Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.76 KB, 14 trang )

Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách
tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế
lạm phát ở Việt Nam


Phạm Thị Phượng


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn Thạc sĩ ngành: Tài chính - Ngân hàng; Mã số: 60 34 20
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Đức Thành
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Trình bày lý luận về việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát. Thực trạng về hiệu quả phối hợp giữa chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai
đoạn 2006-2011: lạm phát và nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2006-
2011; thực trạng việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để
kiểm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011. Giải pháp tăng cường hiệu quả
phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt
Nam.

Keywords. Tài chính ngân hàng; Quản trị kinh doanh; Chính sách tiền tệ; Chính
sách tài khóa; Kiềm chế lạm phát; Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là hai công cụ quản lý kinh tế vĩ mô vô cùng
quan trọng của bất cứ quốc gia nào. Mỗi chính sách đều có mục tiêu riêng, nhưng chung quy


lại đều theo đuổi mục tiêu của quản lý linh tế vĩ mô là tăng trưởng kinh tế bền vững và kiểm
soát lạm phát. Mặc dù đối tượng điều chỉnh và điều tiết của mỗi chính sách là không giống
nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng và tác động đến tính
hiệu quả của nhau trong việc kiềm chế lạm phát.
Chính sách tài khóa với nội dung cơ bản là kiểm soát chi tiêu của Chính phủ và thuế.
Quá trình chi tiêu cũng như các khoản thu thuế của Chính phủ có tác động trực tiếp đến các
biến số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng và lạm phát. Do vậy nó được coi là một trong những
chính sách kinh tễ vĩ mô có vị trí quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát.
Chính sách tiền tệ là tổng thể các biện pháp, công cụ của Ngân hàng Nhà nước chi
phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng chu
chuyển tiền và khối lượng tiền nhằm đạt được các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô. Một chính
sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất qua đó thúc đẩy đầu tư, tăng tổng
cầu và có thể làm gia tăng lạm phát nếu mức tăng tiền quá lớn vượt mức sản lượng tiềm năng.
Và ngược lại, một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ có tác động giảm tổng cầu qua đó kiềm chế
được lạm phát.
Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam tuy đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập trong việc phối hợp giữa hai chính sách này
nhất là trong việc kiềm chế lạm phát. Đôi khi chính sách tài khóa để đạt được một số mục
tiêu đề ra đã gây hậu quả xấu cho việc thực thi các mục tiêu của chính sách tiền tệ và ngược
lại, chúng tạo ra những tác động đối kháng lẫn nhau, phá vỡ quy luật của thị trường, ảnh
hưởng xấu đến mục tiêu tăng trưởng bền vững của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Vì vậy, tác giả lựa chọn chủ đề nghiên cứu: “Tăng cƣờng hiệu quả phối hợp giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam” cho đề tài
tốt nghiệp thạc sỹ Tài chính ngân hàng của mình, nhằm thực hiện nghiên cứu sâu hơn về vấn
đề này với mục đích góp phần tìm hiểu, đề xuất phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong
việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình nghiên cứu và các bài viết của các
nhà khoa học, nhà quản lý được phát hành, đăng tải về lĩnh vực này như:

Phạm Đình Cường (2006) Tăng cường phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ của Việt Nam nhằm phục vụ phát triển kinh tế xã hội, Tạp chí Ngân hàng.
Lê Quang Cường (2008), Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ, Tạp chí Phát triển Kinh tế.
Lê Vinh Danh (2007), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung
ương ở các nước tư bản phát triển, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Nguyễn Đại Lai (2005), Hiệu quả phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ, Hội đồng khoa học và công nghệ ngành Ngân hàng.
Lê Hùng (2009), Điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế.
Tô Kim Ngọc (2006), Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ở Việt Nam
thông qua mối quan hệ với chính sách quản lý nợ công, Thời báo Ngân hàng.
Nguyễn Thị Kim Thanh (2008), Hoàn thiện cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế, Luận án tiến sỹ, Đại
học Kinh tế quốc dân.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên vẫn còn chừng mực và chưa
có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về việc tăng cường hiệu quả phối hợp
giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là trả lời câu hỏi nghiên cứu chính như sau:
- Việc phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa hiện nay ở Việt Nam cần
được cải thiện như thế nào để nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát?
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu chính nêu trên, luận văn cần trả lời các câu hỏi phụ như
sau:
- Xét về cơ sở lý luận, bản chất của sự phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm
kiềm chế lạm phát là gì?
- Những đặc điểm làm giảm hiệu quả trong sự phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ
của Việt Nam nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn 2006-2011, và nguyên nhân của tình
trạng này là gì?

