá trị của mặt
hàng nhập khẩu này chiếm tới 8,12% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Nhật.
* Xe máy
Năm 1992, những chiếc xe máy với thương hiệu nổi tiếng toàn cầu của Nhật như Honda,
Yamaha… đã xuất hiện nhiều hơn tại Việt Nam. Thời điểm này, Nhật Bản đã xuất sang Việt
Nam 19.800 xe máy với tổng trị giá lên tới 18,0 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu phương tiện
vận chuyển, đi lại phù hợp với Việt Nam chiếm tới 8,12% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Nhật
Bản
* Xăng dầu
Năm 1993, xăng dầu là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ 3 của ta từ Nhật. Việt Nam đã nhập 48.100
tấn xăng dầu với kim ngạch nhập khẩu 10,9 triệu USD. Ba năm sau đó, 1993 – 1995, kim ngạch

nhập khẩu của mặt hàng này từ Nhật luôn tăng đều, từ 17,6 triệu USD năm 1993 lên 40,2 triệu
USD. Nhưng kể từ năm 1996 trở đi, cùng với sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 1997, kim
ngạch nhập khẩu xăng dầu từ Nhật ngày càng suy giảm, chỉ đạt 1,405 triệu USD năm 2001.
* Sắt thép
Năm 1997, sắt thép chiếm 4,08% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật. Việt
Nam đã nhập 116.500 tấn sắt thép từ Nhật, với trị giá 61,7 triệu USD, tăng gần 60 lần so với kim
ngạch nhập khẩu năm 1990 là 1,1 triệu USD. Năm 1999, sản lượng sắt thép nhập khẩu từ Nhật
Bản giảm đáng kể, từ 396.000 tấn năm 1998 xuống còn 286.400 tấn năm 1999, khiến kim ngạch
nhập khẩu sắt thép giảm 23,9% so với năm trước.
* Máy móc, thiết bị phụ tùng
Năm 2002, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu máy và phụ tùng máy xây dựng, máy móc thiết bị thông
tin liên lạc, thiết bị và dụng cụ dùng cho ngành y… từ Nhật nhưng với kim ngạch nhỏ hơn, chỉ
đạt 416,49 triệu USD, giảm gần 31% so với năm 2001. Tỷ trọng của mặt hàng này trong tổng
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cũng giảm nhiều, chỉ còn 16,62%.
* Linh kiện điện tử và ti vi, máy tính và linh kiện máy tính
Năm 1996 là năm đầu tiên, mặt hàng chế tạo linh kiện điện tử và ti vi, máy tính và linh kiện máy
tính của Nhật Bản nhập khẩu vào Việt Nam. Với kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 21,1 triệu USD
trong năm 1996 nhưng đây là mặt hàng có kim nghạch nhập khẩu tăng nhanh, đạt 449,3 triệu
USD năm 2000, tức tăng gấp hơn 20 lần về giá trị trong vòng 5 năm, chiếm tỷ trọng trong tổng
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật là 19,53%.
2.2. Một số hạn chế bất cập của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
2.2.1. Sự phát triển của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản chưa thực sự tương xứng với
tiềm năng của mỗi nước
Trong sáu năm gần đây, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản luôn tăng
trưởng 18 – 20% mỗi năm song còn quá nhỏ bé, không cân xứng so với tiềm năng của hai nước.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật chiếm khoảng hơn 10% trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu Việt Nam nhưng chỉ chiếm gần 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật
Bản. Trong khi đó, tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản với Trung Quốc, Xingapo,
Malaixia, Thái Lan và Inđônêxia tương ứng là 13,2%, 2,9%, 2,7%, 2,6% và 2,3% Nếu so sánh
với các đối tác thương mại khác của Nhật trong khu vực ASEAN, kim ngạch thương mại Việt

