Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay như thế nào và nước ta cần làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể ở dưới đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.53 KB, 26 trang )

Phần 1: Mở đầu
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trờng. Khi
thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị tr-
ờng trong đó có qui luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt đợc nhiều thành tựu to
lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhng bên cạnh những thành tựu đó nền
kinh tế nớc ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong
những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nớc ta
còn yếu kém.
Đứng trớc quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên
của ASEAN, APEC, sắp trở thành thành viên của WTO, rồi mở cửa hội nhập
AFTA vào năm 2006) thì nớc ta cần có một nền kinh tế với sức cạnh tranh
đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt đợc mục đích trở thành nớc
công nghiệp vào năm 2020. Muốn nh vậy chúng ta cần phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế với các đối tợng cần tác động là các doanh nghiệp.
Đặc biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nớc
và t nhân, phải phát huy các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta cần có một chính
sách cạnh tranh đúng đắn.
Với mục tiêu nh vậy thật không dễ dàng cho Việt Nam, khi mà nền kinh
tế hiện nay không có gì làm đảm bảo, các doanh nghiệp làm ăn không hiệu
quả, còn trì trệ, tình trạng thang nhũng và thất thoát vốn nhà nớc tăng cao. Các
doanh nghiệp nhà nớc không phát huy đợc vai trò chủ đạo của mình trong nền
kinh tế khi mà nhận đợc nhiều hỗ trợ từ phía nhà nớc, ngành nghề kinh doanh,
chế độ tín dụng, Trong tay nắm hầu hết các nguồn lực quan trọng nh: 100%
mỏ dầu, 80% rừng, 90% lao động đợc coi trọng, có phần xem nhẹ u điểm của
các doanh nghiệp t nhân. Vừa qua, ngày 13/10/2004, chúng ta đã thành lập đ-
ợc hiệp hội các doanh nghiệp t nhân Việt Nam, điều đó cho thấy có sự thay
đổi trong nhận thức về vai trò của t nhân, doanh nghiệp t nhân đang dần nhận
đợc sự quan tâm từ phía nhà nớc và đóng vai trò quan trọng trong chính sách
phát triển kinh tế.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trờng, nó


là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế nhng nó
không phải là vấn đề quan trọng. Nhiều nớc trên thế giới đã vận dụng tốt qui
luật cạnh tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn. Từ
khi đổi mới nền kinh tế chúng ta cũng đã áp dụng qui luật này và một số thành
1
tựu đã đến với chúng ta: Đời sống nhân dân đợc cải thiện, xã hội phát triển
hơn, kinh tế phát triển ổn định những lợi ích ấy cha phải là lớn lao nhng
cũng đã giúp chúng ta định hớng cho chính sách phát triển kinh tế.
Độc quyền là sự chi phối thị trờng của một hay nhiều công ty, hoặc một
tổ chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trờng nhất định.
Nguyên nhân dẫn tới độc quyền thờng do cạnh tranh không lành mạnh đem
lại. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh
tế.
Để có một môi trờng cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền có
hiệu quả đang là vấn đề quan trọng đợc đặt ra với thực trạng hiện nay của nớc
ta.
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nớc ta hiện nay nh thế nào? Và n-
ớc ta cần làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền? Chúng ta sẽ
tìm hiểu cụ thể ở dới đây.
2
Phần 2
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
I. Một số vấn đề lí luận về cạnh tranh và độc quyền
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng là một tất yếu khách
quan
Thị trờng là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao
gồm các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị
trờng các nhà sản xuất, ngời tiêu dùng, những ngời hoạt động buôn bán kinh
doanh, quan hệ với nhau thông qua hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá. Nh
vậy thực chất thị trờng là chỉ các hoạt động kinh tế đợc phản ánh thông qua

trao đổi, lu thông hàng hoá và mối quan hệ về kinh tế giữa ngời với ngời.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trờng là kinh tế hàng hoá. Kinh tế
h là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao
đổi và buôn bán trên thị trờng. Nền kinh tế thị trờng là hình thứuc phát triển
cao của nền kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá
trình sản xuất đều đợc qui định bởi thị trờng.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn muốn có đ-
ợc những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất nh: thuê đợc lao động rẻ
mà có kĩ thuật, mua đợc nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị trờng các yếu tố đầu
ra tốt. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dể chiếm lấy,
nắm giữ lấy những điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi nó
đợc đánh dấu bởi một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy vậy cạnh tranh
không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị trờng. Cạnh tranh là sự sống còn
của các doanh nghiệp. Muốn tồn tại đợc buộc các doanh nghiệp phải nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, giảm chi phí sản xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa
học kĩ thuật Điều này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng làm
cho xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển, khoa học - kĩ thuật phát triển do
đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, cải tiến khoa học
- kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ đợc chuyển từ
nơi sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã
hội cao hơn, mọi ngời sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại
sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho
khách hàng, cho ngời tiêu dùng.
3
Nh vậy cạnh tranh là một đặc trng cơ bản của nền kinh tế thị trờng.
Cạnh tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi
lớn hơn cho xã hội. Cạnh tranh có thể đợc xem nh là quá trình tích luỹ về lợng
để từ đó thực hiện các bớc nhảu thay đổi về chất. Mỗi bớc nhảy thay đổi về

chất là mỗi nấc thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên, tốt đẹp
hơn. Vậy sự tồn tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng là một tất yếu
khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng
Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những ngời sản xuất kinh
doanh với nhau để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trờng
cạnh tranh vừa là môi trờng, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó
mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trờng thể hiện qua
một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh
trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh
tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu đợc lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về
sản phẩm. Do đó kết quả của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị tr-
ờng của từng loại mặt hàng. Đó là giá trị của hàng hoá đợc tính dựa vào điều
kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội. Nếu nh doanh nghiệp nào có điều
kiện sản xuất dới mức trung bình sẽ bị thiệt hại hay bị lỗ vốn. Còn những
doanh nghiệp có điều kiện sản xuất trên mức trung bình của xã hội sẽ thu đợc
lợi nhuận thông qua sự chênh lệch về điều kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành
với nhau. Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác
nhau. Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu t có lợi hơn. Các doanh
nghiệp tự do di chuyển TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh
tranh này dẫn đến hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng
hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Việc hình thành nên giá thị trờng của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình
quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. Với giá trị thị trờng của

hàng hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ
đó sẽ có những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ
4
suất lợi nhuận bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà t bản sẽ là nh nhau
cho dù đầu t vào những ngành khác nhau với lợng TB nh nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách
hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng
hoá cạnh tranh nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lợng sản phẩm trong
quá trình cạnh tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng
suất lao động cao hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử
dụng các nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích
cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng
các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội
đem lại không cao, chi phí cho sản xuất tăng cao, giá trị hàng hoá tăng lên
không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trờng, kích
thích thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và
tăng vốn đầu t vào sản xuất trên thị trờng, khi cung một hàng nào đó lớn hơn
cầu hàng hoá thì làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận
thu đợc của các doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu nh giá cả giảm xuống dới
mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả
và bị phá sản. Chỉ có những doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh
toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó mới thu đợc. Điều đó buộc các doanh
nghiệp muốn tồn tại đợc thì phải giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao
năng suất lao động bằng cách tích cực ứng dụng đa khoa học công nghệ tiên
tiến vào trong quá trình sản xuất.
Ngợc lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của
thị trờng điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả
của hàng hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều
này kích thích các doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách

ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có
đợc lợng hàng hoá tung ra thị trờng. Điều này làm tăng thêm vốn đầu t cho
sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này
quan trọng là động lực này hoàn toàn tự nhiên không theo và không cần bất kỳ
một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nớc.
Thứ t: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng không chỉ có cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những
ngời lao động với nhau, để có đợc một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp.
Điều đó khiến cho mọi ngời trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay
5
nghề của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con ngời ta hoàn thiện hơn,
cạnh tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con ngời mới trong
xã hội mới thông minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ
thắng và ngời thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả.
Kẻ yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn
mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi vì có nh vậy thì các nguồn lực của xã hội mới đợc
chuyển sang cho những nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp
kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có
hiệu quả sản xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của
những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn
toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong
kinh doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết định đến
việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình. Nhng cạnh tranh trên
thị trờng đã không cho phép họ làm nh vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn
muốn xoá bỏ cạnh tranh và độc quyền đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ.
Độc quyền trong kinh doanh là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những
điều kiện kinh tế chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trờng sản xuất và

tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Độc quyền thờng dẫn đến xu hớng cửa
quyền, bạo lực và trong một số trờng hợp nó cản trở sự phát triển của khoa học
kĩ thuật, làm chậm thâm chí lãng phí các nguồn lực xã hội. Bởi lẽ với thế độc
quyền các doanh nghiệp sản xuất không cần quan tâm đến việc cải tiến máy
móc kĩ thuật, không cần tìm cách nâng cao năng suất lao động mà vẫn thu đợc
lợi nhuận cao nhờ vào độc quyền mua và độc quyền bán. Độc quyền là sự
thống trị tuyệt đối trong lu thông và sản xuất nên dễ nảy sinh giá cả độc
quyền, giá cả lũng đoạn cao, Do vậy, sự phục vụ của ngời tiêu dùng nói
riêng và cho xã hội nói chung là kém hiệu quả hơn so với cạnh tranh tự do.
Trong nhiều trờng hợp độc quyền áp đặt sự tiêu dùng làm cho xã hội. Chính
do cung cách ấy mà độc quyền thờng làm cho xã hội luôn luôn ở tình trạng
khan hiếm hàng hoá, sản xuất không đáp ứng đợc nhu cầu ảnh hởng đến nhịp
độ tăng trởng kinh tế.
Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trờng. Để có sự cạnh
tranh hoàn hảo, nhiều quốc gia đã coi chống độc quyền và tạo nên cạnh tranh
hoàn hảo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nớc. Để tạo nên cạnh tranh
6
lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có những điều
kiện nhất định.
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh
doanh
Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế
pháp lý không chỉ do nhà nớc ban hành mà nó còn đợc ban hành bởi các tổ
chức quốc tế hoặc do một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu
tố pháp lý thể chế nhân tố quan trọng trong hình thành nên môi trờng kinh
doanh - là đất sống của hoạt động sản xuất kinh doanh. Mõi yếu tố pháp lí -
thể chế đều tác động vào một lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, nó đợc dùng để điều chỉnh các hành vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Các chủ thể kinh tế muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh

doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa vào các thể chế - pháp lí đã đợc ban
hành đối với lĩnh vực nào đó để tham gia hoạt động kinh tế. Nh vậy sẽ hình
thành nên một môi trờng kinh doanh ổn định khoa học. Mặc dù chỉ có định h-
ớng trong một lĩnh vực nhất định, song trong một nền kinh tế thống nhất để
tạo nên sự hoạt động đồng bộ cho guồng máy kinh tế thì các yếu tố thể chế -
pháp lí này đều phải đảm bảo các điều kiện sau:
Thứ nhất: Đảm bảo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh
vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Nh vậy mọi
lĩnh vực của hoạt động sản xuất kinh doanh đều đợc điều chỉnh bởi các thể
chế - pháp lí, đièu này sẽ tạo nên tính hài hoà trong nền kinh tế. Nếu nh không
đảm bảo đợc sự đồng bộ thì trong nền kinh tế sẽ có những lĩnh vực không bị
tác động của các thể chế pháp lí, việc hoạt động trong các lĩnh vực này sẽ dễ
dàng, tự do hơn so với các linh vực có các yếu tố pháp lí - thể chế tác động,
bởi vì nó không chịu ảnh hởng, không chịu bất kì tác động nào từ Nhà nớc.
Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ từ đó sản xuất tiêu thụ sản phẩm theo ý muốn
của mình. Điều này sẽ tạo nên sự lộn xộn trong nền kinh tế bởi vì mục đích
sản xuất của mỗi ngời là khác nhau, do đó sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa các nhà
sản xuất với nhau, tạo điều kiện cho độc quyền hình thành để tránh sự cạnh
tranh.
Thứ hai: Các thể chế - pháp lí do Nhà nớc ban hành phải phù hợp với
tình hình thực tế. Để có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ngoài ra các qui định này phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh việc hiểu
theo nhiều nghĩa hớng khác nhau, điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả trầm
7
trọng. Việc ban hành các thể chế - pháp lí này sát với thực tế, không rõ ràng
thì không những thực hiện đợc mục đích mà còn gây thêm ra những hoạt động
sai lệch, làm đảo lộn trật tự.
Thứ 3: Hiệu lực pháp luật của các qui định pháp lí - thể chế phải thống
nhất trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế, không đợc có sự phân biệt đối
xử khi thực hiện các qui định. Việc này sẽ tạo nên tính công bằng trong hoạt