- Có thể đề xuất những giải pháp gì nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa chính sách
tiền tệ và chính sách tài khóa nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến lạm phát tại
Việt Nam và đánh giá việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và
chính sách tài khóa của Bộ Tài chính để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn 2006-2011 thông
qua các biến số kinh tế vĩ mô quan trọng tác động trực tiếp đến lạm phát, đồng thời từ những
đánh giá đó sẽ đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phối
hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong
thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tài chính và tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006-
2011.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, suy luận logic kết hợp với các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp để
tập trung khảo sát các các biến mang tính định lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến lạm phát
trong giai đoạn 2006-2011 và kết hợp với nghiên cứu lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại để phân
tích, đánh giá hiệu quả việc tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đến các
biến này, cụ thể:
- Tỷ lệ lạm phát
- Chi tiêu công
- Mức thâm hụt ngân sách
- Trái phiếu Chính phủ (gồm trái phiếu đã phát hành và việc trái phiếu được tái chiết
khấu từ hệ thống Ngân hàng thương mại)
- Lãi suất (gồm lãi suất tín dụng và lãi suất tái chiết khấu)
- Cán cân thanh toán (vấn đề xuất, nhập khẩu và các dòng vốn gián tiếp vào Việt
Nam)
- Ngoại tệ
- Tín dụng
Ngoài việc khảo sát và phân tích các biến có tính định lượng trên thì luận văn cũng

kết hợp phân tích các biến có tính định tính như:
- Cơ chế chính sách
- Hệ thống văn bản pháp quy
- Chia sẻ thông tin
- Tâm lý của công chúng….
Từ việc khảo sát, phân tích, đánh giá các biến số trên, luận văn sẽ đề xuất các giải
pháp để tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm
chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
Phương pháp thu thập số liệu:
Các thông tin và số liệu của các biến cần khảo sát được thu thập từ các nguồn văn
bản, các báo cáo tại các cơ quan, đơn vị có liên quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính,
Tổng cục thống kê, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ủy ban Chứng koán nhà nước…
Ngoài ra, để khảo sát các biến định tính, tác giả sẽ kết hợp điều tra bằng bảng câu hỏi
về tâm lý và phản ứng của công chúng về tình trạng lạm phát hiện nay.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Xem xét lại thực tiễn phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm
chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2006-2011 từ cách tiếp cận kinh tế vĩ mô hiện đại
và các số liệu thực tiễn đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
Đề xuất các giải pháp liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa,
cũng như việc phối hợp giữa hai chính sách này nhằm kiềm chế tình trạng lạm phát tại Việt
Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Lý luận về việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
trong việc kiềm chế lạm phát
Chương 2: Thực trạng về hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa trong việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ VIỆC PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI
KHÓA TRONG VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1.1. Chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu thông
tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện pháp như phát hành
tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lý dự trữ ngoại tệ, tái chiết khấu các kì phiếu
và lãi suất, chính sách lãi suất để đáp ứng kịp thời nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của
đồng tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh trong một giai đoạn nhất định. Là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước, trên cơ sở vận
dụng đúng đắn quy luật của sản xuất hàng hoá và quy luật lưu thông tiền tệ để tổ chức tốt quá
trình chu chuyển tiền tệ. Chính sách tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của sản xuất -
kinh doanh, thực hiện sự kiểm tra có hiệu lực của nhà nước ở tầm vĩ mô cũng như ở tầm vi
mô. Về cơ bản, chính sách tiền tệ là điều tiết cung tiền.
1.1.2. Các công cụ chính sách tiền tệ
1.1.2.1. Công cụ dự trữ bắt buộc
1.1.2.2. Nghiệp vụ thị trường mở
1.1.2.3. Chính sách tái cấp vốn
1.1.2.4. Tái chiết khấu
1.1.2.5. Lãi suất tín dụng
1.1.2.6. Tỷ giá hối đoái
1.1.2.7. Hạn mức tín dụng
1.2. Chính sách tài khóa
1.2.1. Khái niệm chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên định hướng
phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu Chính phủ và thuế khóa.
Chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế khi
sản lượng thực tế của nền kinh tế ở quá xa so với mức sản lượng tiềm năng.

