HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TIỂU LUẬN MÔN HỌC:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA – GIÁO DỤC – Y TẾ
Đề tài:
CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS
QUỐC GIA. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
“Đừng quay lưng lại với AIDS”
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: HÀ HOA LÝ
NHÓM THỰC HIỆN:
Hà Nội - Tháng 10 năm 2007
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI DỊCH HIV/AIDS
VÀ CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG QUỐC GIA HIV/AIDS.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI DỊCH HIV/AIDS.
1. Khái quát về HIV/AIDS.
A. HIV/AIDS là gì?
- HIV là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno-deficiency Virus
(Virusgây suy giảm miễn dịch ở người). HIV có 2 týp là HIV-1 và HIV-2.
- AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency
Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải).
Trước đây, bệnh được gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome d'Immuno
Deficience Acquise), nhưng do trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thụy
Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên thống nhất
gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn và phù hợp với tên quốc tế.
- AIDS là một bệnh mạn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ
miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm
gây bệnh. Do đó, bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà
bình thường có thể đề kháng được.
Bản thân virus và nhiễm trùng được gọi là HIV. Thuật ngữ AIDS được dùng để
chỉ giai đoạn muộn hơn của bệnh. Như vậy, thuật ngữ nhiễm HIV/AIDS được
dùng để chỉ những giai đoạn khác nhau của cùng một bệnh.
B. HIV/AIDS có ảnh hưởng như thế nào đến cá nhân và xã hội?
Ảnh hưởng cá nhân và xã hội của người nhiễm HIV/AIDS là cực kì to lớn và
không thể lường trước được.
* Ảnh hưởng về kinh tế: Số người nhiễm HIV chủ yếu ở lứa tuổi lao động. Khi
nhiều người bị nhiễm HIV và bị chết vì AIDS sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế của từng gia đình, cộng đồng và của đất nước. Chi phí cho công tác phòng chống
AIDS là rất tốn kém.
* Ảnh hưởng về tâm lý xã hội: Mọi người sợ hãi dễ dẫn đến tình trạng phân biệt
đối xử. Cuộc sống của gia đình người nhiễm HIV/AIDS trở nên căng thẳng, xuất
hiện nhiều mâu thuẫn và dần tiến tới sự mất ổn định trong cuộc sống.
* Ảnh hưởng nặng nề cho hệ thống Y tế: Hệ thống y tế bị quá tải, phát sinh các
nguy cơ lây nhiễm HIV trong môi trường y tế. Thuốc đặc trị không có nhưng vẫn
phải tiến hành việc điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS dẫn đến chi phí
điều trị lớn nhưng không đạt hiệu quả, bệnh nhân vẫn tử vong.
* HIV làm giảm tuổi thọ trung bình. Tăng tỉ lệ chết sơ sinh, tỉ lệ chết mẹ… làm
nảy sinh các vấn đề về trẻ mồ côi, bảo tồn nòi giống.
Từ những ảnh hưởng trên sẽ tác động lớn đến xã hội, chính trị, kinh tế.
2. Một số thông tin về đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam và trên thế giới.
2.1. TÌNH HÌNH ĐẠI DỊCH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM
A. Một số số liệu về dịch HIV/AIDS.
- Tháng 12/1990, Bệnh nhân nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Thành phố
Hồ Chí Minh là một người phụ nữ.
- Tính đến ngày 31/12/2006, luỹ tích các trường hợp nhiểm HIV được báo cáo
trên toàn quốc là 116.565 người, trong đó 20.195 trường hợp đã chuyển thành bệnh
nhân AIDS và 11.802 bệnh nhân AIDS đã tử vong. Trong năm 2006 trên toàn quốc
phát hiện 12.454 trường hợp nhiễm HIV mới, trong đó có 2.906 bệnh nhân AIDS
và 1.731 trường hợp bị tử vong do AIDS.
- Trong tháng 8/2007 cả nước cũng đã phát hiện thêm 2,3 nghìn trường hợp
nhiễm HIV. Nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 30/8/2007 lên
131,4 nghìn người, trong đó 26,2 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và
gần 14,7 nghìn người đã tử vong do AIDS.
- Tính đến ngày 26/07/2007, Huyện đảo Trường Sa là nơi duy nhất ở Việt Nam
chưa phát hiện HIV/AIDS.Theo thống kê thì trung bình hiện nay mỗi ngày Việt
Nam có chừng 100 người lây nhiễm HIV/AIDS. 64 tỉnh, thành trên toàn quốc đều
có người nhiễm HIV/AIDS. Nhiều tỉnh, thành phố có 100% số xã, phường đã có
người nhiễm HIV/AIDS.
