Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Quản trị rủi ro tác nghiệp tại các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.3 KB, 22 trang )

Quản trị rủi ro tác nghiệp tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam

Nguyễn Hoài Linh

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Tài chính ngân hàng; Mã số: 60 34 20
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Phân tích nội dung cơ bản của quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng và quản trị rủi ro tác nghiệp. Đánh giá tình hình quản trị rủi ro tác nghiệp,
tìm ra những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của nó. Đề xuất một số biện pháp
nhằm hoàn thiện nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tác nghiệp ở các Ngân hàng
thương mại Việt Nam.

Keywords: Quản lý rủi ro; Kinh tế học tài chính; Ngân hàng thương mại; Việt
Nam

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế đã mở ra cơ hội để ngành Ngân hàng Việt Nam tiếp cận gần hơn
với trình độ và chuẩn mực quốc tế. Việt Nam gia nhập WTO đòi hỏi các Ngân hàng Việt
Nam phải đáp ứng các yêu cầu quản trị nói chung, quản trị rủi ro nói riêng theo chuẩn
mực quốc tế. Trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã quan tâm và
tập trung thực hiện quản lý một số rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro
lãi suất,…nên đến nay đã xây dựng được một nền tảng khá tốt cả về kiến thức và nguồn
lực để quản trị các loại rủi ro này. Song đối với rủi ro tác nghiệp thì hầu như chỉ mới bắt
đầu, trong khi đó, rủi ro tác nghiệp là loại rủi ro liên quan tới nhiều yếu tố như: con
người, hệ thống, quy trình, thủ tục nội bộ và cả các sự kiện bên ngoài. Đây là những yếu
tố rất đa dạng và thường xuyên biến đổi, do đó rủi ro tác nghiệp luôn xuất hiện trong hầu


hết các hoạt động quan trọng của ngân hàng.
Các nhà nghiên cứu ở một số nước tiên tiến đã tính toán ảnh hưởng bị tổn thất vì
rủi ro tác nghiệp trong các ngân hàng thông thường là 10% lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh (nguồn: báo cáo thực trạng ngành ngân hàng năm 2010- Viện chiến lược ngân
hàng nhà nước Việt Nam)
(1)
. Ngoài ra tổn thất do rủi ro tác nghiệp ảnh hưởng lớn đến uy
tín của ngân hàng. Trong xu thế phát triển hiện tại, RRTN ngày càng trở thành vấn đề lớn
do môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp, hành vi trái pháp luật không ngừng tăng
lên trong điều kiện hội nhập quốc tế và áp lực công việc, đòi hỏi kết quả và lòng trung
thành của nhân viên ngày càng cao cùng với sự tận tâm của lãnh đạo nhiều hơn; Sự phụ
thuộc vào công nghệ nhiều hơn cùng với tốc độ và khối lượng giao dịch tăng mạnh cũng
là yếu tố làm tăng rủi ro tác nghiệp.
Vì vậy, việc quản lý rủi ro tác nghiệp càng trở nên cấp thiết trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng tăng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Trên cơ sở vận
dụng những lý thuyết được học trong chương trình đào tạo sau đại học – Đại học kinh tế -
Đại học quốc gia Hà Nội vào điều kiện Việt Nam, học viên đã lựa chọn đề tài “Quản trị
rủi ro tác nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam” để làm luận văn nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản trị rủi ro tác nghiệp là một vấn đề quan trọng của các ngân hàng trên thế
giới. Tuy nhiên, đối với các NHTM Việt Nam, chỉ cách đây 5 năm, quản trị rủi ro tác
nghiệp vẫn là một khái niệm mới mẻ. Mặc dù có nhiều nỗ lực song cho tới nay Việt Nam
vẫn chưa thiết lập được khuôn khổ pháp lý chính thức cho hoạt động QTRRTN. Ngân
hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010
và thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/9/2010, Thông tư số 22/2011/TT-NHNN
ngày 30/8/2011 sửa đổi thông tư số 13 quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng trên cơ sở xem xét áp dụng thông lệ Basel II. Song các Ngân hàng
thương mại vẫn đang mong đợi NHNN sớm ban hành những quy định cụ thể hướng dẫn
triển khai hoạt động quản trị rủi ro tác nghiệp trên tất cả các mặt từ thiết lập chính sách,
quy định, quy trình cho đến phương pháp đo lường, yêu cầu vốn tối thiểu đối với rủi ro

tác nghiệp và cơ chế trích lập dự phòng RRTN.
Hiện nay việc nghiên cứu về RRTN còn rất hạn chế, cũng có một số công trình
nghiên cứu về loại rủi ro này nhưng chưa phản ánh đầy đủ, chưa đủ chiều sâu và mang lại
một ý nghĩa thực tiễn thực sự hữu ích, có tính ứng dụng lâu dài và phù hợp. Do một số
nguyên nhân chủ quan và khách quan mà các giải pháp không thể thực hiện một cách
trọn vẹn. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp và mong rằng có thể áp dụng được phần nào vào thực tiễn hoạt động, nâng cao
hiệu quả quản trị tại các NHTM.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
+ Nhằm nhận diện, đo lường, giám sát và hạn chế, giảm thiểu các chi phí, tổn thất
có thể xảy ra từ các hoạt động tác nghiệp.
+ Xác định trách nhiệm, quyền hạn của các cá nhân, đơn vị liên quan trong thực
hiện công tác quản lý rủi ro tác nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo vệ uy tín, đạt mục tiêu hoạt động kinh doanh
an toàn, hiệu quả của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Một là, phân tích nội dung cơ bản của quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
và quản trị rủi ro tác nghiệp.
+ Hai là, đánh giá tình hình quản trị rủi ro tác nghiệp, tìm ra những hạn chế, tồn tại
và nguyên nhân của nó.
+ Ba là, đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện nâng cao hiệu quả quản trị rủi
ro tác nghiệp ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quản trị rủi ro tác nghiệp tại các Ngân hàng thương mại
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn sẽ khảo sát các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 2007 đến 2010.
+ Định hướng và giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tác nghiệp tại các Ngân hàng

thương mại Việt Nam đến năm 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh - đối chiếu, phân tích -
tổng hợp, thống kê mô tả, nghiên cứu tình huống, sử dụng số liệu tổng hợp thứ cấp,
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm QTRRTN trên thế giới, đánh giá
khả năng vận dụng ở Việt Nam, đề xuất một số giải pháp có tính ứng dụng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tác nghiệp của ngân hàng
thương mại
Chƣơng 2: Thực trạng và phương pháp quản trị rủi ro tác nghiệp tại các Ngân
hàng thương mại Việt Nam
Chƣơng 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tác
nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÁC NGHIỆP CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1. Rủi ro tác nghiệp trong hoạt động của ngân hàng thƣơng mại
1.1. Giới thiệu về rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp tồn tại trong hầu hết các bộ phận của ngân hàng có thực hiện
nghiệp vụ giao dịch kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc các hoạt động chấp nhận rủi ro.
Rủi ro tác nghiệp là các tổn thất do con người, do quá trình xử lý công việc, do hệ
thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động, hoặc do các sự kiện bên ngoài gây ra.
Có thể hiểu RRTN là rủi ro phát sinh do yếu tố con người (cẩu thả, gian lận); sự yếu kém
trong hệ thống công nghệ, thông tin; sự sơ hở, thiếu các quy định của các NHTM. Định
nghĩa này bao gồm cả rủi ro pháp lý, nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược và rủi ro
danh tiếng.
Rủi ro tác nghiệp bao gồm: gian lận của nhân viên, các vụ trộm, lỗi hệ thống, mất