1.2.2. Các công cụ chính sách tài khóa
1.2.2.1. Thuế
1.2.2.2. Chi tiêu Chính phủ
1.3. Lạm phát
1.3.1. Lạm phát là gì?
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế, là sự mất
giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền.
1.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát
1.3.2.1. Lạm phát do cầu kéo
1.3.2.2. Lạm phát do chi phí đẩy
1.3.2.3. Lạm phát do xuất khẩu
1.3.2.4. Lạm phát do nhập khẩu
1.3.2.5. Lạm phát tiền tệ
1.3.2.6. Lạm phát đẻ ra lạm phát
1.4. Cơ chế phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để chống lạm
phát
1.4.1 Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa với thuế và chi tiêu chính phủ làm tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp tới đầu tư và tiêu dùng hay tác động đến tổng cầu. Chính sách tiền tệ với các quyết định
về mức cung tiền và lãi suất, tác động trực tiếp tới thị trường tiền tệ và qua đó tác động trở lại
tới các thành phần của tổng cầu và làm tổng cầu thay đổi. Cả hai chính sách này đều tác động
đến quy mô của tổng cầu nhưng mỗi chính sách lại gây ra sự thay đổi khác nhau về các thành
phần của tổng cầu. Có thể nói việc vận dụng tốt cả hai chính sách có khả năng quản lý, kiểm
soát được sự thay đổi của tổng cầu và sản lượng từ đó có thể kiểm soát được sự tăng trưởng
của nền kinh tế và kiểm soát được lạm phát.
1.4.2. Bản chất của phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để
kiềm chế lạm phát
Chính sách tài khóa là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên định hướng
phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu Chính phủ và thuế khóa.
Chính sách tài khóa khác với những chính sách kinh tế cơ bản khác. Hai công cụ chính của

chính sách tài khóa là chi tiêu của Chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ và
thành phần của thuế và chi tiêu của Chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số của nền kinh
tế như: tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế; kiểu phân bổ nguồn lực; phân phối thu nhập,
hay nói cách khác chính sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối với
hoạt động kinh tế.
Trong khi đó, chính sách tiền tệ chủ yếu tập trung vào ổn định tiền tệ (kiểm soát lạm
phát); tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh toán. Tùy theo từng giai
đoạn và diễn biến của kinh tế vĩ mô mà chính sách tiền tệ hướng tới mục tiêu ưu tiên nào là
chủ yếu, chẳng hạn trong giai đoạn lạm phát cao, tăng với tốc độ vừa phải, chính sách tiền tệ
thường tập trung ưu tiên vào mục tiêu kiểm soát lạm phát và khi ổn định được lạm phát, mục
tiêu của chính sách này lại thường kết hợp với mục tiêu tăng trưởng. Các công cụ của chính
sách tiền tệ như chính sách lãi suất tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở và hạn mức tín dụng có tác động nhanh chóng trong việc kiểm soát lượng tiền
cung ứng, từ đó tác động đến lạm phát, và vì vậy, Chính phủ các nước thường sử dụng tối đa
các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát về ngắn hạn; nhưng nếu chỉ có
chính sách tiền tệ, lạm phát khó có thể được kiểm soát về dài hạn, đặc biệt đối với các nước
lạm phát cơ cấu như Việt Nam. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách vĩ mô phải kết hợp
nhịp nhàng hoạt động hai chính sách này để vừa giải quyết được các mục tiêu trước mắt, vừa
kiểm soát được lạm phát về lâu dài.
1.4.3. Tính khả thi và những xung đột có thể xảy ra khi kết hợp giữa chính sách
tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát
1.4.3.1. Tính khả thi
Giảm thâm hụt Ngân sách Nhà nước đồng thời kiểm soát nợ công nhằm đảm bảo an
toàn an ninh tài chính quốc gia.
Kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng ở mức thấp hơn đáng
kể so với chỉ tiêu của Chính phủ đề ra trong Nghị quyết 11, thị trường ngoại tệ và tỷ giá ngoại
tệ từng bước ổn định.
Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, phù hợp với sự chỉ đạo của
Chính phủ, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển. Trạng thái ngoại hối của
các Ngân hàng thương mại được cải thiện.

Cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện đáng kể.
Thực hiện nâng cao hiệu quả đầu tư công, các cấp, các ngành đã đồng loạt các giải
pháp cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ. Nhờ vậy, số dự án hoàn thành đã tăng thêm 1.053 dự
án.
1.4.3.2. Những xung đột có thể xảy ra
Thứ nhất, chính sách tiền tệ phải theo đuổi nhiều mục tiêu và chưa có sự độc lập
tương đối.
Thứ hai, phối hợp chính sách trong việc kiểm soát lãi suất, ổn định thị trường tiền tệ
còn nhiều hạn chế và tồn tại.
Thứ ba, phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc cung cấp thông tin
phục vụ cho công tác dự báo mức lạm phát còn nhiều bất cập.
Thứ tư, mặc dù sự phối hợp chính sách đã được thực hiện ở một số khía cạnh nhưng
mới dừng lại ở hình thức, thiếu hiệu quả.
Thứ năm, chưa có sự phối hợp trong việc hoạch định mục tiêu chính sách ở tầm dài hạn và trong
ngắn hạn. Việc định lượng các mục tiêu về lạm phát và tăng trưởng thường dựa vào mức đã đạt được năm
trước mà ít có sự dự báo những biến động…