động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu lực của các qui định.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng nh nhà nớc khi ra các qui định
pháp lí - thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này đảm
bảo tính sát thực của các qui định. Nhà nớc dựa vào các qui định để điều hành
quản lý nền kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản
lý, chỉ đạo giám sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó
đảm bảo cho việc các qui định pháp lí - thể chế đợc thực hiện. Do vai trò hết
sức quan trọng đó mà việc quản lý kinh tế của nhà nớc đòi hỏi bộ máy quản lý
nhà nớc phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực trong quản lý kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trờng với môi trờng cạnh tranh gay gắt. Việc các công ty
hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều dễ dàng. Do vậy để chống độc
quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản lý kinh tế non kém thì nhà
nớc sẽ không thể quản lí đợc nền kinh tế, các bản qui định không thể đa vào
áp dụng trong thực tế, hoặc nếu có đa vào áp dụng đợc thì khó lòng mà giám
sát, chỉ đạo việc thực hiện. Điều này sẽ gây ra việc làm thất thoát, lãng phí tài
sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho các tổ chức
độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ bản
việc đầu t dàn trải không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu t. Trong các dự
án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông
đồng, ăn dơ với nhau giữa các chủ đầu t và xây dựng. Tất cả các điều trên
phần lớn là do bộ máy quản lý còn non kém. Cha đa ra đợc những qui định
pháp lí - thể chế để điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh
xuất nhập khẩu thuốc đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo
để đẩy giá thuốc lên cao. Điều này cũng tơng tự đối với thị trờng bất động sản.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
nên việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để
tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền.
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các
chủ thể kinh doanh

8
Các chủ thể kinh tế là đối tợng tác động của các văn bản pháp lí - thể
chế. Nhà nớc ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các
qui định của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định đợc thực hiện tốt thì
ngoài vai trò quản lí tốt của Nhà nớc còn có hành vi thực hiện của các chủ
kinh doanh và nhân dân. ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ
thể khi tham gia hoạt động kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và
chống độc quyền trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan quản lí là có
hạn cho nên trong quá trình quản lý không thể khong mắc những sai lầm,
thiếu sót. Khi đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh, độc quyền lợi dụng sai sót của cơ quan quản lý để hoạt động.
Trong những tình huống nh vậy để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc
quyền rất cần có tinh thần, ý thức của các chủ thể kinh doanh cũng nh của
nhân dân. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tốt của các chủ thể kinh doanh góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý.
II. Thực trạng cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam
1. Sự chuyển biến về nhân thức đối với cạnh tranh
Sau chiến tranh đất nớc thống nhất, cả nớc hăng hái bắt tay vào công
cuộc xây dựng, kiến tạo đất nớc đa đất nớc tiến thẳng lên CNXH. Trong khi
đó trong tay chỉ có mô hình kinh tế sau chiến tranh để lại - nền kinh tế tập
trung bao cấp của cải xã hội bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Việc áp dụng
mô hình kinh tế này trong chiến tranh đã đem lại hiệu quả cao, và đợc coi nh
mô hình u việt. Nhng trong thời bình, nó đã không còn phù hợp và Việt Nam
đã phải trả giá cho việc áp dụng nền kinh tế này đó là: nền kinh tế suy thoái
trầm trọng chi vợt thu, lạm phát cao, đồng tiền mất giá, phơng tiện kĩ thuật
ngày càng lạc hậu, chậm đợc đổi mới, năng lực sản xuất trong nớc kém. Trong
nền kinh tế cũ - nền kinh tế tập trung bao cấp thì mọi hoạt động kinh tế của xã
hội đều do Nhà nớc đảm nhiệm, nhà nớc bao tiêu hết quá trình sản xuất của
các doanh nghiệp kể cả việc tiêu thụ sản phẩm do đó mà nó gây ra sức ì đối
với các doanh nghiệp đợc nhà nớc bao cấp. Các doanh nghiệp cứ ung dung

thực hiện theo kế hoạch của nhà nớc để sản xuất, không cần quan tâm đến
việc phải cạnh tranh với ai. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dờng nh
chỉ biết đến khái niệm cạnh tranh trên lí thuyết chứ cha đợc thấy thực tế cạnh
tranh là nh thế nào. Điều đó gây ra lãng phí nguồn lực xã hội, cạnh tranh
không đợc coi trọng.
Yêu cầu phát triển xây dựng đất nớc buộc chúng ta phải chuyển đổi nền
kinh tế và nền kinh tế thị trờng đã đợc áp dụng nhng nó chịu sự quản lý của
Nhà nớc. Đó là nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Nền kinh tế thị trờng
9
với qui luật cạnh tranh đã không còn chỗ cho sự ỉ lại, trông chờ vào trợ cấp, nó
buộc các chủ thể kinh tế phải luôn luôn hoạt động để tìm lấy vị trí tồn tại
trong nền kinh tế. Do tính chất khắc nghiệt của cạnh tranh nên việc yêu cầu
nhận thức về cạnh tranh một cách đúng đắn là điều cần thiết. Cùng với quá
trình đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật đã dần dần đợc chấp nhận ở nớc ta
nh một động lực đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội, nhng chịu sự điều tiết của
nhà nớc. Đảng và Nhà nớc ta đã ban hành một số văn bản pháp lí điều chỉnh
hành vi có liên quan đến cạnh tranh trên thị trờng nh:
- Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam năm 1987 và sửa đổi vào các năm
1990, 2000.
Cạnh tranh trên thị trờng có 4 cấp độ: cạnh tranh về hình thức sản phẩm,
cạnh tranh về loại sản phẩm, những loại sản phẩm có thể thay thế và cạnh
tranh về ngân sách.
Cạnh tranh về hình thức sản phẩm là cấp độ thấp nhất của cạnh tranh.
Hình thức này chủ yếu tập trung vào sản phẩm hiện tại của các doanh nghiệp
mà không tập trung vào cái có thể xảy ra trong tơng lai. Các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau về nhãn hiệu nằm trong cùng một chủng loại sản phẩm và
sẽ thoả mãn nhu cầu của cùng một đoạn thị trờng. Loại hình cạnh tranh này
dựa trên thị hiếu của khách hàng. Ví dụ nh các doanh nghiệp sản xuất dầu ăn
nh: Tờng An, Bình An, Neptune họ đều sản xuất và tiêu thụ dầu ăn trên thị
trờng Việt Nam do đó để cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này là điều tất