điện, lũ lụt, hoặc các lý do khác dẫn đến các sai sót ở một ngân hàng mà không thể phân
loại vào các rủi ro khác. Rủi ro tác nghiệp cũng bao gồm cả rủi ro tuân thủ. Rủi ro tuân
thủ là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát sinh do việc không tuân thủ
pháp luật, quy định, quy chế, thông lệ tốt, chính sách và quy trình nội bộ hoặc các chuẩn
mực đạo đức khác.
1.2. Nguyên nhân rủi ro tác nghiệp
a) Rủi ro từ bên trong nội bộ ngân hàng
- Rủi ro do cán bộ ngân hàng.
- Rủi ro do quy định, quy trình nghiệp vụ.
- Rủi ro từ hệ thống hỗ trợ, Core banking.
b) Rủi ro do các tác động bên ngoài:
Sự kiện bên ngoài là các yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng cũng góp
phần gây ra RRTN.
- Rủi ro do hành vi lừa đảo, trộm cắp và/hoặc phạm tội của các đối tượng bên
ngoài ngân hàng (hành động phá hoại, đánh bom ).
- Rủi ro do các sự kiện bên ngoài và/hoặc do tự nhiên (động đất, bão ) gây gián
đoạn /thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Rủi ro các văn bản, quy định của chính phủ, các ban ngành liên quan có sự thay
đổi hoặc có những quy định mới làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Tổn thất do các sự kiện bên ngoài gây ra có thể được giảm bớt thông qua bảo
hiểm, kế hoạch dự phòng và hệ thống phục hồi. Việc lập kế hoạch kinh doanh liên tục là
một cách quan trọng giúp ngân hàng chuẩn bị cho các rủi ro từ các sự kiện bên ngoài và
quản lý những rủi ro này.
c) Các vấn đề khác như: khối lượng và giá trị giao dịch, mức độ phức tạp của giao
dịch, những thay đổi mà ngân hàng đang gặp phải (quyền sở hữu mới, lãnh đạo mới, nhân
viên mới, sản phẩm mới, những thay đổi về chính sách, quy trình, hệ thống vv ). Các
ngân hàng đang trong quá trình sáp nhập với tổ chức hoạt động ngân hàng khác thì có
mức độ RRTN đặc biệt cao.
2. Quản trị rủi ro tác nghiệp tại các Ngân hàng thƣơng mại
2.1. Quản trị rủi ro tác nghiệp

Quản trị rủi ro tác nghiệp là quá trình tiến hành các biện pháp để xác định, đo
lường, đánh giá rủi ro tác nghiệp để đưa ra các giải pháp cảnh báo giảm thiểu rủi ro và
kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các giải pháp này.
2.2. Nội dung quản trị rủi ro tác nghiệp
2.2.1. Xác định rủi ro tác nghiệp
a) Xác định dấu hiệu rủi ro tác nghiệp
- Xác định các dấu hiệu RRTN gồm các nội dung: nguy cơ rủi ro, nguyên nhân
gây ra rủi ro, đối tượng gây rủi ro, mức độ rủi ro.
- Xác định dấu hiệu RRTN theo 07 nhóm (Dấu hiệu rủi ro liên quan đến mô hình
tổ chức, cán bộ và an toàn nơi làm việc; Dấu hiệu rủi ro liên quan đến cơ chế, chính sách,
quy định; Dấu hiệu rủi ro liên quan đến gian lận nội bộ; Dấu hiệu rủi ro liên quan đến
gian lận bên ngoài; Dấu hiệu rủi ro liên quan đến quá trình xử lý công việc; Dấu hiệu rủi
ro liên quan đến hệ thống công nghệ thông tin; Dấu hiệu rủi ro liên quan đến thiệt hại tài
sản).
b) Sự cố rủi ro tác nghiệp
- Các đơn vị chức năng chủ động theo dõi, báo cáo các sự cố rủi ro tác nghiệp.
- Ban quản lý rủi ro thị trường và tác nghiệp làm đầu mối xây dựng, lưu trữ bộ dữ
liệu tổn thất RRTN của ngân hàng.
- Báo cáo sự cố rủi ro tác nghiệp
c) Giao dịch nghi ngờ, bất thường
Các loại báo cáo giao dịch nghi ngờ, bất thường gồm: Báo cáo giao dịch nghi ngờ,
bất thường được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí do Ban quản lý rủi ro thị trường và tác
nghiệp phối hợp với các Ban nghiệp vụ đưa ra; Báo cáo giao dịch nghi ngờ, bất thường
được xây dựng cho từng phân hệ nghiệp vụ trong hệ thống chính và các hệ thống khác có
liên quan.
Căn cứ yêu cầu quản lý, lập báo cáo theo định kỳ hoặc đột xuất
Quản lý truy cập chương trình Báo cáo giao dịch nghi ngờ, bất thường.
2.2.2. Đo lường rủi ro tác nghiệp
a) Các phương pháp lượng hóa RRTN theo chuẩn mực của Basel II
Phƣơng pháp 1: Phƣơng pháp chỉ số cơ bản BIA

Các ngân hàng đang sử dụng phương pháp chỉ số cơ bản cần nắm giữ mức vốn đối
với rủi ro tác nghiệp bằng một tỷ lệ không đổi 15% của tổng thu nhập dương trung bình
trong 03 năm gần nhất của toàn ngân hàng, tức là nếu có bất kỳ năm nào mà tổng thu
nhập âm hoặc bằng 0 thì số liệu của năm đó không được tính vào giá trị trung bình.
K
BIA
=


GIi x α

n
1
/n
Trong đó: K
BIA
là chi phí vốn trong phương pháp chỉ số cơ bản
GI là tổng thu nhập năm của 03 năm gần nhất thỏa mãn điều kiện thu nhập dương
n = số lượng lần của ba năm kế trước mà tổng thu nhập là dương.
α = 15%, do Ủy ban quy định, có quan hệ với mức độ mở rộng ngành của mức đủ
vốn yêu cầu đối với mức độ mở rộng ngành của chỉ số.
Tổng thu nhập hàng năm được tính bằng thu nhập lãi ròng, cộng với thu nhập phi
lãi ròng theo định nghĩa bởi các cơ quan giám sát quốc gia và/ hoặc các tiêu chuẩn kế
toán quốc gia.
Phƣơng pháp 2: Phƣơng pháp tiêu chuẩn hóa SA
Theo phương pháp này, các hoạt động của ngân hàng được chia thành 8 mảng hoạt
động chính.