Nam – Nhật Bản cũng còn rất nhỏ bé.
2.2.2. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu còn nghèo nàn, chậm được cải thiện
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thời gian qua vẫn là những mặt hàng
truyền thống, vốn là thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, chứa đựng hàm lượng lao động
hay nguyên vật liệu thô cao. Tỷ trọng của ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, hàng hải
sản, hàng dệt may vẫn lớn, khoảng 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Nhật Bản. Tỷ trọng mặt hàng chế tạo linh kiện điện tử - ti vi, máy tính – linh kiện máy tính đã từ
1,2% lên 4,44% trong vòng 10 năm. Tỷ trọng của mặt hàng dây điện và cáp điện cũng tăng từ
6,88% lên 10,92% trong vòng 7 năm. Tuy nhiên, mức tăng tỷ trọng của các mặt hàng chế tạo,
cũng như một số mặt hàng (giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, rau quả, hoa) còn thấp
2.2.3. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu chưa cao
Trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt
351 tỷ USD, năm 2007 đạt 621 tỷ USD (tăng 7,2% so với năm 2006). Điều này cho thấy, Nhật
Bản vẫn là một thị trường xuất khẩu tiềm năng mà Việt Nam cần quan tâm trong tương lai.
Nhưng các doanh nghiệp Việt Nam muốn đứng vững trên thị trường này cần nâng cao chất
lượng hàng hóa xuất khẩu – yếu tố mà người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm nhất.
Tháng 9 năm 2006, Nhật cũng phát hiện ba lô hàng tôm và thủy sản nuôi nhập khẩu vào nước
này của hai doanh nghiệp Việt Nam có dư lượng chất kháng sinh không được phép tồn đọng
trong thực phẩm nên bị kiểm tra 50% lô hàng. Điều này không chỉ gây tổn hại uy tín cho từng
doanh nghiệp riêng lẻ mà còn gây tổn hại đến ngành thủy sản của Việt Nam, khiến người tiêu
dùng Nhật có ấn tượng xấu với các sản phẩm khác của Việt Nam.


CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƢƠNG
MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN

3.1. Các giải pháp chính sách ở tầm vĩ mô
3.1.1. Đối với Chính phủ
- Chính phủ Việt Nam nên có kế hoạch cụ thể cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng của ngành thương
mại, đảm bảo thuận lợi cho việc giao nhận hàng, vận chuyển. Mặt khác, Chính phủ Việt Nam

cần đẩy mạnh việc xây dựng công nghiệp phụ trợ, đặc biệt cải thiện các dịch vụ liên quan đến
xuất khẩu, như giao thông vận tải, thủ tục hải quan (thủ tục hải quan phức tạp tại Việt Nam là
vấn đề bị các công ty phi sản xuất kêu ca nhiều nhất), để tăng cường thu hút thêm FDI của các
công ty Nhật.
- Chính phủ Việt Nam cần tích cực đàm phán để hoàn tất Hiệp định thương mại song phương với
Nhật Bản, tạo điều kiện đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước
- Chính phủ Việt Nam cần xây dựng một chiến lược sản phẩm phù hợp và lựa chọn hình thức
thâm nhập hiệu quả để tăng cường kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản, trên cơ sở tăng tỷ trọng
sản phẩm đã qua chế biến sâu, giảm tỷ trọng sản phẩm thô hoặc sơ chế.
3.1.2. Đối với các doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần lựa chọn chiến lược phù hợp để thâm nhập thị trường Nhật
Bản như xuất khẩu, liên doanh và đầu tư trực tiếp.
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng thành lập văn phòng đại diện hoặc chi nhánh công ty
tại Nhật để thúc đẩy hoạt động kinh doanh
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng một chiến lược hoạt động kinh doanh phù hợp với
xu thế phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.


3.2. Các giải pháp chính sách ở tầm vi mô
3.2.1. Đối với Chính phủ
- Chính phủ Việt Nam nên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho các
cán bộ lãnh đạo và chuyên viên thương mại của các công ty Việt Nam có tham gia vào mậu dịch
quốc tế.
- Chính phủ Việt Nam cần phải thành lập thêm hoặc củng cố hoạt động của các văn phòng xúc
tiến thương mại của Chính phủ nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng xuất khẩu của Việt Nam.
3.2.2. Đối với các doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư chi phí để nghiên cứu thị trường, phong tục tập quán,
văn hóa tiêu dùng của người Nhật.
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực nghiên cứu cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao chất
lượng và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu để thích ứng với nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng

của thị trường Nhật Bản.
- Một vấn đề quan trọng nữa là các doanh nghiệp Việt Nam phải biết quan tâm và bảo vệ thương
hiệu của mình. Muốn giữ vững thị trường, ổn định xuất khẩu, không còn con đường nào khác,
các doanh nghiệp Việt Nam phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài.
- Các doanh nghiệp Việt Nam nên đầu tư marketing trực tiếp sản phẩm của mình tới người tiêu
dùng Nhật Bản. Hình thức này bao gồm việc đặt hàng qua thư, tiếp thị qua điện thoại, tiếp xúc
khách hàng trực tiếp, bán hàng qua mạng và thương mại điện tử - một phương pháp bán hàng
hấp dẫn cho các nhà xuất khẩu tiếp cận với khách hàng Nhật Bản mà không nhất thiết phải thông
qua các kênh phân phối truyền thống.
- Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam
nên chú trọng và đầu tư vào phát triển thị trường trực tuyến.
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng một chiến dịch quảng cáo hợp lý nhất và đạt hiệu
quả cao nhất.