nhiên. Họ đều cố gắng đa ra những loại sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp đáp ứng đ-
ợc thị hiếu của khách hàng để chiếm lĩnh thị trờng.
Cấp độ thứ 2 của cạnh tranh là cạnh tranh về loại sản phẩm. Loại hình
này dựa trên những sản phẩm và dịch vụ với những đặc điểm tơng tự đợc xác
định nh là đặc tính chứ không phải giá trị cao hay thấp. ví dụ nh hãng sản xuất
điện thoại di động liên tục cải tiến mẫu mã cũng nh đặc tính, chức năng, công
dụng để có thể đa ra những sản phẩm có tính năng sử dụng cao, kết hợp nhiều
chức năng: xem ti vi, nghe nhạc, đọc sách Loại hình cạnh tranh này rộng
hơn so với cạnh tranh về hình thức sản phẩm. Nhng cạnh tranh về loại sản
phẩm hay hình thức sản phẩm vẫn thuộc quan điểm ngắn hạn.
Cấp độ thứ ba của cạnh tranh là tập trung vào những sản phẩm có thể
thay thế, loại hình này tập trung dài hạn hơn. VD: cửa hàng bán đồ ăn sẵn
cạnh tranh với các cửa hàng bán đồ tơi sống.
Cấp độ cạnh tranh chung hơn theo Kotler là cạnh tranh về ngân sách.
Đây là quan điểm rộng nhất về cạnh tranh vì nó cho rằng tất cả các sản phẩm
10
hay dịch vụ cạnh tranh với nhau đều nhằm vào túi tiền của ngời tiêu dùng.
Loại cạnh tranh này bao gồm một lợng lớn các nhà cạnh tranh nên gây khó
khăn cho việc thực hiện về mặt chiến lợc của các doanh nghiệp. Khách hàng
với một số tiền nhất định họ có thể tự do lựa chọn sản phẩm tiêu dùng họ có
thể mua sắm những hàng hoá lâu bền hoặc có thể mua sắm chi tiêu cho kì
nghỉ hoặc họ có thể dùng cho việc chăm sóc sức khoẻ v.v
Trong kinh doanh tuỳ thuộc vào từng trờng hợp cụ thể mà các doanh
nghiệp lựa chọn cấp độ cạnh tranh cho phù hợp với tình hình thực tế và chính
sách cạnh tranh của công ty.
- Xoá bỏ cơ chế hai giá và các hình thức bao cấp. Ban hành pháp lệnh
hợp đồng kinh tế năm 1988.
- Ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp t nhân; pháp lệnh về chất l-
ợng hàng hoá năm 1990.
- Năm 1992 ra đời hiến pháp mới cho phép cá nhận đợc thực hiện quyền

sở hữu tài sản do thu nhập tạo ra.
- Ban hành luật phá sản 1993
- Ban hành bộ luật dân sự 1995
- Năm 1996 qui định chế độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong bộ
luật dân cự.
- Ban hành luật thơng mại 1997
- Ban hành thuế giá trị gia tăng và huỷ bỏ việc cấp giấy phép xuất nhập
khẩu năm 1998.
- Ban hành luật doanh nghiệp năm 1999.
Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, Nhà nớc
đã từng bớc nới lỏng cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay các mục tiêu phát
triển ổn định và việc làm đợc đặt lên trên mục tiêu hiệu quả.
Nhà nớc tôn trọng các qui luật khách quan của nền kinh tế thị trờng,
trong đó có qui luật cạnh tranh và hạn chế bớt tiêu cực của thị trờng. Trong
kinh tế thị trờng cạnh tranh tự do bao gồm tự do hành nghề theo pháp luật, tự
do quyết định của ngời kinh doanh và tự do lựa chọn của ngời tiêu dùng. Cạnh
tranh trên thị trờng tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau. Cạnh tranh về thị tr-
ờng phân phối, cạnh tranh về khách hàng, cạnh tranh về nhân công, cạnh tranh
về nguyên vật liệu, cạnh tranh về công cụ marketing Cạnh tranh xảy ra giữa
các doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc giữa các ngành với nhau. Mỗi
cấp độ khác nhau thì có hình thức cạnh tranh khác nhau. Các doanh nghiệp
khi tham gia kinh doanh cần phải có nhận thức đúng về cạnh tranhvà các cấp
11
độ của cạnh tranh để từ đó đề ra các chính sách cho sự phát triển của mình. D-
ới đây là một số cấp độ cạnh tranh của thị trờng.
2. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nớc
ta cha nhất quán, cha nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nớc trong nền kinh
tế, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc nên cha có quan điểm dứt khoát về ủng
hộ cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà nớc cha

có những qui định cụ thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các
hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Bên cạnh đó t tởng cha coi
trọng khu vực kinh tế t nhân và việc thành lập hàng loạt các tổng công ty 90,
91 cũng ảnh hởng không tốt đến môi trờng cạnh tranh. Do những tồn tại đấy
mà thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Thể
hiện:
a) Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhfa
nớc với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh
nghiệp trong nớc với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Các doanh
nghiệp nhà nớc đợc hởng nhiều u đãi từ phía nhà nớc nh: các u đãi về vốn đầu
t, thuế, vị trí địa lý, thị trờng tiêu thụ, Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập
trung trong tay một lợng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nớc, than, dầu
lửa, bu chính viễn thông, giao thông vận tải, các doanh nghiệp t nhân không
đợc coi trọng. Các doanh nghiệp nớc ngoài hoạt động theo một qui chế riêng,
không đợc u đãi từ nhà nớc. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi về một
số doanh nghiệp nhà nớc làm ăn hiệu quả, chây ì, trông chờ vào nhà nớc gây
ra lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi các công ty t nhân hoạt động năng nổ
và hiệu quả hơn. Ngoài ra do những qui định không hợp lí trong hoạt động của
các doanh nghiệp nớc ngoài gây nên sự e ngại về đầu t vào nớc ta của các
công ty nớc ngoài sự e ngại về đầu t vào nớc ta của các công ty nớc ngoài.
b) Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận
của mình mà không vấp phải những khó khăn cản trở nào. Do đó mà gây nên
những hành vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp. Cụ thể:
- Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp
khác bằng cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt
động kinh doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp
12

sản phẩm hoặc dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải tham gia vào hiệp hội
hoặc cho phá sản.
Các doanh nghiệp thoả thuận với nhau để phân chia địa bàn hoạt động,
thị trờng tiêu thụ hàng hoá làm cho sự lu thông hàng hoá trên thị trờng bị gián
đoạn, thị trờng trong nớc bị chia cắt. Sự câu kết giữa các doanh nghiệp dẫn tới
việc độc quyền chi phối một số mặt hàng trong một thời gian nhất định làm
cho giá cả một số mặt hàng tăng cao. Ví dụ nh thuốc tân dợc vừa qua ở nớc ta
giá đắt gấp 3 lần so với mặt hàng cùng loại ở nớc ngoài, làm thiệt hại cho ngời
tiêu dùng, triệt tiêu động lực cạnh tranh.
- Hành vi lạm dụng u thế của doanh nghiệp để chi phối thị trờng. Hành
vi này xuất phát từ một số tổng công ty đọc quyền hoặc các công ty lớn có khả
năng chi phối thị trờng. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử
dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh
tranh, thao túng thị trờng. Với sức mạnh độc quyền các công ty áp đặt giá cả
độc quyền, độc quyền mua thì mua với giá thấp, độc quyền bán thì bán với giá
cao để thu lợi nhuận siêu ngạch, hoặc để loại trừ đối thủ cạnh tranh họ có thể
hạ giá bán xuống thấp hơn so với chi phí sản xuất.
Sự lạm dụng u thế của doanh nghiệp dẫn đến việc áp dụng các điều kiện
trong sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp yếu hơn, chi phối các
doanh nghiệp này. Hơn nữa việc lạm dụng này còn hạn chế khả năng lựa chọn
của ngời tiêu dùng, khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên
tham gia kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Nó có thể dẫn đến việc áp đặt
giá cả sản phẩm, loại sản phẩm
- Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các
công ty thành viên lại với nhau, việc này diễn ra theo quyết định của nhà nớc.
Các công ty sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mức độ tích tụ hay tập
trung của thị trờng. Các công ty liên doanh sáp nhập hay hợp nhất với nhau
đều làm cho thị trờng tập trung hơn, giảm bớt đối thủ cạnh tranh tăng khả
năng chi phối độc quyền thị trờng của các tổng công ty hay các liên doanh,