Các yếu tố Beta đặt cho các mảng hoạt động kinh doanh
Tài trợ doanh nghiệp (β

1
)
1
8%
Chi trả và thanh toán (β
4
)
1
8%
Thương mại và bán hàng (β
2
)
1
8%
Các dịch vụ ngân hàng đại lý (β
6
)
1
5%
Ngân hàng bán lẻ (β
3
)
1
2%
Quản lý tài sản (β
7
)
1
2%
Ngân hàng thương mại (β

4
)
1
5%
Môi giới bán lẻ (β
8
)
1
2%

Tổng chi phí vốn được tính theo công thức sau:
K
TSA
= { max{ 

GI x β

, 0}
năm 13
}/3
Trong đó :
K
TSA
= Chi phí vốn theo Phương pháp Tiêu chuẩn hóa
GI
1-8
= Tổng thu nhập hàng năm cho mỗi ngành kinh doanh
1-8
= Nhân tố vốn cho mỗi dòng kinh doanh, liên hệ mức độ vốn yêu cầu với
mức độ tổng thu nhập của mỗi dòng kinh doanh.

Tổng chi phí vốn được tính bằng bình quân 03 năm của tổng các chi phí vốn rủi ro
của 08 mảng hoạt động kinh doanh trong mỗi năm. Trong bất kỳ năm nào, các chi phí
vốn âm trong một mảng hoạt động nào có thể bù đắp bằng chi phí vốn dương của mảng
hoạt động khác không có giới hạn. Tuy nhiên, khi tổng chi phí vốn của các mảng hoạt
động trong 01 năm là âm thì đầu vào tử số cho năm đó sẽ bằng 0.
Phƣơng pháp 3: Phƣơng pháp đo lƣờng tiên tiến AMA
AMA cho phép NHTM điều chỉnh vốn bằng với đo lường rủi ro được tính toán
bằng hệ thống đo lường RRTN nội bộ của Ngân hàng đó. Theo AMA, yêu cầu vốn pháp
lý sẽ bằng đo lường rủi ro được tạo ra bởi hệ thống đo lường rủi ro hoạt động của ngân
hàng, có sử dụng tiêu chí định lượng và định tính đối với AMA.
2.2.3. Phòng ngừa và giảm nhẹ rủi ro tác nghiệp
- Thu thập, tổng hợp số liệu, tài liệu và các văn bản liên quan đến RRTN trong kỳ
báo cáo.
- Xây dựng kế hoạch phòng ngừa, giảm nhẹ rủi ro tác nghiệp
- Tổ chức thực hiện kế hoạch phòng ngừa và giảm nhẹ RRTN
2.2.4. Giám sát rủi ro tác nghiệp
2.2.5. Báo cáo thông tin quản lý rủi ro tác nghiệp
- Xây dựng hệ thống thông tin đầu vào phục vụ cho quản lý RRTN
- Báo cáo quản lý rủi ro tác nghiệp
2.2.6. Trích lập, phân bổ và sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro tác nghiệp
2.2.7. Xử lý vi phạm
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG PHÁP QUẢN TRỊ RỦI RO TÁC NGHIỆP
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Yêu cầu quản trị rủi ro nói chung, rủi ro tác nghiệp nói riêng đối với hệ
thống Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
1.1. Tình hình hoạt động của các NHTM Việt Nam
Từ năm 2008 cho đến cuối năm 2010, nền kinh tế trải qua nhiều giai đoạn thăng
trầm và hoạt động ngân hàng cũng nằm trong một diễn biến vô cùng phức tạp. Năm
2008: Đầu năm tập trung chống lạm phát, cuối năm chuyển sang chống suy giảm kinh tế

do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nổ ra từ cuối
năm 2008- hai nửa của năm diễn biến trái chiều nhau. Năm 2010, chính sách tiền tệ được
điều hành chủ động, thận trọng, linh hoạt. Tuy nhiên, những vấn đề kinh tế vĩ mô năm
2010 đẩy khu vực tiền tệ- ngân hàng vào những khó khăn mới như lãi suất cao, VND
chịu áp lực mất giá lớn, RRTN ngân hàng gia tăng.
Sau 20 năm đổi mới với mô hình ngân hàng hai cấp, ngành ngân hàng đã khẳng
định được vị thế, vai trò của mình trong sự ổn định kinh tế vĩ mô và đóng góp tích cực
cho phát triển kinh tế. Hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN ngày một nâng cao. NHNN
đã từng bước đổi mới phương thức quản lý điều hành theo nguyên tắc thị trường, tiếp cận
thông lệ quốc tế, hạn chế sự can thiệp hành chính vào hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện
cho sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và đảm bảo cho các ngân hàng được quyền tự
chủ trong kinh doanh.
Đối với các NHTM Việt Nam, mặc dù số lượng lớn, nhưng quy mô của hầu hết
các ngân hàng là nhỏ hơn so với các ngân hàng có quy mô trung bình của khu vực. Mức
độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thấp so với hệ thống ngân hàng trong
khu vực,
(*) Thực trạng ngành ngân hàng Việt Nam
- Khuôn khổ và năng lực thể chế của NHNN: Công tác thanh tra, giám sát ngân
hàng đã xử lý kịp thời và quyết liệt đối với các hành vi gây mất an toàn hệ thống, đe dọa
an ninh tiền tệ quốc gia. Đồng thời, Thanh tra ngân hàng đã thực hiện tốt vai trò là công
cụ quan trọng của NHNN trong việc tăng cường pháp chế, kỷ cương, kỷ luật, hiệu lực và
hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
- Cấu trúc và năng lực của hệ thống các NHTM: Hệ thống NHTM đã phát triển
theo xu hướng tự do hóa, mở cửa, thiết lập một thể chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực ngân hàng.
- Về sự lành mạnh và ổn định: được tăng cường tuy nhiên, năng lực quản trị nói
chung và kỹ năng quản trị rủi ro nói riêng chưa được phát triển đầy đủ để giải quyết một
cách hiệu quả các rủi ro về thanh khoản, về thị trường và tác nghiệp.
- Cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng: chưa đầy đủ và còn tiềm ẩn nhiều
rủi ro.