KẾT LUẬN

Sự gia tăng quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong những năm qua có nhiều lý do, song
suy cho cùng là xuất phát từ lợi ích kinh tế cũng như chính trị của cả hai bên. Đối với Việt Nam,
mở cửa buôn bán với Nhật Bản không chỉ nhằm phát huy lợi thế nguồn hàng của mình, mở rộng
thị trường mới mà còn là tiếp nhận hàng hóa và kỹ thuật nhằm bảo đảm nhu cầu sinh hoạt và
phát triển sản xuất của Việt Nam, qua đó mở rộng ảnh hưởng và uy tín của Việt Nam trong khu
vực. Đối với Nhật Bản xâm nhập thị trường Việt Nam có nhiều lợi ích do sự chênh lệch về trình
độ phát triển kinh tế, do Việt Nam là thị trường khá đông dân, nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, giá nhân công thấp và nhiều tiềm năng khác chưa được khai thác. Đặc biệt, xâm nhập
thị trường Việt Nam qua thương mại còn tạo điều kiện cho FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.
Thông qua những quan hệ này Nhật Bản muốn mở rộng và chứng tỏ vai trò quan trọng của mình
trong khu vực, muốn thay đổi hình ảnh của mình trong quá khứ, khẳng định vai trò không chỉ là
cường quốc kinh tế mà còn là cường quốc chính trị trong khu vực và trên thế giới. Khi phân tích
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ta thấy nổi lên một số đặc điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất là trong hoạt động mậu dịch với Nhật Bản, trong nhiều năm liên tục Việt Nam luôn ở

trong tình trạng xuất siêu. Xuất siêu ở đây không phản ánh thế mạnh trong hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong xuất khẩu chúng ta chưa tạo ra được nguồn hàng chủ lực
có tính dài hạn. Phần lớn chỉ tìm kiếm cái có sẵn (không phải nhiều) để xuất khẩu.
Thứ hai là tuy kim ngạch thương mại song phương Việt – Nhật có sự gia tăng mạnh trong những
năm gần đây, nhưng cần thấy với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm khoảng trên dưới 10
tỷ USD là khá nhỏ so với quan hệ thương mại của Nhật Bản với các quốc gia khác.
Thứ ba là cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự cải
thiện, các mặt hàng qua chế biến tăng thêm, các hàng chưa qua chế biến có giảm. Tuy nhiên,
Việt Nam cần cố gắng cải thiện cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu trong tương lai hơn nữa.
Thứ tư, để khắc phục những hạn chế bất cập nhằm đưa quan hệ thương mại giữa hai nước phát
triển hơn nữa góp phần đắc lực vào việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam, chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận đánh giá những
thành công cũng như tìm ra nguyên nhân thực sự của những hạn chế để có những biện pháp
chính sách thích hợp cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.
Thứ năm, qua những điều đã được phân tích và đánh giá trong luận văn này, có thể khẳng định
rằng triển vọng của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản là rất sáng sủa. Điều này hoàn
toàn có cơ sở từ thực tiễn phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước nói riêng và quan hệ Việt
Nam – Nhật Bản nói chung; và những cơ hội được tạo ra từ tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực đã và đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay và trong những năm sắp tới.


References
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thanh Bình (2006), “Một số nét trong quan hệ ngoại thương Nhật Bản – Hàn Quốc”,
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (1), tr. 10 – 14.
2. Phạm Thị Thanh Bình (2001), “Vai trò Nhật Bản trong phát triển kinh tế ASEAN”, Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (4), tr. 63 – 74.
3. Phan Trung Chính (2008), “Thu hút đầu tư của Nhật Bản vào nước ta và giải pháp phát triển
công nghiệp phụ trợ”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (4), tr. 37 – 39.
4. Trần Thu Cúc (2003), “Thực trạng thị trường nhập khẩu tôm của Nhật Bản và giải pháp đối

với Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (3), tr 68 - 75.
5. Nguyễn Duy Dũng (1995), “Thực trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản”,
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, (1), tr. 20 -22.
6. Dương Danh Dy (2005), “Nhật Bản qua con mắt một số người Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (2), tr. 15.
7. Nguyễn Thanh Đức (2004), “Nhật Bản - Thị trường mở cho xuất khẩu hàng may mặc của Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (5), tr 73 -77.
8. Vũ Văn Hà (2000), “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây”, Tạp chí
nghiên cứu Nhật Bản, (1), tr 35 - 36.
9. Hoàng Minh Hằng (2001), “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN trong thập kỷ 90 vừa
qua”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (5), tr. 71 – 76.
10. Hiệp hội Quốc tề về Thông tin Giáo dục (1993), Nhật Bản ngày nay, Xingapo, tr. 50 – 52.
11. Nguyễn Thị Thu Hương (2007), “Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc cho ngành dệt may
Việt Nam khi gia nhập WTO”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (1), tr 34 – 35.
12. Nguyễn Đình Hương – Vũ Đình Bách (1999), Quan hệ thương mại Việt Nam – ASEAN và
chính sách xuất – nhập khẩu của Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tr.
7- 36.
13. Phùng Thị Vân Kiều (1999), “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây”,
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, (3), tr. 25 - 31.
14. Tống Thùy Linh (2006), “Triển vọng của thị trường đồ gỗ Việt Nam tại Nhật Bản”, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Bắc Á, (5), tr. 27 – 35.
15. Hoàng Xuân Long (2002), “Bí quyết thành công trong sự bắt chước công nghệ của Nhật
Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (2), tr. 15.
16. Nguyễn Tiến Lực (2003), “Việt Nam trong lịch sử quan hệ thương mại Nhật Bản – Đông
Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (4), tr. 22 – 23.
17. Trần Quang Minh (2007), “Quan hệ Nhật Bản – ASEAN trong bối cảnh hội nhập châu Á”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (9), tr. 6 – 9.
18. Trần Quang Minh (2005), “Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản: Thành tựu, vấn đề và
giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (5), tr. 3 – 11.
19. Trần Quang Minh (2001), “Phục hồi kinh tế Nhật Bản: Những thách thức và triển vọng”, Tạp

chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (6), tr. 9.
20. Kim Ngọc – Nguyễn Ngọc Mạnh (2003), “Hợp tác Nhật Bản – ASEAN những thập kỷ đầu
thế kỷ 21”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (3), tr. 61 – 67.
21. Phan Tiến Ngọc (2005), “Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam – Thực trạng và thách thức”, Tạp
chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (1), tr. 70 – 71.
22. Nguyễn Thị Nhiễu (chủ nhiệm) (2004), Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển xuất khẩu nông,
thuỷ sản và hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Thương
mại, Hà Nội.
23. Dương Hồng Nhung - Trần Thu Cúc (2005), “Xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào thị
trường Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (1), tr 69 - 77.
24. Nipponia Tìm hiểu Nhật Bản (2004), (28), Heibosha, Nhật Bản, tr. 5 – 15.
25. Nipponia Tìm hiểu Nhật Bản (2002), (21), Heibosha, Nhật Bản, tr. 8 – 9.
26. Nipponia Tìm hiểu Nhật Bản (2004), (31), Heibosha, Nhật Bản, tr. 14 – 15.
27. Lê Văn Sang (2003), “Về vai trò đầu tàu thúc đẩy kinh tế Đông Á của Nhật Bản trong thế kỷ
XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (2), tr. 6.
28. Võ Hải Thanh (2008), “Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Đài Loan sau khi gia nhập
WTO”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (3), tr. 42 – 43.
29. Đoàn Tất Thắng (2006), “Xuất khẩu hoa tươi sang Nhật Bản - Một thị trường có nhiều triển
vọng”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (2), tr 65 – 66.
30. Tổng Cục Thống Kê (2006), Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội.
31. Lưu Ngọc Trịnh (2008), “35 năm quan hệ kinh tế Việt Nam – Việt Nam: Một chặng đường
phát triển”, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, (8), tr.11 – 16.
32. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (1999), 25 Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (1999), Quan hệ Nhật Bản – ASEAN: Chính sách và tài trợ
ODA, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
34. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (2004), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong bối
cảnh quốc tế mới, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (2000), Lý thuyết về lợi thế so sánh: Sự vận dụng trong

chính sách công nghiệp và thương mại của Nhật Bản 1955 – 1990, Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
36. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (2005), Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản: Quá khứ, hiện tại
và tương lai, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (2008), Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh hội
nhập Đông Á, Hà Nội.
38. Nguyễn Thế Vinh (2006), Thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, Luận văn thạc
sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
39.
40.
41.

Tiếng Anh
42.
43.
44.





×