B. Đặc điểm dịch HIV/AIDS giai đoạn 2001 – 2006.
a. Mỗi năm trên toàn quốc phát hiện được trên 10.000 trường hợp nhiễm HIV
mới. Năm 2003, toàn quốc phát hiện mới được 16.980 trường hợp nhiểm HIV, đây
là năm có số phát hiện cao nhất từ trước đến nay. Sau năm 2003, số nhiễm HIV
được phát hiện giảm nhưng vẫn ở mức cao.
b. Hình thái dịch HIV/AIDS ở nước ta vẫn trong giai đoạn dịch tập trung, các
trường hợp nhiễm HIV/AIDS chủ yếu tập trung trong nhóm nguy cơ cao như
nghiện chích ma tuý, mại dâm.
c. Tỷ lệ số người nhiễm HIV ở nam giới cao gấp 6 lần nữ giới (chiếm 83,19%
so với 16,29%), tỷ lệ này ít biến động kể từ 1993 trở lại đây.
d. Đối tượng nhiễm HIV/AIDS có xu hướng “trẻ hóa” ngày càng rõ rệt (95% ở
lứa tuổi 15 - 49, trong đó ở độ tuổi 20 - 29 chiếm tới 55,26%).
e. Tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm đối tượng qua giám sát trọng điểm cho thấy
tốc độ dịch vẫn gia tăng nhưng có chậm hơn so với các năm trước đây:
- Tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm nghiện chích ma tuý cao nhất vào giai đoạn
2001 – 2002 là 29,4%, tỷ lệ này có xu hướng chững lại, năm 2005 là 25%.
- Tỷ lệ nhiểm HIV trong nhóm gái mại dâm cao nhất vào năm 2002 với 5,9%
gái mại dâm bị nhiễm HIV, tỷ lệ này đến năm 2006 còn 3,95%.
- Đối với các nhóm bệnh nhân mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, phụ
nữ mang thai, thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự cũng đã có các dấu hiệu
dịch không gia tăng nhanh như các năm trước đây.
f. Dịch vẫn chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
đứng đầu là Quảng Ninh với tỷ lệ nhiễm trên 100.000 dân cao nhất nhưng về số
liệu tuyệt đối, Tp Hồ Chí Minh phát hiện được 17.407 trường hợp chiếm 14% tổng
số các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện trên toàn quốc.
g. Tuy tốc dộ dịch không gia tăng nhanh chóng so với các năm trước đây nhưng
chứa đựng các yếu tố nguy cơ lan tràn dịch ở một số tỉnh, thành phố thể hiện qua
việc hiểu biết về HIV/AIDS trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao còn thấp, tỷ
lệ dùng chung bơm kim tiêm trong nhóm nghiện chích ma tuý cao từ 22 - 44 %
trong các lần tiêm chích. Tỷ lệ sử dụng bao cao su trong nhóm gái mại dâm tuy đã
có cải thiện nhưng vẫn chỉ dừng ở mức 50 – 60%.
h. Dịch dã có dấu hiệu lây lan ra cộng đồng, đối tượng nhiễm HIV/AIDS không
chỉ tập trung ở những người có nguy cơ cao mà còn xuất hiện trong nhóm phụ nữ
mang thai và trẻ em; HIV/AIDS đã đi về miền núi, vùng sâu, vùng xa, lan rộng
trong các tầng lớp không thuộc diện có nguy cơ cao như học sinh, sinh viên, tân
binh, giới công chức, thậm chí nông dân Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm thanh niên
khám tuyển nghĩa vụ quân sự là 0,25%, phụ nữ mang thai là 0,37% vào năm 2006.
Theo ước tính của Bộ Y tế, tỷ lệ phụ nữ trong số người nhiễm HIV tại Việt
Nam đã tăng gấp đôi so với trước. Hiện cứ 3 người mang virus này thì 1 là nữ. Mỗi
năm Việt Nam có từ 1-1,5 triệu phụ nữ mang thai thì có khoảng 6.000 người bị
nhiễm HIV/AIDS và gần 2.000 trẻ bị nhiễm HIV từ mẹ(chiếm 30% tổng số sản
phụ nhiễm HIV).
Năm Số tỉnh có
người nhiễm
HIV/AIDS
Tổng số
người nhiễm
HIV
Tổng số
bệnh nhân
AIDS
Tổng số người
chết do
HIV/AIDS
1990 1 01 0 0
1991 1 01 0 0
1992 07 11
1993 29 1 158 106 46
1994 38 1 369 120 52
1995 43 1 452 202 108
1996 48 1 779 405 211
1997 54 2 877 734 406
1998 61 5 774 1 215 633
1999 64 8 410 925 577
2000 64 11 174 1 524 799
2001 64 12 326 1 907 1 052
2002 64 58 490 8 718 4 834
2003 64 74 130 11 339 6 370
2004 64 87 564 14 382 8 260
2005 64 103 900 17 200 10 000
2006 64 116 565 20 195 11 802
30/8/2007
64 131 400 26 200 14 700
SỰ CHÊNH LỆCH TRONG TỶ LỆ NHIỄM HIV/AIDS GIỮA CÁC TỈNH THÀNH
tính đến tháng 7/2006
12 tỉnh có tỷ lệ
nhiễm cao nhất
Số ca
HIV/100000 dân
12 tỉnh có tỷ lệ
nhiễm thấp nhất
Số ca
HIV/100000dân
Quảng Ninh 572,56 Quảng Bình 4,27
Hải Phòng 331,96 Quảng Trị 4,56
TP. Hồ Chí Minh 248,05 Quảng Ngãi 5,21
Bà Rịa Vũng Tàu 229,10 Hà Giang 9,64
An Giang 184,27 Vĩnh Phúc 11,00
Hà Nội 175,40 Phú Yên 11,07
Lạng Sơn 150,62 Hà Tĩnh 12,67
Cao Bằng 127,79 Quảng Nam 12,73
Khánh Hòa 101,51 Cà Mau 12,73
Bình Dương 94,75 Thừa Thiên Huế 14,64
Đồng Nai 92,24 Tuyên Quang 15,78
Thái Nguyên 91,27 Phú Thọ 16,35
2.2. TÌNH HÌNH ĐẠI DỊCH HIV/AIDS THẾ GIỚI
- Theo báo cáo của cơ quan điều phối về HIV/AIDS của Liên hiệp quốc
(UNAIDS) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), dịch HIV/AIDS bắt đầu xuất hiện từ
những năm cuối của thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 tại Châu Phi.