2. Thực trạng công tác quản trị RRTN tại các NHTM Việt Nam
2.1. Các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước
Mặc dù có nhiều nỗ lực song cho tới nay Việt Nam vẫn chưa thiết lập được khuôn
khổ pháp lý chính thức cho hoạt động QTRRTN. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN) vẫn đang nghiên cứu để thiết lập lộ trình áp dụng Basel II cho ngành ngân
hàng.
2.2. Tình hình tuân thủ của các Ngân hàng thương mại
Trong những năm gần đây, các NHTM cũng đã nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định, văn bản quy phạm pháp luật mà Chính phủ, NHNN và các Bộ, Ban, Ngành đưa ra.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các văn bản, một vài ngân hàng vẫn còn chưa nhận
ra tính nghiêm trọng trong việc chấp hành các quy định này nên vẫn tìm cách lách luật,
cố ý vi phạm. Những hành vi này đều được xử lý nghiêm túc, mang lại tính chuẩn mực và
đúng đắn, tạo lập lại tính nghiêm minh của pháp luật.
Trong quá trình tác nghiệp hàng ngày, các NHTM Việt Nam cũng đã chú ý đến
việc hạn chế các sai sót, sai phạm, kể cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Tuy nhiên, việc xác
định tầm quan trọng của QTRRTN đối với các NHTM vẫn chưa tương xứng với vai trò
thực sự của nó, đặc biệt là so với mối quan tâm và những nỗ lực của ngân hàng trong
quản lý rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường. Hệ thống quản lý rủi ro của các NHTM Việt
Nam hầu như vẫn đang bỏ ngỏ và chưa được đầu tư xây dựng một cách thỏa đáng và
chuyên nghiệp.
2.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tác nghiệp
a) Về cơ cấu quản trị rủi ro
Hầu hết các NHTM đều chưa hình thành được một cơ cấu QTRRTN hoàn chỉnh và
đầy đủ. Một số ngân hàng đi tiên phong như NHTMCP Công thương Việt Nam, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, NHTMCP Á Châu … đã có Ban quản lý rủi ro, Hội
đồng ALCO tại Trụ sở chính theo mô hình hiện đại, tuy nhiên hoạt động của Ban quản lý
rủi ro, Hội đồng ALCO vẫn chưa bao gồm đầy đủ các chức năng, và chưa thể hiện được
vai trò, ảnh hưởng đáng kể trong các quyết định kinh doanh của Ngân hàng.
Theo như báo cáo thống kê tới ngày 31/12/2011 thì chỉ có vài ngân hàng có bộ
phận quản trị rủi ro tác nghiệp tương đối hiệu quả, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng

hoàn chỉnh. Đó là ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu và một số ngân hàng
khác. Ngoài ra, một số NHTM khác cũng có thành lập ra ban Quản trị rủi ro tác nghiệp
nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
b) Về xây dựng khung pháp lý, quy định, quy trình quản trị RRTN
Có thể nói các NHTM Việt Nam đều chưa xây dựng được khung pháp lý hoàn
chỉnh về QTRRTN. NHTMCP Công thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam đã có quy định tạm thời về QTRRTN, áp dụng cho toàn hệ thống. Tuy
nhiên, Quy định này mới xây dựng lần đầu, dựa trên tham khảo các nguồn tài liệu nước
ngoài nên chưa thể chuẩn hóa ngay và áp dụng vào thực tế cũng có những bất cập. Nội
dung chính của Quy định đề cập đến các vấn đề như: trách nhiệm và quyền hạn của các
cấp điều hành, các phòng ban, các cán bộ đối với QTRRTN; các loại RRTN; nội dung
thực hiện QTRRTN tại các bộ phận… Quy định cũng đưa ra các mẫu biểu báo cáo hàng
quý, nhằm thu thập và tổng hợp các lỗi, sai sót, tổn thất rủi ro tác nghiệp trong hệ thống,
từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu RRTN.
c) Về thu thập dữ liệu tổn thất quản lý rủi ro tác nghiệp
Các NHTM Việt Nam hiện đang tiến hành thu thập dữ liệu tổn thất nội bộ theo
nhiều cách thức khác nhau, song về cơ bản vẫn chỉ dựa trên ghi chép và báo cáo thủ công
từ các Chi nhánh, đơn vị. Bên cạnh đó, các lỗi, sai sót hay chính xác hơn là các sự cố về
hệ thống công nghệ tuy xảy ra với tần suất nhỏ hơn, số tiền liên quan cũng có thể nhỏ hơn
nhiều, nhưng mức độ ảnh hưởng của nó đối với ngân hàng lại không hề nhỏ. Sở dĩ như
vậy vì sự cố hệ thống gây ảnh hưởng trên diện rộng, cùng lúc ảnh hưởng đến rất nhiều
khách hàng, rất nhiều giao dịch. Rủi ro về tác nghiệp xoay quanh 4 nguyên nhân chính là
con người như, hệ thống thông tin, quy trình và do khách quan. Những rủi ro này trong
tình hình hiện nay càng trở nên phổ biến.
Nói tóm lại, việc thu thập dữ liệu nội bộ của các NHTM Việt Nam hiện nay chưa
đầy đủ, thiếu khoa học và còn nhiều bất cập. Điều này đặt ra cho các NHTM một nhiệm
vụ là cần phải xem xét và thực hiện sao cho đảm bảo độ chính xác, tin cậy thì mới có thể
tạo nền tảng đưa ra những nhận xét, đánh giá, đo lường chính xác RRTN.

d) Về đo lường, giám sát rủi ro tác nghiệp
Ngoại trừ một vài NHTM cũng đã trang bị phần mềm và triển khai quản trị RRTN
trên toàn hệ thống (NHTMCP Công thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam,…) thì còn lại đa phần các NHTM khác đều chưa thể đi đến bước đo lường
RRTN.
e) Về công nghệ hỗ trợ quản trị rủi ro tác nghiệp
Hiện nay một số ngân hàng đã tự xây dựng và đang triển khai việc QTRRTN theo
các phương pháp thủ công, sử dụng xác suất thống kê thông thường. Việc QTRRTN chỉ
đang ở giai đoạn bước đầu thu thập thủ công các dữ liệu về lỗi, sai sót của toàn hệ thống.

2.4. Tự đánh giá kiểm soát rủi ro, xác định chỉ số rủi ro chính
Một vài NHTM cũng đang từng bước xây dựng Bảng hỏi tự kiểm soát rủi ro, tuy
nhiên mới ở mức độ sơ khai, còn cần phải chỉnh sửa, bổ sung nhiều. Khó khăn chung là
các NHTM Việt Nam chưa có nguồn tham khảo, hướng dẫn đáng tin cậy cho việc
QTRRTN.
2.5. Về đào tạo nguồn nhân lực làm công tác quản lý rủi ro tác nghiệp
Tại Việt Nam, nguồn nhân lực chuyên sâu về QTRRTN còn rất hiếm. Đa phần các
cán bộ làm công tác QTRRTN tại các NHTM Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ các
nghiệp vụ khác, mới chuyển sang làm quản trị rủi ro nên kiến thức và kinh nghiệm chưa
nhiều. Các NHTM cũng thường xuyên tìm kiếm và cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo,
hội thảo RRTN trong và ngoài nước, tuy nhiên nội dung đào tạo chưa thật bài bản, kỹ
lưỡng. Chi phí tham gia các khóa học về lĩnh vực này khá cao, vì vậy việc tham gia học
hỏi còn gặp nhiều khó khăn. Các tài liệu đào tạo RRTN tại Việt Nam cũng còn rất ít.
2.6. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
Hiện nay, Cơ quan thanh tra, giám sát chủ yếu vẫn sử dụng tiêu chí giám sát từ xa
là chủ yếu và đang tiến đến phương thức theo nhóm đối với thanh tra, giám sát các ngân
hàng riêng lẻ. Điều này có nghĩa là một nhóm các thanh tra, giám sát sẽ chịu trách nhiệm
cho một ngân hàng. Đây thường là bước đi cần thiết đầu tiên để đặt đúng chỗ khái niệm
giám sát liên tục các ngân hàng, một yếu tố cần thiết cho các cơ quan quản lý để hiểu và
do đó quản lý rủi ro cả đối với các ngân hàng riêng lẻ và cả hệ thống.