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2006-2011
2.1. Lạm phát và nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2006-2011
2.1.1. Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2006-2011
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã phát triển lên một tầm cao mới. Nhưng cùng với sự
phát triển ấy là hiện tượng lạm phát cao và kéo dài, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình.
Lạm phát của Việt Nam hội tụ đủ các nguyên nhân: Lạm phát vừa do cầu kéo, vừa do chi phí đẩy và vừa do
lạm phát kỳ vọng; vừa có nguyên nhân từ yếu tố tiền tệ, vừa có nguyên nhân từ yếu tố phi tiền tệ. Đặc biệt,
nhiều nguyên nhân được tích lũy từ nhiều năm qua như: mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào mở rộng đầu
tư, nhưng đầu tư lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư công; giá cả của nhiều mặt hàng như điện, xăng,… được
điều chỉnh tăng; nới lỏng chính sách tiền tệ của những năm trước…

Bảng 2.3: Diễn biến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn 2006-2011
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tăng trưởng kinh tế(%)
8,23
8,46
6,31
5,32
6,78
5,57
Lạm phát (%)
6,6
12,6
19,8
6,52
11,7
18,68
Nhập siêu (tỷ USD)
-5,06
-14,2
-18
-12,8
-12,6
-6,65
Tăng trưởng M2 (%)

32,0
41,2
20,3
27,5
29,8
10,0
Tăng trưởng tín dụng
26
53,9
25,4
39,6
32,4
5,59
Đi đôi với việc gia tăng lạm phát là tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 đến nay thấp hơn khá
nhiều so với mức bình quân 7,38%/năm giai đoạn 2000-2005 và có xu hướng giảm dần: từ mức bình quân
8,34%/năm giai đoạn 2006-2007 xuống mư
́
c 6,14%/năm giai đoạn 2008-2010 và đạt 5,,57% năm 2011.
2.1.2. Các nguyên nhân lạm phát của Việt Nam
2.1.2.1. Về phía chủ trương và chính sách của nhà nước phát triển kinh tế ở mức độ
cao bằng mọi giá (cầu kéo)
2.1.2.2. Vấn đề thâm hụt ngân sách của Chính phủ và đầu tư công không hiệu quả
(cầu kéo kết hợp chi phí đẩy)
2.1.2.3. Việc gia tăng tín dụng quá cao (lạm phát tiền tệ)
2.1.2.4. Chính sách lãi suất bất hợp lý
2.1.2.5. Năng suất của kinh tế Việt Nam thấp, hệ quả của một nền kinh tế xây dựng
trên một khu vực nhà nước với các doanh nghiệp nhà nhà nước làm ăn thường là thua lỗ mặc
dù được đầu tư rất nhiều
2.1.2.6. Chi phí gia tăng trong nhiều thời vừa qua (giá xăng, dầu, điện)
2.1.2.7. Việc phá giá đồng bạc Việt Nam, bất ổn trong cán cân thanh toán cũng làm

tăng lạm phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VND
2.1.2.8. Chính sách neo tỷ giá cứng nhắc với USD
2.1.2.9. Nhân tố lạm phát tâm lý
2.2. Thực trạng việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để
kiểm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011
Tại Việt Nam, việc phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã có những
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, còn thiếu sự phối hợp trong quá
trình điều hành hai chính sách này, tạo ra những mâu thuẫn lợi ích đối kháng hoặc chính sách
tài khóa đã làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ nhất là trong việc kiềm chế lạm phát
trong những năm qua, cụ thể như sau:
2.2.1. Những đặc điểm về mặt hành chính làm giảm phối hợp giữa chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011
2.2.1.1. Cơ chế chính sách
Chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả và đồng bộ giữa Bộ Tài chính và Ngân
hàng Nhà nước trong thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Hoặc đã có những phản ứng chống lạm phát thông qua các chính sách tiền tệ và tài
khóa, nhưng thường phản ứng chậm hoặc thụ động trong đa số trường hợp.
Trong những năm vừa qua chỉ mỗi chính sách tiền tệ là vất vả để kiềm chế lạm phát
thì chính sách tài khóa lại rất “ổn định” trong mức chi. Trong khi chính sách tiền tệ đang vận
hành theo hướng thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả, thì Bộ Thào chính lại điều chỉnh tăng giá
một số mặt hàng như xăng dầu, giá điện. Sự không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu
lực của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
Thêm vào đó, tính độc lập Ngân hàng Trung ương còn chưa cao. Sự độc lập tương đối
của Ngân hàng Nhà nước sẽ cho phép ngân hàng này chủ động điều tiết thị trường trong từng
thời kỳ mà không cần phải chờ đợi sự cho phép của Chính phủ trong những chính sách của
mình.
Về phía công nghệ thanh toán nói chung và hệ thống thanh toán liên ngành giữa Ngân
hàng và Tài chính nói riêng còn quá rời rạc.
2.2.1.2. Hệ thống văn bản pháp quy
Theo quy định của Khoản 3 Điều 27 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm

2010 thì việc luân chuyển tiền và qui chế mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước qua hệ thống
ngân hàng còn mang nặng tính chia cắt và tuỳ tiện.
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến nay vẫn chưa thành lập được trung tâm
thanh toán quốc gia nên Kho bạc Nhà nước vẫn phải xây "kho" chứa tiền theo đúng cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng của từ này. Với qui mô luân chuyển và sử dụng khối lượng tiền lớn như
vậy, nếu không đi qua một trung tâm thanh toán thống nhất "một cửa" của hệ thống thanh
toán quốc gia do Ngân hàng Trung ương quản lý thì tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro không
đáng có và gây ảnh hưởng rất lớn đến việc điều hành chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát
của Ngân hàng Trung ương.
2.2.1.3. Chia sẻ thông tin
Chính sách tài khóa không những thiếu vắng thông tin mà còn thiếu cả sự phối hợp
với chính sách tiền tệ trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là trong việc kiềm chế lạm phát.
Các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài chính công, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công
lệch pha về thời gian với yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ; chưa thiết lập được cơ chế
thông tin một cách thường xuyên về các dòng vốn của thu - chi Ngân sách Nhà nước và các
định chế tài chính do Bộ Tài chính quản lý nên chưa thống kê và kiểm soát được một tỷ lệ
đáng kể phương tiện thanh toán trong nền kinh tế do đó khó xác định mục tiêu dài hạn như dự
báo mức lạm phát…
Sự thiếu trao đổi thông tin hữu hiệu và các diễn biến khu vực ngân sách trong ngắn
hạn giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước làm giảm hiệu quả điều hành chính sách tiền
tệ trong ngắn hạn.
2.2.1.3. Tâm lý công chúng
Trên thế giới, lạm phát luôn có yếu tố tiền tệ, song ở Việt Nam yếu tố lạm phát tâm lý
- lạm phát phi tiền tệ - lại khá mạnh.
Tính thiếu nhất quán của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã phần nào tác
động tiêu cực đến tâm lý của người dân về lạm phát. Từ đó làm giảm hiệu quả của các giải
pháp kiềm chế lạm phát.
2.2.2. Những đặc điểm làm giảm hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa để kiểm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011 qua phân tích
các biến số kinh tế

2.2.2.1. Tỷ lệ lạm phát
Sự tăng mạnh của lạm phát trong những năm 2007-2008 bao gồm sự tăng mạnh của
mức lương tối thiểu trong chính sách tài khóa, sự gia tăng của giá cả hàng hóa quốc tế, chính
sách tiền tệ lỏng lẻo và không linh hoạt, chính sách quản lý tỷ giá cứng nhắc và thiếu linh
hoạt.
Trong năm 2010, chính sách tiền tệ và tài khóa đã không có sự phôi hợp nhịp nhàng
và dấu ấn rõ nét nhất là chính sách tài khóa đã tạo ra hiện tượng chèn lấn đối với khu vực tư
nhân buộc Ngân hàng Nhà nước phải điểu chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng làm
cho mức lạm phát tăng lên cao.
Trong năm 2011, đi đôi với tiền tệ đã được nới lỏng trong một thời gian dài là việc
chính sách tài khóa liên tục tăng giá xăng, điện và một số mặt hàng thiết yếu đã tạo áp lực
cho giá cả.
2.2.2.2. Chi tiêu công
Chinh sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, do nền kinh tế
kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối
giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm
phát.
Thêm vào đó, hàng năm Ngân hàng Trung ương vẫn phải cung ứng lượng tiền không
nhỏ cho Ngân sách Nhà nước mà theo quy định "khoản tạm ứng này phải hoàn trả trong năm
ngân sách". Nhưng thực tế, nó đã không được hoàn trả đúng hạn và việc cho vay như vậy đã
dẫn tới lượng tiền cơ sở tăng và kết quả gây áp lực tăng lạm phát
2.2.2.3. Mức thâm hụt ngân sách
Trong khi, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để chống
lạm phát, nhưng chính sách tài khóa vẫn duy trì mức thâm hụt như thường lệ, nỗ lực chống
lạm phát vì thế không đạt được hiệu quả như mong đợi.
Ngoài ra, các nguồn vốn để chi cho đầu xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở bị dàn trải,
kém hiệu quả và chưa tạo được nhựng bước đột phá “kinh tế”. Thêm vào đó công trình xây
dựng chất lượng thấp, chưa tương xứng giá trị đầu tư đã chi ra, không hoàn thành sản phẩm
theo đúng tiến độ thỏa thuận trong khi khoản nợ Chính phủ đã vay và phải trả lãi. Điều này
nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước nhưng lại trong tầm kiểm soát của Ngân