- Tại Châu Á, dịch HIV/AIDS xuất hiện muộn vào những năm cuối của thập kỷ
80, vùng Đông Âu và Trung Á phát hiện dịch vào những năm đầu thập kỷ 90. Dịch
HIV/AIDS xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á khá muộn, trường hợp nhiểm HIV
đầu tiên tại khu vực này được phát hiện tại Thái Lan vào năm 1985, đến cuối
những năm 90 là Campuchia, Myanma. Đường lây truyền HIV tại khu vực này chủ
yếu qua đường tình dục khác giới và tiêm chích ma tuý.
- Tính đến cuối năm 2005, theo Báo cáo cập nhập tình hình dịch HIV/AIDS.
UNAIDS và WHO đã công bố trên thế giới có khoảng 40,3 triệu người nhiễm HIV
đang còn sống. Chỉ riêng năm 2005, toàn thế giới đã có 4,9 triệu người nhiểm mới
và 3,1 triệu người tử vong do AIDS. Khu vực cận Shahara có tỷ lệ nhiểm HIV cao
nhất với khoảng 25,8 triệu người (chiếm 2/3 số người nhiểm HIV), tiếp đến là khu
vực Châu Á Thái Bình Dương.
- Cũng theo báo cáo cập nhập tình hình dịch AIDS, UNAIDS, tháng 12/2005
của UNAIDS, dịch HIV/AIDS đang tiếp tục gia tăng ở Đông Âu, Trung Á và
Đông Á. Ở Đông Âu và Trung Á, số người nhiểm HIV đã tăng thêm 25% (lên đến
1,6 triệu người) trong cùng thời kỳ. Ờ Đông Á, số người nhiểm HIV trong năm
2005 cao hơn hai năm trước đó 20% (lên đến 870.000 người).
* Theo nhận xét của UNAIDS, dịch HIV/AIDS ờ các nước trong khu vực Châu
Á và Châu Đại Dương đang gia tăng, đặc biệt là Trung Quốc, Papua New
Guinea và Việt Nam, ngoài ra cũng có nhiều dấu hiệu cho thấy ở các nước khác
như Pakistan và Indonesia dịch cũng gần đến mức nghiêm trọng.
Lý do của sự gia tăng HIV/AIDS ở khu vực này có thể do đây là khu vực tập
trung nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ đói nghèo còn cao và là một trong những
nơi sản xuất nhiều ma tuý trên giới, đó là những thách thức cho công tác phòng,
chống AIDS ở tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới.
*Ước tính năm 2007, tại Việt Nam có khoảng 280.000 trường hợp nhiễm HIV,
110.000 bệnh nhân AIDS và gần 90.000 bệnh nhân đã tử vong do AIDS. Nhiễm
HIV ở nước ta tập trung ở nhóm tuổi từ 20-39 (chiếm 78,9%), nam giới chiếm
85%.
II. CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG QUỐC GIA HIV/AIDS.
1 Bối cảnh ra đời và mục đích của Chương trình phòng chống quốc gia
HIV/AIDS.
1.1 Bối cảnh ra đời.
Chương trình phòng, chống quốc gia HIV/AIDS tại Việt Nam đã được khởi đầu
như một chương trình quốc gia phòng chống bệnh truyền nhiễm vào những năm
cuối của thập kỷ 80. Với phương châm chỉ đạo là “lấy dự phòng là chính, truyền
thông là then chốt”. Rất nhanh chóng chương trình đã vượt ra khỏi những khuân
khổ của một chương trình y tế để trở thành một chương trình có tính chất toàn xã
hội.