2.7. Bảo hiểm tiền gửi
Một hệ thống bảo hiểm tiền gửi hoạt động tốt đã được nhìn nhận như một yếu tố
quan trọng trong việc khuyến khích huy động tiền gửi bằng cách tăng cường lòng tin mà
những người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, sẽ được bảo vệ trong tình
huống ngân hàng phá sản. Một hệ thống tốt có thể tránh cho các ngân hàng khỏi bị rút
tiền ồ ạt và hỗn loạn (điều đã từng phổ biến) trong các thời gian chịu áp lực kinh tế và
khu vực tài chính. Nhưng mặt khác, bảo hiểm tiền gửi có thể dẫn tới tâm lý ỷ lại nếu như
các ngân hàng tham gia vào những hoạt động rủi ro khi biết rằng những người gửi tiền sẽ
được bồi hoàn toàn bộ bởi hệ thống bảo hiểm.
Việt Nam thành lập Cơ quan bảo hiểm tiền gửi (DIV) bằng Nghị định số 89 năm
1999. Bảo hiểm tiền gửi là trách nhiệm đối với tất cả các định chế nhận tiền gửi, các ngân
hàng hoặc các định chế tài chính phi ngân hàng được cấp phép theo Luật Các TCTD.
DIV đã tiến hành một số biện pháp để củng cố và hiện đại hóa hoạt động của mình, tập
trung vào việc cải thiện các cơ chế chi trả của mình để bảo đảm cho các khoản thanh toán
được thực hiện chính xác và phù hợp, tập trung vào việc thiết lập nên một hệ thống cảnh
báo sớm mạnh.
3. Đánh giá chung hoạt động QTRRTN tại các NHTM Việt Nam
3.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua , hê
̣
thống ngân hàng Vi ệt Nam đa
̃
phát tri ển nhanh cả về
quy mô và chất lư ợng. Không ngư
̀
ng nâng cao chất lươ
̣
ng phu
̣
c vu

̣
, ngành ngân hàng rất
chú trọng trong việc đ ẩy mạnh các hoạt động liên quan đến thị trường và sản phẩm di
̣
ch
vụ ngân hàng hi ện đại. Bên ca
̣
nh ca
́
c d ịch vụ truyền thống, các ngân hàng cu
̃
ng rất c ố
gắng trong viê
̣
c đa dạng hóa các loại hình sản phẩm để cung cấp cho xã hội.
Cùng với đó thì công tác QTRR nói chung và QTRRTN nói riêng đã được các
NHTM chú trọng coi đây là một ưu thế trong cạnh tranh. Bằng chứng là việc trong bộ
máy tổ chức của các NHTM đã có sự hiện diện của uỷ ban quản lý rủi ro. Tuy còn nhiều
hạn chế, nhưng trong thời gian gần đây, với sự nỗ lực của các NHTM thì việc kiểm soát
rủi ro nói chung và RRTN nói riêng đã bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ:
giảm thiểu rủi ro do lỗi quy trình, công nghệ và con người
3.2. Đánh giá hiệu quả QTRRTN tại các NHTM Việt Nam
3.2.1. Mặt tích cực
- Giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động.
- Giúp nhà quản trị nhìn ra sơ hở, hạn chế trong các nghiệp vụ và tập trung giải
quyết những tồn tại.
- Nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Bước đầu tạo lập được một hệ thống QTRRTN, đi sâu vào bản chất của việc tạo
ra lợi nhuận từ việc hạn chế rủi ro.
3.2.2. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác QTRRTN của các NHTM Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế (Khả năng quản trị rủi ro co
̀
n yếu ke
́
m ; Chính sách quản trị
rủi ro còn nhiều bất cập; Quy trình quản trị rủi ro chưa hoàn thiện; Công nghệ lỗi thời;
Con người chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao).
(*) Nguyên nhân
a. Nguyên nhân chủ quan
+ Công tác đào tạo nguồn nhân lực của các NHTM.
+ Chưa ứng dụng, hoặc chưa vận dụng hết tính năng của công nghệ hiện đại.
+ Công tác dự đoán rủi ro còn nhiều hạn chế.
+ Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện quy trình giao dịch của các NHTM còn
nhiều hạn chế.
+ Chưa chủ động trong phòng ngừa các rủi ro do các yếu tố khách quan mang lại.
b. Nguyên nhân khách quan
Hiện nay, Basel II là công cụ hữu hiệu nhất để định hướng cho việc phòng ngừa,
giám sát và kiểm soát rủi ro tác nghiệp. Nhưng tại Việt Nam, việc triển khai thực hiện
Basel II còn nhiều khó khăn do thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện của Ngân hàng
nhà nước.
Môi trường kinh doanh tại Việt Nam còn nhiều bất cập nên còn tiềm ẩn nhiều rủi
ro cho các NHTM trong quá trình hoạt động, như hệ thống văn bản pháp luật
3.2.3. Cơ hội
- Hệ thống ngân hàng có sự quan tâm đúng mức hơn đối với quản trị rủi ro nói
chung và quản trị rủi ro tác nghiệp nói riêng.
- Tiếp cận với mô hình QTRRTN mới và tiên tiến hơn.
- Đào tạo nguồn nhân lực dồi dào cho lĩnh vực quản trị.
3.2.4. Thách thức
- Dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động từ bên ngoài.

- Sự ổn định hệ thống bị đe dọa khi chưa xây dựng đầy đủ cơ sở pháp lý và thực
thi quản trị ngân hàng thận trọng.
- Cạnh tranh mạnh mẽ và khốc liệt dễ dẫn đến thất bại và sụp đổ hệ thống.
- Công nghệ phải tương thích.
- Các ngân hàng liên tục phải điều chỉnh để đáp ứng với sự thay đổi của hệ thống
pháp lý.
- Tư duy văn hóa quản trị rủi ro.
- Chất lượng nguồn nhân lực không theo kịp tốc độ phát triển và yêu cầu hội nhập.
Qua việc nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tác
nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, có thể nhận thấy rằng công tác quản trị
rủi ro tại các Ngân hàng thương mại vẫn chưa được hoàn thiện và còn nhiều bất cập, nhất
là với rủi ro tác nghiệp. Điều này đòi hỏi cần có những giải pháp cụ thể từ phía Ngân
hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro
nói chung và rủi ro tác nghiệp nói riêng để đảm bảo an toàn hoạt động và nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngân hàng.