làm triệt tiêu cạnh tranh trong kinh doanh.
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hiện nay nớc ta cha có khung pháp lí hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên
việc xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn.
Điều đó tạo điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng
phát triển mạnh. Một số hành vi cạnh tranh khong lành mạnh nh:
13
Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lợng đợc tung ra thị trờng. Việc
hàng giả, hàng nhái bán trên thị trờng sẽ gây thiệt hại cho ngời tiêu dùng, làm
giảm uy tín của các công ty làm ăn chân chính có sản phẩm bị làm nhái.
Các hình thức quảng cáo gian dối, thổi phồng u điểm của hàng hoá
mình làm giảm u điểm của các hàng hoá khác cùng loại, rồi đa ra những mức
giá cao hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm. Điều này cũng gây thiệt hại
cho ngời tiêu dùng và những doanh nghiệp sản xuất chân chính.
Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nớc để cản trở hoạt
động của các đối thủ trong các ký kết hợp đồng , hối lộ các giao dịch kinh tế,
lôi kéo lao động lành nghề, những chuyên gia giỏi của các doanh nghiệp Nhà
nớc một cách không chính đáng còn phổ biến trong nền kinh tế.
c. Độc quyền của một số tổng công ty.
Việc thành lập các tổng công ty 90 - 91 đợc coi là có ý nghĩa quan trọng
đối với nền kinh tế trong phạm vi cả nớc hoặc bộ ngành, địa phơng. Các tổng
công ty này là tập hợp các doanh nghiệp Nhà nớc sản xuất cùng loại sản phẩm
lại với nhau, việc làm này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam trên trờng quốc tế.
Thực tế, cho thấy rằng việc các tổng công ty 90, 91 ra đời đã gây cản trở
cho môi trờng cạnh tranh mà các tổng công ty đó hoạt động. Tạo ra sự cạnh
tranh bất bình đẳng giữa tổng công ty và các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh khác trong cùng một lĩnh vực.
Thể hiện qua các hoạt động sau:
Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với

chính phủ thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao
cấp, lãi suất u đãi để duy trì vị thế độc quyền của mình. Nhiều tổng công ty đã
thể chế hoá những u đãi đặc quyền của mình và đa ra những quy định bất lợi
cho các đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh.
- Với u thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra những sản phẩm mà họ
sản xuất tạo ra sự bất bình đẳng giữa những ngời kinh doanh với nhau trên thị
trờng. Ví dụ: cùng một loại hàng hoá dịch vụ tổng công ty áp đặt nhiều giá
khác nhau đối với từng loại khách hàng.
- Cạnh tranh trong nội bộ tổng công ty bị hạn chế. Đợc sự bảo hộ của
chính phủ, nhiều tổng công ty hoạt động trì trệ, ỷ lại gây tốn kém, lãng phí
cho xã hội. Nh vậy với mục đích chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của
14
các tổng công ty đã không thực hiện đợc, mà việc thành lập các tổng công ty
này đã ảnh hởng không tốt, thậm chí cản trở cạnh tranh trên thị trờng.
Hiện nay cả nớc có 17 tổng công ty 91 với 450 thành viên, 71 tổng công
ty 90 của bộ với 1057 thành viên và 7 tổng công ty 90 của địa phơng với 116
thành viên, tổng công ty chiếm 27% số doanh nghiệp Nhà nớc và 76,5% tổng
giá trị tài sản của doanh nghiệp Nhà nớc cả nớc.
d. Độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng:
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi
vốn đầu t lớn mà lợi nhuận đem lại chậm và không đáng kể. Ngoài ra độc
quyền tự nhiên còn tồn tại trong những ngành kinh tế quan trọng, ảnh hởng
mạnh mẽ đến chiến lợc phát triển kinh tế của đất nớc nh: Điện, nớc, dầu khí,
đặc biệt này chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp Nhà nớc đợc phép hoạt
động. Các doanh nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép kín theo chiều dọc
vừa thực hiện các khâu đầu vừa thực hiện các khâu cuối. Do hình thức hoạt
động nh vậy nên hạn chế cạnh tranh hay dờng nh không có đối thủ cạnh tranh
trên thị trờng. Do vậy các tổng công ty có thể đa ra những mức giá chung cao
hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm để thu đợc lợi nhuận siêu ngạch cao.
Điều này làm cho ngời tiêu dùng mất nhiều chi phí hơn để sử dụng các hàng

hoá dịch vụ trong khi chất lợng không tơng xứng.
Thí dụ: giá điện ở Việt Nam là 0,07USD/kwh so với Thái Lan là 0,04
USD, phí vận hành, cảng đối với 1 vạn tấn ở cảng Sài Gòn là 40.000USD,
cảng Bangkok là 20.000USD, cớc viễn thông từ Hà Nội gọi đến Tokyo hết
7,92USD/3phút, từ Bangkok hết 2,48USD.
Giá hàng hoá cao trong khi chất lợng phục vụ của hàng hoá thì lại còn
bị hạn chế: hệ thống giao thông kém phát triển, đờng xá trật hẹp hạn chế khả
năng đi lại của ngời dân, tai nạn, ùn tắc giao thông xảy ra liên tục trên các con
đờng đặc biệt ở các thành phố lớn nh Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tình
trạng ngập úng trên các con đờng khi có ma là điều không hiếm. Kho tàng,
bến bãi, cảng biển ít, đờng sắt kém phát triển, hệ thống cấp thoát nớc thiếu,
mất vệ sinh. ở Việt Nam chỉ có 25% mạng lới đờng bộ đợc rải nhựa.
Kết quả của độc quyền tự nhiên là năng suất lao động thấp, giá cả tăng
cao một cách bất hợp lý, buộc toàn bộ nền kinh tế phải chịu mức giá đầu vào
cao, làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp kinh doạnh khác trong nền kinh tế
quốc dân.
15
e. Một số yếu tố khác.
Nhà nớc ta cha có những quy định cụ thể và cha có một cơ quan chuyên
trách nào theo dõi, giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc
quyền. Cha có những hiệp hội ngời tiêu dùng đủ mạnh dể hỗ trợ cho việc giám
sát cạnh tranh và độc quyền. Chính thông qua những hiệp hội này mà các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh sớm đợc quá ra xử lý.
III. Các giải pháp duy trì cạnh tranh và chống độc quyền.
Từ thực trạng độc quyền ở Việt Nam ta thấy rằng: còn nhiều tồn tại cần
tháo gỡ.
Từ thực trạng cho thấy cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có nhiều tồn tại, nguyên nhân
của các tồn tại đó là do:
- Hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan

đến cạnh trạnh và độc quyền cha hoàn chỉnh, ý thức chấp hành pháp luật của
mọi ngời và của các doanh nghiệp cha nghiêm minh, nên những hành vi cạnh
tranh không hợp thức còn tồn tại khá phổ biến.
- Quan điểm về vai trò của cạnh tranh và độc quyền cha nhất quán nên
nội dung một số quy định pháp lý liên quan đến môi trờng cạnh tranh còn mâu
thuẫn với nhau.
- Thủ tục hành chính cha đợc cải thiện, đơn giản hoá kịp thời nên còn
gây nhiều phiền hà cho các nhà đầu t và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong
cạnh tranh, làm tăng chi phí giao dịch, giảm tính hấp dẫn của môi trờng đầu t
ở trong nớc so với các nớc khác.
- Hệ thống thông tin còn yếu kém, cha kịp thời cân xứng thiếu minh
bạch đã gây ra sự bất bình đẳng trong các cơ hội kinh doanh, ảnh hởng không
tốt đến môi trờng cạnh tranh.
- Quá trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp Nhà nớc diễn ra còn
chậm. Còn nhiều doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động không có hiệu quả nhng
vẫn bao cấp, duy trì, bảo hộ
Trong thời gian tới trớc yêu cầu duy trì phát triển kinh tế với nhịp độ cao
và của quá trình hội nhập thì việc cải thiện môi trờng cạnh tranh là yêu cầu
cấp bách để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình, thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện tự
do hoá thơng mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì cạnh tranh lành
mạnh và kiểm soát độc quyền chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp
sau:
16
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất
quan điểm đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh
tranh trong nền kinh tế pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ
ràng và hợp lý vai trò của Nhà nớc cũng nh vai trò chủ đạo của các doanh
nghiệp Nhà nớc trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà nớc

độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà
nớc, đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nớc. Độc quyền của các
doanh nghiệp Nhà nớc cần phải đợc giảm dần, các rào cản đối với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần đợc tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành
sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế, tăng tính
hấp dẫn đối với đầu t nớc ngoài, đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách
quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần đợc thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý
Nhà nớc, trong các chơng trình và chiến lợc cải cách hành chính, trong tổ
chức, phong cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền.
Muốn nh vậy thì trớc tiên cần phải đa nội dung về cạnh tranh và độc
quyền vào chơng trình giáo dục của các trờng đại học thuộc khối kinh tế và
kinh doanh. Để có đợc đội ngũ cán bộ, các nhà kinh tế sau khi ra trờng có một
tầm hiểu biết về cạnh tranh và độc quyền. Đào tạo các khoá ngắn hạn cho các
doanh nghiệp và công chức Nhà nớc để nâng cao, trau dồi kiến thức về cạnh
tranh và độc quyền. Sử dụng các phơng tiện thông tin đại chúng tuyên truyền
về cạnh tranh và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù hợp
và việc thực hiện các chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh đợc vận
hành một cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trên thị trờng. Nới lỏng các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trờng để
khuyến khích các nhà đầu t tham gia sản xuất kinh doanh. Nh vậy việc hình
thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các khu
vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh tranh cần
phải sửa đổi từ quy trình ban hành pháp luật:
Xây dựng luật: để đảm bảo tính chất khách quan về lâu dài cần chuyển
việc dự thảo luật từ cơ quan lập pháp sang cho cơ quan hành pháp. Trớc mắt,
việc soạn thảo luật cần đợc tổ chức một cách dân chủ với sự tham gia của cơ
quan có liên quan.
17

Xây dựng văn bản dới luật: phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và sự
tham gia rộng rãi của những ngời chịu ảnh hởng của quy định.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý kinh doanh cần xoá bỏ
những quy định hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị trờng, với những
cam kết quốc tế nhằm mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Bổ xung những luật và văn bản dới luật còn thiếu, cha hớng dẫn thi
hành. Trong tâm xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền.
Sửa đổi những điều khoản của bộ luật dân sự có liên quan đến quan hệ giữa
luật Việt Nam và luật nớc ngoài.
Để thực hiện đợc những việc nh trên thì trong quá trình sửa đổi luật, bổ
sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần
có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phơng với sự
tham gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và ngời
tiêu dùng. Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ đa
ra đợc các quy định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc quyền
hơn.
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lợng
các lĩnh vực độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nớc
cần giám sát chặt chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn.
Cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác giám sát tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ t: cải thiện môi trờng thông tin và pháp luật theo hớng minh bạch và
kịp thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Cụ thể:
- Việc thành lập doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các doanh
nghiệp Nhà nớc cần đợc chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại biểu của
nhân dân. Việc tăng cờng kiểm tra giám sát từ các cơ quan này sẽ thúc đẩy
các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động tích cực và có hiệu quả hơn, tiết kiệm đ-