Đứng trước nguy cơ lan tràn nguy hiểm và tác hại to lớn của đại dịch
HIV/AIDS. Chương trình phòng, chống quốc gia HIV/AIDS cho giai đoạn đầu tiên
1991 – 1993 được xây dựng, triển khai với sự giúp đỡ của Tổ chức Y tế thế giới tại
09 tỉnh/thành phố trên tổng số 53 tỉnh/thành. Năm 1993, để tăng cường dự phòng
lây nhiễm HIV qua đường truyền máu sau vụ dịch nghiêm trọng xảy ra tại Tp Hồ
Chí Minh, Khánh Hòa và một số tỉnh phía Nam, Nhà nước đã đầu tư 10 tỷ đồng
cho việc mua sắm trang thiết bị bảo đảm an toàn truyền máu.
- Cuối năm 1993, Chương trình phòng chống HIV/AIDS toàn cầu của Liên Hợp
Quốc đã giúp Việt Nam xây dựng chiến lược Phòng chống quốc gia HIV/AIDS
giai đoạn 1994 – 2000. Từ năm 1994, Nhà nước đã đầu tư kinh phí hằng năm cho
công tác phòng chống HIV/AIDS trên cả nước.
- Năm 1994 – 1995 có thể coi là sự khởi đầu của chương trình quốc gia.
Chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS thực sự đúng nghĩa thì hoạt động
muộn hơn. Tuy nhiên, sự đáp ứng quốc gia đối với đại dịch HIV/AIDS là rất tích
cực, cho phép trong một thời gian ngắn đã hình thành được những đường hướng cơ
bản để đương đầu với đại dịch.
- Từ năm 1996, hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam đựơc triển
khai theo Chương trình Mục tiêu Quốc gia với các mục tiêu dài hạn đã đặt ra. Các
kế hoạch triển khai được vạch ra cụ thể cho hằng năm nhằm thực hiện các mục tiêu
trước mắt được xác định của từng năm đó.
- Chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS trong hai giai đoạn: 1996 –
2001, 2001 – 2006 Nhà nước đã đầu tư khoảng 50 – 60 tỷ đồng mỗi năm và tập
trung vào một số hoạt động chính của Chương trình, đó là:
- Thông tin – Giáo dục - Truyền thông; Tư vấn và xét nghiệm tự nguyện,
- Tuyên truyền sử dụng và cung cấp miễn phí Bao cao su.
- Giáo dục sức khỏe tình dục và kỹ năng sống cho vị thành niên,
- Các hoạt động tập trung vào nhóm tiêm chích ma túy, mại dâm,
- Xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử,
- Phòng chống lây nhiễm qua các dịch vụ y tế; An toàn trong truyền máu,
- Phòng lây nhiễm từ mẹ sang con,
- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục,
- Chăm sóc và điều trị; Giám sát huyết thanh học.
1.2 Mục đích của Chương trình.
a. Để phòng và hạn chế sự lan truyền của đại
dịch HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư Việt Nam.
b. Phấn đấu hạn chế, làm giảm tỷ lệ măc và chết do nhiễm HIV/AIDS; giảm tác
hại về kinh tế xã hội của nhiễm HIV/AIDS.
Trong giai đoạn 2004 - 2010, Việt Nam sẽ tăng cường đẩy mạnh các biện pháp
ngăn chặn và kiểm soát HIV/AIDS nhằm hướng tới giảm tuyệt đối tỷ lệ những số
người nhiễm HIV/AIDS mới sau năm 2010.
c. Huy động toàn xã hội triển khai các đường lối, biện pháp tổng hợp, đẩy mạnh
hợp tác quốc tế nhằm thực hiện các mục tiêu trên.
2 Quan điểm và mục tiêu trong những năm tiếp theo của Nhà nước ta
trong Chương trình phòng chống quốc gia HIV/AIDS.
2.1. Quan điểm:
Ngày 17/3/2004, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia
phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam tới 2010 và tầm nhìn 2020. Trong định hướng
chiến lược đã nêu rõ:
a) HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức khỏe, tính
mạng của con người và tương lai nòi giống của dân tộc Việt Nam. HIV/AIDS tác
động tiêu cực trực tiếp và to lớn đến phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn
xã hội của quốc gia. Do đó, công tác phòng và chống đại dịch HIV/AIDS phải
được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài, cần phải tăng cường phối
hợp liên ngành và đẩy mạnh việc huy động toàn xã hội tham gia;
b) Đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS là đầu tư góp phần tạo ra sự
phát triển bền vững của đất nước mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội trực tiếp và gián
tiếp. Nhà nước bảo đảm việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phòng, chống
HIV/AIDS từ nay đến năm 2010 và sau 2010 phù hợp với khả năng và điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn;
c) Chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV/AIDS, tăng cường
trách nhiệm của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và của người nhiễm
HIV/AIDS với gia đình, xã hội;
d) Việt Nam cam kết thực hiện các Điều ước quốc tế về phòng, chống
HIV/AIDS đã ký kết hoặc gia nhập. Bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia về
phòng, chống HIV/AIDS phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế;
đ) Không ngừng tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế hữu
nghị đơn phương, song phương, đa phương…với các nước láng giềng, các nước
trong khu vực và trên thế giới trong công tác phòng và chống HIV/AIDS;
e) Công tác phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian tới cần ưu tiên:
- Tăng cường thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi; phối hợp
với các chương trình khác để ngăn ngừa, giảm thiểu lây nhiễm HIV/AIDS;
- Đẩy mạnh các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại;
- Tăng cường tư vấn, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS; năng lực
quản lý, theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá chương trình.