Chƣơng 3
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG QUẢN
TRỊ RỦI RO TÁC NGHIỆP TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả khuôn khổ pháp lý, thể chế tài chính trong quy
trình quản trị rủi ro tác nghiệp ở các NHTM Việt Nam
1.1. Đối với khuôn khổ pháp lý, thể chế tài chính của hệ thống tài chính trong
quản trị rủi ro tác nghiệp của ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Rà soát lại toàn bộ hệ thống khung pháp lý điều tiết hệ thống ngân hàng hiện tại.
Trên cơ sở tham chiếu thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, cần có các
điều chỉnh phù hợp, phát triển các thể chế còn đang khuyết, nhằm đảm bảo tính đồng bộ
của khung pháp lý để các NHTM có thể chủ động, linh hoạt hoạt động trong môi trường
cạnh tranh lành mạnh, song vẫn đảm bảo các yêu cầu thận trọng, an toàn đối với khu vực
tài chính, với vấn đề ổn định vĩ mô và hỗ trợ phát triển kinh tế. Hoàn thiện các chế tài xử
phạt khi có vi phạm, gắn kết được lợi ích với rủi ro ở mức nhất định, trong khi vẫn duy trì

sự ổn định của hệ thống ở mức cho phép. Đẩy mạnh việc hợp tác, tư vấn, nghiên cứu để
hoàn thiện môi trường pháp lý, đặc biệt đối với các dịch vụ ngân hàng mới, có vai trò
thiết yếu với hoạt động ngân hàng, như các dịch vụ ủy thác, sản phẩm phái sinh, các dịch
vụ ngân hàng điện tử. Cơ chế chính sách quản lý không chỉ tạo hành lang pháp lý để đưa
các hoạt động vào khuôn khổ, phát triển các mô hình quản trị rủi ro mà trong một số
trường hợp cần chủ động khuyến khích sự ra đời, phát triển của các mô hình quản trị mới
tiên tiến hơn.
a) Thiết lập một quy trình quản trị rủi ro tác nghiệp
Nền móng cơ sở vững chắc cho hoạt động QLRRTN tại các NHTM ở Việt Nam
chính là khung QLRRTN hướng theo chuẩn quốc tế, bao gồm: chính sách, cơ cấu tổ
chức, quy trình và giải pháp phần mềm QLRRTN trong nội bộ NHTM. Trong bối cảnh
hiện tại, các NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ
của NHNN, do vậy các NHTM cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định lựa chọn khung
QLRRTN sao cho đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo chuẩn mực quốc tế
như: Chiến lược của ngân hàng và phương pháp QLRRTN phải ăn khớp với nhau; Xác
định các phương pháp thực hành quản lý và đo lường RRTN; Đưa ra các công cụ chuẩn
mực về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát, báo cáo trong toàn hệ thống nhằm đưa vào
chương trình QLRRTN.
Để đáp ứng được các yêu cầu cơ bản trên, các NHTM cần phải xác định chiến
lược và phương pháp quản lý rủi ro đúng đắn; xác định vai trò, chức năng và trách nhiệm,
quyền hạn của các bộ phận trong tổng thể bộ máy cơ cấu tổ chức; đưa ra các yêu cầu về
thực hành quản lý rủi ro; phổ biến rộng rãi trong toàn hệ thống, nhất quán việc QLRRTN;
quan trọng hơn là ứng dụng các công cụ quản lý như: kiểm tra hạ tầng, tự đánh giá và
kiểm soát rủi ro thông qua bảng hỏi, thu thập dữ liệu sự kiện RRTN/ phân tích, dữ liệu
tổn thất khác ngoài hệ thống, chỉ số rủi ro chính, phân tích kịch bản, phân tích rủi ro, đo
lường rủi ro và báo cáo, phân bổ vốn chịu rủi ro; từ đó có các phương án phòng tránh
RRTN như: mua bảo hiểm/chuyển rủi ro.
Thành phần chủ chốt của khung QLRRTN là một tập hợp các tiêu chuẩn RRTN
cốt lõi cung cấp hướng dẫn về cơ sở kiểm soát và đảm bảo môi trường hoạt động. Các
khung được bổ sung với các công cụ khác nhau nhưng đều có các thành phần chính: xác

định chiến lược rủi ro, xây dựng cấu trúc quản trị, phân định luồng báo cáo, kiểm soát tự
đánh giá, quản lý sự kiện rủi ro, các chỉ số đo lường rủi ro chính và chương trình giảm
thiểu rủi ro.
Các NHTM cần xây dựng khung QLRRTN cho riêng mình dựa trên khung
QLRRTN cơ bản của Uỷ ban Basel II, không nhất thiết phải giống hoàn toàn mà cần vận
dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện của ngân hàng mình mà vẫn đảm bảo vận hành hiệu
quả.
b) Tiến hành thực hiện quy trình đã thiết lập
Sau khi xây dựng được khung QLRRTN, các NHTM thực hiện các bước theo quy
trình chuẩn của thông lệ quốc tế nhằm xác định RRTN trong chính sách, quy định, quy
trình và cả văn hóa, thói quen làm việc của cán bộ trong nội bộ ngân hàng.
Công việc có vai trò quan trọng trong quy trình QLRRTN là giai đoạn thu thập các
dữ liệu rủi ro trong quá khứ và hiện tại của NHTM theo các nguồn khác nhau. Trên cơ sở
thu thập các dữ liệu rủi ro NHTM tiến hành việc đo lường RRTN.
Sau đó, các NHTM sẽ đánh giá mức độ rủi ro trong các hoạt động theo từng
phòng/ban nghiệp vụ…để xác định đâu là rủi ro chính tại từng phòng/ban trong từng hoạt
động nghiệp vụ đó. Mặt khác, NHTM còn phải phân mức độ RRTN theo cấp độ quan
trọng từ thấp đến cao trong hoạt động của mình. Tuỳ theo quy mô, mô hình hoạt động,
mỗi NHTM có thể áp dụng cách thức để đánh giá và kiểm soát khác nhau. Tuy nhiên,
việc đánh giá và kiểm soát rủi ro phải được diễn ra thường xuyên và áp dụng cho toàn bộ
các phòng/ban, nghiệp vụ kinh doanh trong hệ thống. Các phương pháp ở đây có thể là
xây dựng bảng hỏi, kiểm tra chéo, điều tra hoặc phỏng vấn,…
Các dấu hiệu rủi ro sẽ được tập hợp tại bộ phận quản lý rủi ro chuyên trách và bộ
phận này thực hiện phân tích đánh giá và đo lường rủi ro, sau đó có trách nhiệm báo cáo
lên Uỷ ban QLRR, Ban điều hành và Hội đồng quản trị.
Điểm mấu chốt cuối cùng và có thể coi như yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động
QLRRTN của các NHTM ở Việt Nam là sự quan tâm của Ban lãnh đạo cấp cao đến công
tác QLRRTN, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc quyết định chiến lược, khung
QLRRTN và yêu cầu các cấp từ lãnh đạo đến toàn thể cán bộ phải nghiêm túc thực hiện
QLRRTN kể từ khâu nhập dữ liệu rủi ro đến việc báo cáo và giám sát rủi ro đối với từng