ợc các nguồn lực của Nhà nớc .
Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành
nghề mà doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoải không
đợc đăng ký kinh doanh. Ngoài các mục này các doanh nghiệp đợc thành lập
theo chế độ đăng ký với một cơ quan đăng ký thống nhất trong quốc gia. Cơ
quan đăng ký kinh doanh đồng thời chịu trách nhiệm cả về việc điều chỉnh nội
18
dung giấy đăng ký kinh doanh và việc mở văn phòng đại diện, chi nhánh trong
nớc và nớc ngoài theo chế độ doanh nghiệp chủ động đăng ký. Xoá bỏ các
điều kiện cấp phép về nội địa hoá, tỉ lệ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ.
Các cơ quan cấp phép hiện hành sẽ chuyển chức năng cấp phép, thẩm
định sang chức năng xúc tiến và cung cấp dịch vụ đầu t.
- Đất đai: chuyển các thủ tục hành chính xin chuyển đổi mục đích và
quyền sử dụng về một cơ quan giải quyết. Điều này sẽ tiết kiệm đợc thời gian
và tiền bạc cho các doanh nghiệp khi xin thuê đất quy hoạch và xây dựng khu
công nghiệp.
- Về vốn: mở rộng khả năng vay vốn từ các nguồn u đãi để đầu t phát
triển khả năng tự huy động vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp nớc ngoài thông qua các kênh phát hành trái phiếu và chứng khoán.
Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, chỉ áp dụng việc giới hạn mua cổ
phần của những doanh nghiệp lớn có khả năng chi phối thị trờng, tạo nên độc
quyền, còn đối với những ngời quản lý, ngời ngoài doanh nghiệp, ngời nớc
ngoài nên khuyến khích để tăng nguồn vốn của doanh nghiệp, tạo điều kiện
đổi mới máy móc, đầu t trang thiết bị nâng cao năng suất lao động.
- Về lao động: các loại quy định về thang bảng lơng, lơng thực tế , trợn
cấp, chế độ thởng, lơng tối thiểu, thuế thu nhập, các hình thức tuyển dụng lao
động cần phải có sự thống nhất dựa trên khung pháp lý chung của Nhà nớc và
có sự đóng góp ý kiến của công đoàn.
- Tiếp cận thị trờng.
+ Quyền xuất nhập khẩu: mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các doanh

nghiệp trong nớc.
+ Xây dựng và ban hành các thủ tục, điều kiện cấp phép nhập khẩu, có
nhiều loại thuế thay thế hợp lý tơng đơng đối với các mặt hàng để khi thực
hiện không gây các cản trở cho việc trao đổi hàng hoá, thơng mại.
+ Ban hành danh mục cấp và xuất nhập khẩu có điều kiện, ngoài những
mặt hàng này nên khuyến khích các doanh nghiệp tăng cờng hoạt động trao
đổi thơng mại làm tăng luồng chu chuyển hàng hoá trong và ngoài nớc.
Hạn ngạch là biện pháp hạn chế thơng mại cần xoá bỏ. Việc xoá bỏ hạn
ngạch cần đợc giải quyết cùng với việc chỉ định đầu mối, bán ngoại tệ và Nhà
nớc quy định giá. Việc phân bổ hạn ngạch cần phải dựa vào những mặt hàng
cụ thể, thay thế chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá ghi trên hợp đồng, xoá
bỏ chế độ phụ thu.
19
Triển khai cải cách các thủ tục hải quan theo hớng đơn giản hoá và phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế, thống nhất thủ tục trong cả nớc.
- Về thuế quan: miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu,
kể cả hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu tại chỗ.
Về thuế nhập khẩu: xoá bỏ cách đánh thuế đựa trên mục đích sử dụng,
giảm số thuế và mức thuế. giảm thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là nguyên
vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất trong nớc tăng khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nớc.
- Về chuyển giao công nghệ: cần tăng ngân sách cho các ngành nghiên
cứu khoa học công nghệ, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm
nghiên cứu khoa học, trọng dụng nhân tài, đợc cung cấp phổ biến thông tin,
phát biểu ý kiến khách quan dới góc độ nghiên cứu khoa học. Hạn chế việc
chảy máu chất xám, khuyến khích thu hút các nhà khoa học nớc ngoài vào
trong nớc nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích t nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ sản xuất. Sửa đổi chế độ hoạch toán, kế toán nhằm khuyến khích
khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ, phát triển thành lập các trung tâm

nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công
nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lợng
phù hợp với quốc tế, sử dụng kinh nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho
các doanh nghiệp.
Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, cấp phép lao động, thuê chuyên
gia nớc ngoài và ngời Việt Nam ở nớc ngoài làm việc cho các tổ chức, cơ quan
Việt Nam.
- Giảm chi phí đầu vào:
Cải tiến thủ tục và trình tự thu thuế, hạn chế tình trạng thu thuế ngoài
thẩm quyền của các bộ ngành và địa phơng.
Giảm mức thuế, bao gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thu nhập
cá nhân thu nhập doanh nghiệp, tơng đơng với các nớc trong khu vực. Xem
xét lại mức đóng góp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và công đoàn phí. Từ đó
giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp.
Thứ năm: cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên.
Cần xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số
ngành quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế nh: sản xuất và
truyền tải điện năng, khai thác dầu khí, bu chính viễn thông, xây dựng cơ sở
hạ tầng kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền thuộc Nhà nớc.
20
Việc xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện theo hai hớng
.
Hớng thứ nhất: cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh bằng
cách xây dựng điều kiện cấp phép cho các loại hình dịch vụ phù hợp với thời
hạn nêu trong cam kết quốc tế. Cần tạo điều kiện khuyến khích cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động. Các doanh nghiệp mới có thể
đến từ một lĩnh vực kinh doanh khác có liên quan. Các doanh nghiệp này có
thể sử dụng chung cơ sở hạ tầng với doanh nghiệp đang sử dụng hoặc sẵn có
của mình.
Hớng thứ hai: chia tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo

trong lĩnh vực thành các đơn vị nhỏ độc lập, đồng thời chia tách các doanh
nghiệp không trực tiếp gắn với cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng khỏi doanh
nghiệp chủ đạo. Việc chia tách này cần đảm bảo các doanh nghiệp độc lập với
nhau không phụ thuộc vào nhau hay vào doanh nghiệp chủ đạo. Nh vậy sẽ làm
tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau mà không bị hạn chế lĩnh
vực và địa bàn kinh doanh.
Trong trờng hợp có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh
vực thì sự tham gia trực tiếp của Nhà nớc vào sự hoạt động của các doanh
nghiệp là không cần thiết. Trờng hợp này Nhà nớc chỉ cần ban hành một số
quy định hớng dẫn hoạt động và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh vào để
cho các doanh nghiệp tự điều chỉnh hoạt động của mình dựa vào thị trờng.
Trờng hợp vẫn phải duy trì độc quyền một số ngành chủ đạo thì Nhà nớc
cần ban hành những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các công
ty này. Xây dựng các luật đặc thù cho từng lĩnh vực nh: luật viễn thông, luật
điện lực Để kiểm soát độc quyền của các doanh nghiệp này và tránh tình
trạng lạm dụng u thế để chi phối thị trờng mà vẫn đảm bảo quyền tự chủ của
các doanh nghiệp. Trong các tổng công ty độc quyền cần phải tách bộ phận
xây dựng hoạch định chính sách với bộ phận kiểm tra, giám sát thực hiện
chính sách để có một chính sách kinh doanh có hiệu quả, khách quan.
Thứ sáu: Nhà nớc cần phải có luật cạnh tranh với mục đích đảm bảo và
duy trì môi trờng cạnh tranh. Nội dung luật cạnh tranh cần đợc thờng xuyên
nghiên cứu, thay đổi cho phù hợp với những biến động của môi trờng cạnh
tranh trong nớc cũng nh những yếu tố liên quan đến nớc ngoài.
Thứ bảy: cần thành lập các hiệp hội ngời tiêu dùng với những hoạt động
chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ ngời tiêu dùng và kịp thời phát hiện
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trờng. Các hiệp hội này sẽ
21
là đối trọng của các doanh nghiệp khống chế thị trờng. Kinh nghiệm các nớc
cho thấy hoạt động bảo vệ lợi ích ngời tiêu dùng hỗ trợ rất tốt cho việc duy trì
tốt môi trờng cạnh tranh lành mạnh. Bảo vệ lợi ích ngời tiêu dùng và cạnh