2.2. Mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam
đến năm 2010:
a) Mục tiêu chung: Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư
dưới 0,3% vào năm 2010 và không tăng sau 2010; giảm tác hại của HIV/AIDS đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội.
b) Mục tiêu cụ thể:
- 100% các đơn vị, địa phương trên cả nước, đưa hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS trở thành một trong các mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển
kinh tế - xã hội tại các đơn vị và địa phương;
- Nâng cao hiểu biết của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS: 100%
nhân dân khu vực thành thị và 80% ở khu vực nông thôn, miền núi hiểu đúng và
biết cách dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS;
- Khống chế lây nhiễm HIV/AIDS từ nhóm nguy cơ cao thông qua việc triển
khai đồng bộ các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại: thực hiện đối với tất cả
các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS; 100% tiêm chích an toàn
và sử dụng BCS trong quan hệ tình dục có nguy cơ;
- Bảo đảm người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị thích hợp: 90%
người lớn nhiễm HIV/AIDS, 100% các bà mẹ mang thai nhiễm HIV/AIDS, 100%
trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được quản lý, điều trị, chăm sóc
và tư vấn thích hợp, 70% bệnh nhân AIDS được điều trị bằng các thuốc điều trị đặc
hiệu;
- Hoàn thiện hệ thống quản lý, theo dõi, giám sát, đánh giá chương trình phòng,
chống HIV/AIDS: 100% tỉnh, thành phố có khả năng tự đánh giá và tự dự báo về
diễn biến của nhiễm HIV/AIDS ở địa phương, 100% xét nghiệm HIV tuân thủ quy
định tư vấn xét nghiệm tự nguyện;
- Ngăn chặn lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế: Bảo đảm 100% các
đơn vị máu và chế phẩm máu được sàng lọc HIV trước khi truyền ở tất cả các
tuyến; 100% cơ sở y tế thực hiện đúng quy định về vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây
nhiễm HIV/AIDS.
2.3. Tầm nhìn 2020:
a) Toàn dân tích cực đẩy mạnh công tác phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn
2004 - 2010 để sau 2010 giảm dần số lượng tuyệt đối người nhiễm HIV/AIDS, làm
giảm các ảnh hưởng KT-XH do HIV/AIDS gây ra cho giai đoạn sau 2010;
b) Giai đoạn 2010 – 2020, nhà nước ta tiếp tục tăng cường chỉ đạo, đầu tư và
đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong công tác phòng, chống HIV/AIDS nhằm giảm
thiểu tác động của đại dịch HIV/AIDS đến sự phát triển kinh tế - xã hội;
c) Giai đoạn 2010 – 2020, Chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS sẽ
phải tập trung giải quyết những hậu quả của HIV/AIDS; biện pháp dự phòng đặc
hiệu bằng vắc xin, thuốc điều trị HIV/AIDS có thể sẽ được sử dụng rộng rãi. Ưu
tiên trong giai đoạn 2010 - 2020 là:
- Dự phòng bằng các biện pháp kỹ thuật đặc hiệu;
- Chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS;
- Chăm sóc các đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG QUỐC GIA HIV/AIDS.
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA
PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA.
A. Những thành tích đã đạt được trong công tác thực hiện
chương trình phòng chông quốc gia HIV/AIDS.
Sau 16 năm thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống HIV/AIDS theo
từng giai đoạn cụ thể:
- Chương trình phòng chống quốc gia HIV/AIDS cho giai đoạn đầu tiên 1991 –
1993.
- Chiến lược Phòng chống quốc gia HIV/AIDS giai đoạn 1994 – 2001.
+ Chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 1994 – 1995.
+ Chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 1996 – 2001.
- Chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 2001 – 2006.
- Chiến lược quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020.
1. Trong lĩnh vực xã hội: Công tác phòng, chống AIDS ngày càng được xã
hội hoá:
Việt Nam đã xây dựng được một Chương trình Quốc gia với sự tham gia của
phần lớn các bộ, ngành, và các đoàn thể xã hội tham gia trực tiếp vào công tác
phòng chống AIDS như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam v.v Tạo được dư luận quần chúng,
thu hút được sự quan tâm cũng như phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều
tầng lớp, cộng đồng dân cư, chính quyền và các ngành, đoàn thể các cấp, các tổ
chức tôn giáo cả về nhân lực, tài lực và vật lực chủ động tham gia phòng chống
AIDS.
2. Chương trình Quốc gia đã thành công trong việc tạo ra được sự hỗ trợ
mạnh mẽ về mặt chính trị thông qua việc đã xây dựng và hoàn thiện một loạt
các văn bản quy phạm Pháp luật quan trọng của Đảng, Quốc hội và Chính
phủ phục vụ cho công tác phòng chống HIV/AIDS đồng thời thể hiện sự cam
kết mạnh mẽ trong việc hỗ trợ cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS
trong toàn quốc.
- Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 31 tháng 5 năm 1995;
- Chỉ thị số 52/CT-TW ngày 13/03/1995 của Ban Bí thư TW Đảng về “ Lãnh
đạo công tác phòng chống AIDS”.
- Chỉ thị số 54/CT-TW ngày 30/11/2005, của Ban Bí thư TW Đảng về “Tăng
cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới”.
- Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV/AIDS) ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Nghị đinh Số: 108/2007/NĐ-CP ngày 26/ 6 /2007 Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)
- Thông tư liên tịch số 11 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ, tháng 11. 2004.
- Chương trình Hành động quốc gia về phòng chống lây truyền HIV từ mẹ sang
con cho giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ Y tế.
- Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam
đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020
- Chương trình hành động quốc gia về Thông tin, giáo dục và truyền thông thay
đổi hành vi phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010.
Do tính nhạy cảm đặc biệt của HIV/AIDS, cam kết chính trị là điều kiện then
chốt cho các chương trình phòng chống HIV/AIDS hiệu quả. Dự phòng HIV cho
các nhóm bên lề xã hội đòi hỏi đáp ứng đa ngành, đặc biệt là một môi trường luật
pháp hỗ trợ với sự hợp tác, ủng hộ của các cơ quan hành pháp.
3. Chương trình quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đã xây dựng được
một hệ thống tổ chức tương đối toàn diện và ngày càng hoàn thiện theo
phương châm liên ngành, toàn diện ở các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể
xã hội trong toàn quốc. Hệ thống này đã có khả năng huy động các nguồn lực
của chính phủ và quốc tế để thực hiện các hoạt động phòng chống quan trọng,
làm chậm lại quá trình lan truyền dịch.
- Tại tuyến TW, UBQG phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý,
mại dâm được thành lập do một Phó Thủ tướng làm chủ tịch với sự tham gia của
nhiều các ban ngành, đoàn thể tổ chức xã hội liên quan bao gồm: Bộ Công an, Bộ
LĐ-TB-XH, Bộ Y tế, UBTW Mặt trận Tổ quốc VN, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ
Tài chính, Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ NN và
PTNT, UBDTộc miền núi, Văn phòng CP, Tổng cục HQ, Bộ đội biên phòng, Hội
LHPNVN, Đoàn TNCSHCM, Liên đoàn lao động VN.
- Sau hơn 15 năm ra đời và phát triển; Chương trình phòng chống HIV/AIDS ở
nước ta đã từng bước được mở rộng, lúc đầu chỉ trong phạm vi chỉ đạo của ngành y
tế, sau đó đã trở thành Chương trình mang tính liên ngành. Thành phần của
Chương trình phòng, chống HIV/AIDS hiện nay đã thể hiện rõ nét sự phối hợp liên
ngành trong lĩnh vực này.
4. Chương trình Quốc gia đã được xây dựng theo hướng toàn diện, hướng
tới các chuẩn mực quốc tế.
Tất cả các hoạt động phòng chống được UNAIDS khuyến nghị đều đã được áp
dụng ở Việt Nam với các mức độ khác nhau.
5. Bước đầu khống chế được tốc độ gia tăng của HIV/AIDS.
Theo kết quả giám sát trọng điểm trong thời gian qua, mặc dù tỷ lệ nhiễm vẫn
tăng trong tất cả các nhóm nhưng chiều hướng nhiễm HIV trong nhóm có nguy cơ
cao đã có xu hướng giảm dần.
Tuy số người có HIV/AIDS mới được phát hiện ở nước ta vẫn còn gia tăng
nhưng tốc độ gia tăng vẫn ở mức thấp và sau 17 năm được phát hiện, dịch
HIV/AIDS ở Việt Nam vẫn được kìm giữ ở mức độ tập trung trong các nhóm có
hành vi nguy cơ cao, không như ở Thái Lan, Campuchia và các nước Châu Phi
khác
6. Nâng cao nhận thức và tạo được sự quan tâm của các cấp, các ngành và
nhân dân về vấn đề HIV/AIDS và công tác phòng chống AIDS.
Số người dân đã có nhận thức và sự quan tâm, hiểu biết cơ bản về HIV/AIDS,
cũng như các con đường lây truyền và biện pháp phòng chống đã được nâng cao rõ
rệt.
Theo điều tra, hơn 68% số người được hỏi trong độ tuổi từ 15-49 đã biết về
HIV/AIDS và các đường lây truyền chính. Đây là một tỷ lệ tương đối cao.
7. Tất cả các tỉnh đã có thể tiến hành xét nghiệm HIV. Mạng lưới sàng lọc
máu đã được thiết lập từ tuyến TW, tuyến tỉnh đến tuyến huyện/thị.
Trong những năm qua, ngành Y tế nước ta đã từng bước được trang bị kỹ thuật,
máy móc và sinh phẩm để tiến tới mục tiêu 100% các túi máu đều được sàng lọc
HIV trước khi truyền.Qua đó, bảo đảm tốt an toàn truyền máu và an toàn trong các
dịch vụ y tế.