nghiệp vụ chuyên môn, sản phẩm dịch vụ trong hoạt động ngân hàng.
c) Phản hồi về việc thực hiện quy trình cũng như phản ánh về tính đúng đắn của
quy trình quản trị rủi ro
- Thu nhận thông tin phản hồi từ khách hàng.
- Thu nhận thông tin phản hồi từ nhân viên.
d) Giải pháp hoàn thiện
Từ những phản hồi từ các đối tượng, sau khi đã được tổng hợp và phân tích có thể
tìm ra những hạn chế đang tồn tại, những sai sót cần sửa chữa và hoàn thiện, tất cả được
tổng hợp thành báo cáo và được chuyển lên cho các cấp lãnh đạo, người thiết lập nên mô
hình quản trị. Các nhà quản trị sẽ xem xét để xác định nguyên nhân để đưa ra những giải
pháp cho các tồn tại này.
Thông thường có những lỗi xuất phát từ quy trình chưa chặt chẽ, việc phổ biến quy
trình chưa sâu sát tới từng cán bộ thực hiện, cán bộ thực hiện chưa đúng quy trình, bộ
phận kiểm tra kiểm soát nội bộ còn yếu, chưa phát huy hết khả năng cũng như quyền hạn
của mình,… Tùy từng trường hợp mà đưa ra những giải pháp cụ thể cho từng vấn đề.
2. Nâng cao năng lực quản trị nội bộ của các NHTM
Nâng cao năng lực quản trị nội bộ của các NHTM là yếu tố quyết định sự thành
công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, quản trị rủi ro cần dựa trên
một số nguyên tắc sau: nguyên tắc chấp nhận rủi ro; nguyên tắc điều hành rủi ro cho
phép; nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt; nguyên tắc phù hợp giữa mức độ
rủi ro cho phép và khả năng tài chính; nguyên tắc hiệu quả kinh tế, nguyên tắc hợp lý về
thời gian và phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng v.v… Để thực hiện tốt những
nguyên tắc này, các ngân hàng cần xây dựng văn hoá quản trị lành mạnh, tạo môi trường
thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro, cần chú trọng nâng
cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ trên cơ sở áp dụng hệ thống công nghệ ngân
hàng hiện đại, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng
cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm tra, kiểm soát nội bộ dễ đánh mất tính sáng tạo
trong công việc.
3. Cơ cấu lại mô hình tổ chức của ngân hàng
Mô hình tổ chức của một số NHTM hiện nay thích hợp trong điều kiện hoạt động

với qui mô nhỏ, mức độ tập trung quyền lực cao. Khi một NHTM có quy mô ngày càng
lớn với số lượng chi nhánh ngày càng nhiều, khối lượng và tính chất công việc ngày một
phức tạp hơn thì mô hình tổ chức như vậy sẽ bộc lộ những hạn chế, nhất là trong việc tổ
chức và bố trí các phòng nghiệp vụ cả ở cấp trung ương và chi nhánh hiện đang phân cấp
quản lý theo loại hình nghiệp vụ, chưa chú trọng quản lý theo thị trường và đối tượng
phục vụ. Rõ ràng, với áp lực cạnh tranh, yêu cầu chuẩn hoá hoạt động tổ chức theo hướng
gọn nhẹ, hiệu quả đang là đòi hỏi đối với cả các ngân hàng lớn cũng như các ngân hàng
quy mô nhỏ.
4. Nâng cao năng lực tài chính
Các NHTM phải có năng lực tài chính đủ mạnh để đáp ứng được yêu cầu vốn tổi
thiểu 8% theo cách tính toán vốn an toàn tối thiểu (Cột trụ thứ nhất của Công ước Basel
II, theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN thì tỷ lệ này là 9%). Bên cạnh đó, các NHTM trong
nước phải đẩy nhanh tiến trình đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động, đổi mới công nghệ,
tăng năng lực cạnh tranh. Điều này đòi hỏi nguồn lực tài chính không nhỏ từ phía các
ngân hàng. Việc triển khai QTRRTN của các NHTM Việt Nam hiện nay hầu như đều gặp
nhiều khó khăn khi quyết định đầu tư vào các hệ thống phần mềm và chương trình quản
lý do chi phí quá cao. Một hệ thống phần mềm QTRRTN cho một NHTM trung bình trị
giá từ 1 triệu USD đến 2 triệu USD đầu tư ban đầu, chưa tính đến chi phí bảo trì hàng
năm và chi phí đào tạo cán bộ. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đối với hệ thống NHTM Việt
Nam đó là phải nâng cao năng lực tài chính.
5. Hoàn thiện các điều kiện, cơ sở thực hiện cho mô hình tổ chức quản lý rủi ro
tác nghiệp
5.1. Hoàn thiện cơ sở dữ liệu quản lý rủi ro tác nghiệp và quản lý bằng báo cáo
ma trận rủi ro tác nghiệp
a) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu nội bộ, kết hợp sử dụng nguồn dữ liệu bên
ngoài
b) Quản lý bằng báo cáo ma trận rủi ro tác nghiệp
Áp dụng báo cáo ma trận rủi ro tác nghiệp (bảng mô tả tần suất xuất hiện và mức
độ ảnh hưởng của các dấu hiệu rủi ro của nghiệp vụ hay ở các đơn vị trong hệ thống)
Căn cứ vào báo cáo dấu hiệu rủi ro tác nghiệp của toàn hệ thống, trong từng mặt