tranh là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến nhau.
Bảo vệ ngời tiêu dùng và kinh nghiệm quốc tế:
Nhật Bản:
Để bảo vệ ngời tiêu dùng Nhật đã ban hành luật bảo vệ ngời tiêu dùng,
yêu cầu của luật cần có "Những biện pháp cần thiết để điều chỉnh những hoạt
động hạn chế một cách vô lý tự do cạnh tranh và bình đẳng trong lĩnh vực giá
cả hàng hoá và dịch vụ là những điều hết sức quan trọng đối với cuộc sống ng-
ời dân". Luật bảo vệ ngời tiêu dùng ra đời thể hiện mối quan tâm về cách ứng
xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp và mong muốn có một chế độ cạnh tranh
tự do lành mạnh. Luật bảo vệ ngời tiêu dùng còn có những quy định cần có
những chỉ dẫn về đặc tính và chất lợng sản phẩm và "Những chỉ dẫn gian dối
và gây hậu quả nghiêm trọng phải bị xử lý". Ngoài luật bảo vệ ngời tiêu dùng
thì các cơ quan cạnh tranh của Nhật Bản cho rằng luật chống độc quyền cũng
bảo vệ ngời tiêu dùng.
Mặc dù vậy, thì việc bảo vệ ngời tiêu dùng cũng rất yếu về mặt thể chế,
ít hiệu lực hơn mức cần thiết đối với cải cách, do không đợc thể chế hoá giữa
việc bảo vệ ngời tiêu dùng và chính sách cạnh tranh. Thiếu cơ chế điều phối rõ
ràng, sự điều phối không có hệ thống giữa các vấn đề về cạnh tranh và ngời
tiêu dùng hay giữa các chính sách này với nhau, không có hỗ trợ chung làm
cho việc thực hiện một chơng trình cải cách bị bỏ lỡ.
Để tạo điều kiện bảo vệ ngời tiêu dùng "Hội đồng bảo vẹ ngời tiêu
dùng" ra đời. Nó bao gồm các cơ quan quan tâm đến vấn đề này và ủng hộ
thực thi luật chống độc quyền không thiên vị và chặt chẽ, làm cho ngời tiêu
dùng luôn luôn nhận thấy lợi ích của việc có nhiều khả năng lựa chọn hơn, giá
cả thấp hơn do cạnh tranh mạnh mẽ và thị trờng mở cửa đem lại.
Mỹ:
Mỹ coi việc thực thi luật pháp bảo vệ ngời tiêu dùng và chống độc
quyền là các công cụ bổ sung trong chính sách cạnh tranh của Mỹ nhằm đem
lại lợi ích từ cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ thờng hớng tới việc đảm
bảo sự lựa chọn tự do của ngời tiêu dùng đối với hàng hoá - dịch vụ trên thị tr-

ờng. Các luật pháp ngăn cấm các hành vi hạn chế sự lựa chọn của ngời tiêu
dùng, kể cả khi trên thị trờng chỉ có một đơn vị cung ứng hàng hoá. Ngời tiêu
22
dùng ở Mỹ thờng ủng hộ việc thực thi luật cạnh tranh và việc thực thi này
càng tích cực, càng mạnh mẽ thì ngời tiêu dùng càng có đợc nhiều lợi ích hơn.
23
Phần 3. Kết luận
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tế thị trờng. Canh
tranh cũng có mặt trái của nó, cạnh tranh thờng dẫn đến độc quyền, và nó đợc
đánh dấu bằng sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra thất
nghiệp, tạo gánh nặng cho xã hội. Tuy nhiên xát trong một quá trình lâu dài và
dựa vào toàn bộ lợi ích của xã hội thì cạnh tranh là động lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với nhau
sẽ làm nguồn lực của xã hội đợc phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn. Những
mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu nh chúng ta có
một chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý.
Nhiều nớc trên thế giới đã áp dụng tốt chính sách cạnh tranh trong phát
triển kinh tế và đem lại hiệu quả cao. Một trong những nớc sử dụng rộng rãi
và thành công yếu tố cạnh tranh để phát triển kinh tế là Mỹ, Mỹ đã ban hành
rất sớm luật cạnh tranh.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trờng cạnh tranh và
chống độc quyền ở nớc ta còn nhiều hạn chế còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ.
Đối với chúng ta còn nhiều việc phải làm để có một môi trờng cạnh tranh lành
mạnh, nhng trớc mắt việc phải làm là Việt Nam cần có một chính sách cạnh
tranh hợp lý, cần phải có pháp luật về cạnh tranh hớng dẫn các doanh nghiệp
khi tham gia cạnh tranh, để cho cạnh tranh đúng với ý nghĩa của nó là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng là một con dao hai lỡi, nó
có là động lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào sự vận
dụng quy luật này ở mỗi nớc. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì nớc đó

sẽ đợc lợi to do cạnh tranh đem lại, nhợc bằng không thì nó sẽ là một cỗ máy
nghiền nát nền kinh tế. Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi thất bại nếu không
biết vận dụng quy luật cạnh tranh. Là nớc áp dụng quy luật cạnh tranh muộn
nên Việt Nam sẽ có đợc nhiều kinh nghiệm của những nớc đi trớc, từ đó
chúng ta hy vọng Việt Nam sẽ chứng minh rằng: Việt Nam chính là mảnh đất
mầu mỡcho cạnh tranh phát huy hết u điểm của nó.
Tài liệu tham khảo
1. "Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền kinh doanh" của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ơng.
24
2. T¹p chÝ kinh tÕ vµ ph¸t triÓn.
3. Nghiªn cøu kinh tÕ sè 254 - th¸ng 7/1999.
4. T¹p chÝ th¬ng m¹i 17/2001
25

×