Cho tới nay mới phát hiện được một trường hợp bị nhiễm HIV do truyền máu
trong giai đoạn cửa sổ vào năm 1997. Một phần đông dân chúng đã có thể tiếp cận
với dịch vụ xét nghiệm khi cần thiết. Sàng lọc máu trước khi truyền đã được thực
hiện rộng rãi trong toàn quốc.
Trong giai đọan 2001-1005 đã đảm bảo 100% các trường hợp tai nạn rủi ro
nghề nghiệp phơi nhiễm HIV được đặc trị dự phòng bằng thuốc đặc hiệu kháng
virut HIV(ARV). Số lượng bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS được tiếp cận với thuốc
ARV ngày càng nhiều ( từ 60 bệnh nhân vào năm 2001 lên đến 5700 bệnh nhân
vào cuối năm 2005, đầu 2006). Công tác dự phòng lây truyền từ mẹ sang con,
khám chữa bệnh qua đường tình dục đã có những tiến bộ rõ rệt.
8. Một hệ thống giám sát và thông báo dịch tễ học HIV/AIDS hoàn chỉnh
đã được xây dựng ở 64 tỉnh, thành phố.
- Tiến hành giám sát HIV bao gồm giám sát trọng điểm ở 21 tỉnh thành và giám
sát phát hiện ở 64/64 tỉnh thành trong cả nước.
- Hệ thống này hoạt động tốt và đang hướng tới giám sát thế hệ hai: Qua đó
thường xuyên theo dõi và từng bước đánh giá đúng tình hìnhdiễn biến của dịch làm
cơ sở khoa học cho công tác hoạch định chính sách, xác định các nội dung, biện
pháp dự phòng và can thiệp. Hệ thống giám sát và thông báo dịch tễ học
HIV/AIDS ở nước ta được đánh giá vào loại tốt ở Châu Á.
9. Bước đầu, một số mô hình can thiệp dự phòng lây nhiễm, Chăm sóc và
hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS đã được triển khai một cách có hiệu quả.
- Triển khai thí điểm can thiệp dự phòng HIV trong một số nhóm đối tượng có
hành vi nguy cơ cao như nhóm nghiện chích ma tuý (trao đổi - sử dụng bơm kim
tiêm sạch), trong nhóm gái mại dâm và lái xe đường dài (phân phát bao cao su, tiếp
cận các dịch vụ khám chữa bệnh) với mô hình giáo dục đồng đẳng. Tỷ lệ phần
trăm thường xuyên sử dụng BCS trong 12 tháng của các nhóm đối tượng có sự
can thiệp của các mô hình, dự án đã tăng rõ rệt sau 3 năm can thiệp.
- Bước đầu triển khai thí điểm công tác tư vấn và xét nghiệm tự nguyện dấu tên.
Thực hiện quản lý - chăm sóc và tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS.
- Tổ chức mạng lưới chăm sóc hỗ trợ nhằm giúp đỡ người nhiễm HIV/AIDS cả
về vật chất và tinh thần để tái hoà nhập với gia đình và cộng đồng.
- Định kỳ thăm khám và cấp phát thuốc điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
- Điều trị thí điểm các thuốc kháng Retrovirut; Thu dung, điều trị cho bệnh
nhân AIDS trong giai đoạn cấp tại các bệnh viện đa khoa.
- Điều trị dự phòng cho các nhân viên y tế và cán bộ thi hành công vụ bị phơi
nhiễm với HIV/AIDS, điều trị dự phòng lây truyền từ mẹ sang con.
10. Trong 15 năm qua (1990-2005), Công tác truyền thông và Giáo dục về
HIV/AIDS ở Việt Nam đạt được những thành công nhất định, như:
- Triển khai rộng rãi khắp cả nước hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông
và huy động cộng đồng tham gia chương trình phòng chống AIDS thông qua
truyền thông đại chúng, giáo dục học đường v.v đã thấy một sự thay đổi nhanh
chóng của người dân về những vấn đề cơ bản liên quan đến HIV/AIDS.
- Giúp người dân hiểu biết hơn về ba đường lây truyền chính của căn bệnh
(thay vì trước đây người ta đã cho rằng HIV/AIDS là căn bệnh của nước ngoài,
HIV được “nhập khẩu” và lây truyền ở Việt Nam là do những người nằm trong
nhóm tệ nạn xã hội);
- Đi sâu vào từng tầng lớp như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, công nhân, sinh
viên, học sinh;
Đặc biệt, truyền thông cũng giúp cho các tuyên truyền viên tiếp cận được nhiều
hơn nữa với đối tượng đích, là “cội nguồn” của sự lây truyền.
Ngày nay người có HIV/AIDS có thể sinh hoạt bình thường với cộng đồng và
tham gia các hoạt động xã hội đã là hình ảnh ngày càng phổ biến.