sách Nhà nước. Những khiếm khuyết nói trên diễn ra trong nhiều năm thực sự là tác nhân
trực tiếp tạo mầm móng và cơ hội lạm phát khi nó cùng “cộng hưởng” với những yếu tố khác
gây sức ép nặng nề cho chính sách tiền tệ khi thực thi nhiệm vụ kiềm chế lạm phát.
2.2.2.4. Trái phiếu Chính phủ (gồm trái phiếu đã phát hành và trái phiếu được tái
chiết khấu từ hệ thống Ngân hàng thương mại)
Với yêu cầu huy động trong nước để tài trợ cho ngân sách cao như vậy rõ ràng là một
trở ngại lớn giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ, khi ngân sách trực tiếp tham gia cạnh tranh
huy động vốn với các Ngân hàng thương mại, tạo áp lực tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ và
đi ngược lại với các cố gắng giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước điều và tất nhiên điều
này làm gia tăng áp lực lạm phát cho nền kinh tế.
2.2.2.5. Lãi suất (gồm lãi suất tín dụng và lãi suất tái chiết khấu)
Chưa có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ với chính sách
lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một biểu hiện của sự chưa ăn khớp giữa vận hành
của chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ trong thời gian qua.
2.2.2.6. Ngoại tệ
Trong lúc nước sôi lửa bỏng trên thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước muốn hạn
chế mua vào USD để cầu USD bớt nóng thì Bộ Tài chính muốn “tiếp tục duy trì việc mua
ngoại tệ của nhà đầu tư nước ngoài”; một bên muốn giữ giá tiền đồng thì theo bên kia cho
rằng nên “cho phép đồng Việt Nam lên giá ở mức cần thiết”. Sự không thống nhất này giữa
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã làm cho việc điều hành tỷ giá hối đoái một thời gian
lâm vào khủng hoảng và đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc kiểm soát lạm phát thời gian qua.
2.2.2.7. Cán cân thanh toán (vấn đề xuất, nhập khẩu và các dòng vốn gián tiếp vào
Việt Nam)
Khi Ngân hàng Nhà nước liên tiếp tung ra những biện pháp, điều chỉnh cán cân thanh
toán, kiềm chế lạm phát mạnh để hút tiền về như: quản lý chặt thị trường ngoại tệ (như phân
tích ở trên), thị trường vàng, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán (và đã có
những phản hồi tích cực từ các thị trường này) thì Bộ Tài chính gấp rút kiến nghị Chính phủ
các biện pháp trái ngược như đề xuất “tiếp tục triển khai cho vay kinh doanh chứng khoán,
tránh thắt chặt hơn kênh dẫn vốn này” Không những thế, Kho bạc Nhà nước thuộc Bộ Tài
chinh cũng là một kho chứa tiền theo đúng nghĩa đen với cả nội tệ và ngoại tệ làm chi Ngân

hàng Nhà nước khó kiểm soát cán cân thanh toán.
2.2.2.8. Tín dụng
Chi Ngân sách Nhà nước ngày càng lớn để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao
khiến nhu cầu huy động vốn của Chính phủ càng lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
huy động vốn của hệ thống Ngân hàng thương mại và việc kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước.
Hoạt động của khu vực “tín dụng ưu đãi” cũng gây thêm tính phức tạp của thị trường
tiền tệ đó là tín dụng của hệ thống Ngân sách Nhà nước, của hệ thống các Quĩ tài chính Nhà
nước ngoài Ngân sách Nhà nước với nhiều hình thức và qui mô khác nhau. Từ môi trường
phức hợp này, nhiều nguồn vốn sẽ chạy lòng vòng từ loại định chế tài chính này sang loại
định chế tài chính kia gây nhiều khó khăn cho việc hoạch định chính sách tiền tệ.

CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐỂ
KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
3.1. Dự báo xu hƣớng phát triển của nền kinh tế trong thời gian tới
3.1.1. Thế giới
Kinh tế thế giới năm 2012 và các năm tiếp theo sẽ đối mặt với nhiều khó khăn và tiềm
ẩn nhiều rủi ro.
3.1.2. Trong nước
Triển vọng kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào ba yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới,
sức mạnh nội tại và ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và sự điều hành của Chính phủ. Tuy
nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả ba yếu tố
trên.
3.2. Giải pháp tăng cƣờng hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Xây dựng cơ chế chính sách phù hợp theo hướng tăng tính độc lập cho Ngân
hàng Nhà nước

3.2.1.2. Hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính
3.2.1.3. Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính
trong việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
3.2.2. Các giải pháp cụ thể điều chỉnh các biến số kinh tế
3.2.2.1. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính tiền tệ và chính sách tài khóa để
hạn chế mức thâm hụt ngân sách và chi tiêu công có hiệu quả
Cần tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để thực
hiện huy động nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách, cũng như việc huy động trái phiếu Chính
phủ, lập dự toán Ngân sách Nhà nước, xác định qui mô thâm hụt, nhu cầu tài trợ và nguồn
vốn vay trong nước và cân nhắc cẩn trọng các khoản vay nước ngoài
Đồng thời, cần tiếp tục sự phối hợp để hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính - ngân sách
- tiền tệ để đảm bảo phù hợp với các thông lệ quốc tế, phục vụ quá trình hội nhập trong thời
gian tới, đặc biệt là cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt.
3.2.2.2. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính tiền tệ và chính sách tài khóa để ổn
định cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc xây dựng
và thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hàng năm trên cơ sở mục tiêu về lạm
phát, GDP và dự báo cán cân thanh toán, từng bước triệt để chống Đô la hoá và cả chống
“vàng hóa
Phối hợp để cải thiện cán cân ngoại thương thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
3.2.2.3. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính tiền tệ và chính sách tài khóa để
quản lý trái phiếu Chính phủ và hoạt động tái chiết khấu trái phiếu Chính phủ
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, nên
nhất quán giữ lãi suất tái chiết khấu cao hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ một mức phù hợp
với thực tế thị trường. Đồng thời, lãi suất trái phiếu Chính phủ nên tuân theo các tín hiệu của
thị trường vốn nói chung.
Lãi suất phát hành trái phiếu cần được nghiên cứu, tính toán với mặt bằng lãi suất huy
động chung của hệ thống Ngân hàng thương mại, hạn chế các Ngân hàng thương mại sử dụng
vốn huy động để mua trái phiếu Chính phủ và cần tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền

tệ và chính sách tài khóa trong việc xác định lãi suất đảm bảo ổn định lãi suất thị trường.
3.2.2.4. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính tiền tệ và chính sách tài khóa để ổn
định chính sách lãi suất, chính sách tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp
cận với nguồn vốn để sản xuất kinh doanh, tăng sản lượng quốc gia.
Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần kiên định với mục tiêu ưu tiên
ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận
trọng.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước
3.3.1.1. Trong ngắn hạn
Cần thiết lập nhiều công cụ thực sự có mối quan hệ chặt chẽ gồm cả các công cụ bổ
trợ và công cụ trung gian. Bởi vì khi phối hợp đồng bộ các công cụ, thì việc điều khiển một
công cụ sẽ làm cho các công cụ khác được cộng hưởng về sức mạnh. Chính vì vậy, không
những phải hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ mà còn phải phối hợp các công cụ
đó với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.
3.3.1.2. Về trung và dài hạn
Ngân hàng Nhà nước cần xác định rõ các mục tiêu và khuôn khổ điều hành chính sách
tiền tệ cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển; nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước; xây dựng cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua các kênh, xác
định mức độ tác động của chính sách tiền tệ qua các kênh và lựa chọn kênh có tác động nhạy
cảm nhất để điều hành chính sách tiền tệ theo khuôn khổ phù hợp.
3.3.2. Đối với Bộ Tài chính
3.3.2.1. Trong ngắn hạn
Giảm mức độ thâm hụt Ngân sách Nhà nước trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân
Ngân sách Nhà nước trong dài hạn; không làm tăng quy mô nợ, đồng thời quản lý nợ trên cơ
sở bảo đảm hiệu quả vay và sử dụng các khoản nợ; thực hiện tiết kiệm và sử dụng có hiệu
quả chi Ngân sách Nhà nước, cả trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên; đổi mới các
cơ chế chính sách nhằm khuyến khích đầu tư đối với tất cả các thành phần kinh tế; hoàn thiện
chính sách động viên tích cực để giải quyết hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và
nhân dân; phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn theo hướng ổn định và minh

bạch
3.3.2.2. Về trung và dài hạn
Cần xem xét các giải pháp kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng
từ chính sách tài khóa trong trung và dài hạn; Nâng cao hiệu quả và chất lượng của đầu tư và
chi tiêu công; xây dựng các thể chế quản lý chi tiêu công trong từng thời kỳ cho phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước; khuyến khích phát triển khu vực tư nhân; xác lập kỷ
luật tài khóa tổng thể và chính xác.