nghiệp vụ, lựa chọn những dấu hiệu rủi ro mà trên thực tế có thể xảy ra, tiến hành bằng
cách cho điểm theo thang điểm (tùy vào chính sách và đặc điểm từng ngân hàng mà
thang điểm có thể khác nhau). Sau khi tổng kết số điểm rủi ro thì có thể quy vào khu vực
có rủi ro thấp hay cao. Những dấu hiệu có rủi ro cao sẽ phải có biện pháp xử lý kịp thời
nhằm giảm nhẹ tổn thất có thể xảy ra.
c) Tham gia và tham khảo thông tin từ các hiệp hội quản trị rủi ro, hiệp hội dữ liệu
tổn thất khu vực và thế giới.
5.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý
Một trong những khâu mấu chốt của quá trình QTRRTN là thu thập và xử lý thông
tin, từ đó đưa ra những cảnh báo hữu hiệu nhằm phòng tránh và ngăn ngừa RRTN. Như
vậy, để có được những đánh giá và phân tích chuẩn về mức độ rủi ro, cũng như tính toán
chính xác giá trị rủi ro của một ngân hàng, thì nhất thiết phải hoàn thiện hệ thống quản lý
thông tin sao cho đảm bảo tính chính xác, cập nhật, tích hợp với hệ thống quản trị kinh
doanh chung của ngân hàng (core banking).
5.3. Mua sắm, trang bị phần mềm quản lý rủi ro tác nghiệp
Vấn đề tối quan trọng khi triển khai mua sắm, trang bị phần mềm quản trị RRTN
là việc xác định các tính năng cần thiết đối với phần mềm quản trị RRTN. Việc trang bị
phần mềm QTRRTN phải tích hợp được với hệ thống core banking. Bên cạnh đó, tình
trạng công nghệ, phần mềm không đồng bộ, các chức năng không phù hợp với yêu cầu
thực tế, dẫn đến tình trạng bán tự động, bán thủ công…việc chỉnh sửa rất tốn kém và phụ
thuộc vào đối tác nước ngoài. Vì vậy các NHTM Việt Nam cần phân tích lựa chọn
phương án kỹ thuật công nghệ kỹ càng để có được phương án tối ưu.
6. Đào tạo nguồn nhân lực quản lý rủi ro
- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên về quản lý rủi ro tác nghiệp
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn bộ nhân viên ngân hàng về quản lý
rủi ro tác nghiệp
3. Một số kiến nghị
3.1. Kiến nghị đối với Chính Phủ, Bộ, Ngành liên quan
- Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan cần có chính sách hỗ trợ tăng vốn điều lệ cho
các NHTM Quốc doanh để tăng cường năng lực tài chính; Có chính sách cải cách khu

vực ngân hàng, thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các NHTM Nhà nước; rà soát và sửa đổi
các văn bản pháp luật, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động hiệu quả hơn.
- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ tài chính các chuẩn mực
kế toán ngân hàng theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Mở rộng hợp tác quốc tế.
3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu và sớm ban hành Quy định về khung quản
trị rủi ro, trong đó có Quy định QTRRTN cho các NHTM.
- Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng dự thảo và tiến hành áp dụng quy định
trích lập dự phòng đối với RRTN theo phương pháp tiếp cận chỉ số cơ bản để hoàn tất
quá trình quản lý đối với loại rủi ro này, đảm bảo có nguồn bù đắp khi xảy ra tổn thất
RRTN.
- Tăng cường phối hợp giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng- NHNN và
các NHTM nhằm thiết lập hệ thống tài chính ổn định hơn.
- NHNN phải yêu cầu về tính minh bạch các báo cáo tài chính của NHTM, đây
cũng chính là điều kiện để các NHTM tuân thủ nguyên tắc, kỷ luật thị trường
- Nhanh chóng thúc đẩy quá trình hợp nhất, sáp nhập các NHTM nhỏ.
- Mở rộng hợp tác quốc tế.
- Tổng hợp dữ liệu về người vay từ các tổ chức tín dụng, tổ chức các khóa đào tạo
về quản lý rủi ro.
- Tiến hành xếp hạng các ngân hàng.
3.3. Kiến nghị đối với hệ thống NHTM
- Nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
- Thành lập Uỷ ban quản lý rủi ro tác nghiệp
- Bảo hiểm
Ngân hàng có thể giảm trạng thái rủi ro tác nghiệp tổng thể thông qua bảo hiểm.
Hầu hết các ngân hàng đều có các hợp đồng bảo hiểm ở một mức nhất định đối với tài
sản, trang thiết bị và con người của ngân hàng. Bảo hiểm thường giúp ngân hàng giảm
bớt thiệt hại gây ra do những sự kiện, thời tiết không lường trước được và các áp lực khác
nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng. Các ngân hàng công khai mô tả về việc sử

dụng bảo hiểm của ngân hàng đối với mục đích giảm thiểu RRTN.
Để tăng cường công tác quản trị rủi ro tác nghiệp đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp từ phía Ngân hàng nhà nước và các Ngân hàng thương mại, trong đó thì
việc vận dụng những chuẩn mực của Uỷ banBasel trong Basel II là vô cùng quan trọng,
mang tính định hướng cho việc thực hiện quản trị rủi ro tác nghiệp.
KẾT LUẬN
Quản trị rủi ro tác nghiệp là một nghiệp vụ không xa lạ đối với các nước tiên tiến
nhưng lại rất mới mẻ với hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Rủi ro tác nghiệp liên quan tới
nhiều yếu tố: con người, hệ thống, quy trình, thủ tục nội bộ và sự kiện bên ngoài. Đây là
những yếu tố rất đa dạng và thường xuyên biến đổi, do đó rủi ro tác nghiệp xuất hiện
trong hầu hết các hoạt động quan trọng của ngân hàng.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vẫn
còn rất nhiều hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tác
nghiệp nói riêng. Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tác nghiệp hiện nay đang trở thành
một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược quản trị rủi ro của Ngân hàng
thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Cấp,
ngành, cơ quan liên quan để tạo ra một hành lang vững chắc cho Ngân hàng thương mại
phát huy có hiệu quả.
Trong thời gian tới đây, các văn bản về chính sách Quản lý rủi ro tác nghiệp cần
được ban hành, mong rằng từng cán bộ trong hệ thống các ngân hàng thương mại đánh
giá đúng mức tầm quan trọng của công tác này, đem lại sự an toàn, hiệu quả trong công
tác của bản thân mỗi cán bộ nói riêng và sự phát triển, uy tín cho cả hệ thống nói chung
để Ngân hàng Thương mại Việt Nam vững vàng trên con đường hội nhập WTO.

References
Tiếng Việt
1. Hội đồng Basel (2005), Hiệp định Basel II.
2. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (2010), Sổ tay rủi ro thanh tra, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
3. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (2008, 2009, 2010, 2011), “Báo cáo tổng kết

kết quả công tác thanh tra tại chỗ”, Hà Nội.
4. TS. Phạm Huy Hùng- Chủ tịch hội đồng quản trị NHTMCP Công Thương Việt Nam
(2011), “Phương pháp quản trị rủi ro tác nghiệp tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu ngành ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê Hà
Nội.
5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009, 2010), Báo cáo thực trạng ngành ngân hàng
năm 2009, 2010, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Tiến (2002), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng,
Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội.
7. Tạp chí tiền tệ, tạp chí Ngân hàng, tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng,
Tiếng Anh
8. Rose P.S. (1999), “Commercial Bank Financial Management”, Producing and selling
financial services 4
th
ed US¸ Richard D.Irwim.
Website
9.
10.
11.
12.






×