KẾT LUẬN
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan trọng
trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các công cụ của hai chính sách này vừa có tính độc lập,
nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Sự phối hợp
tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp Chính phủ điều hành đạt được hai
mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô là tăng trưởng và kiểm soát lạm phát; nhưng ngược lại,
sự phối hợp không nhịp nhàng, không gắn kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách và
thậm chí có thể làm trầm trọng, làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp
giữa hai chính sách này luôn được chính phủ, các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Bài
viết này đề cập tới một số vấn đề phối hợp giữa hai chính sách trong kiểm soát lạm phát ở
Việt Nam trong thời gian qua và đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường phối hợp chặt chẽ
hơn nữa trong thời gian tới
Trên cơ sở những bất cập trong việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa để kiềm chế lạm phát tại Việt Nam trong thời gian qua, tác giả đã đưa ra một số kiến
nghị, đề xuất với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính như trên. Tuy nhiên, với
kiến thức bản thân và việc trình bày còn hạn chế, rất mong được sự đóng góp và cảm thông từ
thầy cô và độc giả.

References

1. Phạm Thế Anh (2008), Chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế: khảo sát lý luận
tổng quan, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Phạm Thế Anh (2008), Lạm phát và các quy tắc chính sách tiền tệ, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
3. Nguyễn Quang Dong (chủ biên), Ngô Văn Thứ, Hoàng Đình Tuấn (2006), Giáo
trình mô hình toán kinh tế, NXB Thống kê.
4. Nguyễn Duệ (chủ biên), Nguyễn Văn Tiến, Tô Kim Ngọc (2008), Đồng tiền chung
Châu Âu và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, NXB Thống kê.
5. Nguyễn Văn Giàu (2010), “Nhận định về công tác điều hành chính sách tiền tệ năm
2009 và định hướng phát triển hệ thống ngân hàng, thị trường tiền tệ Việt Nam năm 2010”, Tạp
chí Phát triển Kinh tế (Số 3, Trang 12).
6. Nguyễn Văn Giàu (2010), “Kinh tế Việt Nam năm 2009 và dự báo năm 2010”, Tạp
chí Kinh tế - Xã hội (Số 49+ 50, Trang 31).
7. Nguyễn Hữu Nghĩa (2010), “Một số vấn đề kinh tế, tiền tệ - ngân hàng năm 2009
và 2010”, Tạp chí Ngân hàng (Số 2+3, Trang 5).
8. Nguyễn Võ Ngoạn (2007), Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ quốc gia trong nền
kinh tế thị trường, NXB Tài chính.
9. Vũ Viết Ngoạn (2011), Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013, NXB Tài
chính.
10. Nguyễn Văn Ngọc (2002), Kinh tế vĩ mô (dịch từ cuốn Macroeconomics của
N.Gregory Mankiw), NXB Tài chính.
11. Nguyễn Hồng Thắng (2008), “Chống lạm phát từ chính sách tài khóa”, Tạp chí
Phát triển Kinh tế (Số 9, Trang 32).
12. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Chính sách tiền tệ năm 2009 và định hướng
2010”, Tạp chí Chứng khoán (Số 8, Trang 25).
13. Nguyễn Đức Thành (2010), Lựa chọn để tăng trưởng bền vững, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Thành (2011), Nền kinh tế trước ngã ba đường, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
15. Phạm Thị Thu Trà (2011), “Kỳ vọng và cái giá phải trả cho lạm phát ở Việt
Nam”, Tạp chí Ngân hàng (Số 69, Trang 34).
16. Nguyễn Kế Tuấn (2012), “Mười sự kiện kinh tế nổi bật của Việt Nam năm 2011”,

Tạp chí kinh tế - xã hội (Số 11, Trang 7).
17. Đào Minh Tú (2011), “Nhìn nhận khách quan và thấu đáo về vấn đề lạm phát ở
Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng (Số 53, Trang 9).
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2006.
19. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2007.
20. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2008.
21. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2009.
22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 20010.
23. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành Ngân hàng (2006), NXB Văn
hóa thông tin.
24. Kỷ yếu hội thảo khoa học ngành Ngân hàng năm (2006), NXB Văn hóa thông tin.
25. Website:
Http://www.vnep.org.vn
Http://www.thesaigontimes.vn
Http://www.workbank.org
Http://www.baodautu.vn
Http://www.vnexpress.net
Http://www.vnn.vn
Http://www.vepr.org.vn


×