Nhận thức và xác định rất sớm nhóm tuổi bị lây nhiễm HIV chủ yếu ở Việt
Nam là lứa tuổi trẻ, nhất là tuổi thanh, thiếu niên nên ngay từ khi Uỷ ban quốc gia
phòng, chống HIV/AIDS được thành lập năm 1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã là
thành viên của Ủy ban này và đã thiết kế chương trình đào tạo, giáo dục về
HIV/AIDS trong hệ thống trường học. Các bài học về phòng, chống HIV/AIDS đã
được đưa vào sách giáo khoa lớp 5, lớp 9. Các trường đại học và cao đẳng đã triển
khai các hoạt động ngoại khóa để cung cấp thông tin phòng, chống HIV/AIDS cho
học sinh, sinh viên.
11.Thiết lập được và từng bước mở rộng quan hệ quốc tế trong việc thực
hiện chương trình phòng chống HIV/AIDS quốc gia trên cả ba mặt trận : Huy
động nguồn lực, trao đổi thông tin, kinh nghiệm và hướng dẫn bồi dưỡng đào
tạo cán bộ. Qua đó nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế.
Hợp tác quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong chương trình phòng, chống
HIV/AIDS. Các tổ chức quốc tế cũng như Chính phủ các nước đã hỗ trợ đáng kể
cho công tác phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam.
Chính phủ Nhật Bản viện trợ 3,6 triệu USD cơ bản giải quyết vấn đề trang thiết
bị cho 10 tỉnh, thành phố phía Nam;
Chính phủ Anh viện trợ không hoàn lại 25 triệu USD giai đoạn 2003-2007;
Chính phủ các nước Đức, Hoa Kỳ, Lúc-xăm-bua, ô-xtrây-lia đều có viện trợ
cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Các tổ chức Liên Hợp Quốc, NGOs có nhiều hỗ trợ về nguồn vốn và kỹ thuật
cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
Các nguồn viện trợ, các chương trình hợp tác phòng, chống HIV/AIDS được
đánh giá là có hiệu quả, giúp nâng cao hiểu biết và thực hiện các biện pháp phòng,
chống hiệu quả đối với HIV/AIDS, góp phần quan trọng trong công cuộc phòng
chống và đẩy lùi HIV/AIDS tại Việt Nam, cụ thể:
a. Hỗ trợ đa phương
- Chương trình Phòng chống AIDS của Liên Hiệp quốc (UNAIDS). Ở Việt
nam, UNAIDS tiến hành điều phối các hoạt động phòng chống HIV/AIDS của 6 tổ
chức Liên Hiệp Quốc: Quĩ Nhi Đồng LHQ, Chương trình Phát triển LHQ, Quĩ dân
số LHQ, Chương trình Kiểm soát ma tuý LHQ, Tổ chức Y tế thế giới và Ngân
hàng thế giới.
- Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP): Hỗ trợ Việt Nam qua
dự án "Nâng cao năng lực điều phối, lập kế hoạch và quản lý chương trình phòng
chống AIDS", nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu và hoạch định chính sách về
HIV/AIDS cho cán bộ phòng chống HIV/AIDS
- Chương trình Kiểm soát ma tuý của Liên Hiệp Quốc (UNDCP): Hỗ trợ VN
với dự án kiểm soát ma tuý tập trung vào một số lĩnh vực như: Triệt phá việc trồng
các cây là nguồn cung cấp ma tuý; Dự phòng lạm dụng ma tuý, điều trị và các dịch
vụ hỗ trợ cai nghiện; hỗ trợ trong việc phối hợp soạn thảo các VBPL về ma tuý,
xúc tiến sự hợp tác quốc tế trong kiểm soát ma tuý.
- Tổ chức Y tế thế giới (WHO). WHO đã và đang hỗ trợ trong lĩnh vực dịch tễ
học HIV/BLTQĐTD và lồng ghép vào chương trình Quốc gia phòng chống
HIV/AIDS. WHO cũng cấp kinh phí cho các hội thảo, học bổng và các đoàn khảo
sát cho những người đang hoạt động trong lĩnh vực PC AIDS
- Quĩ hỗ trợ Nhi đồng Quốc tế (UNICEF). UNICEF đang hỗ trợ triển khai Dự
án “Sức khoẻ thanh niên và phát triển và dự phòng HIV/AIDS ”. Đây là một phần
của Dự án khu vực sông Mekong, phối hợp với Bộ GD& ĐT và Hội chữ thập đỏ
VN, tập trung vào đối tượng trẻ em và thanh thiếu niên 10- 18 tuổi. Dự án nhằm
giảm số mới mắc do lây truyền HIV bằng cách phát triển và đưa ra chương trình về
Kỹ năng sống cho các em trong và ngoài trường học.
- Quĩ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA). UNFPA tiến hành lồng ghép các tài
liệu về HIV/AIDS vào trong các chương trình TT-GD-TT của mình cũng như
chương trình đào tạo cán bộ y tế các cấp tại 8 tỉnh trọng điểm. UNFPA tiến hành
hỗ trợ chương trình chăm sóc sức khoẻ, bao gồm HIV/AIDS. UNFPA cũng giúp
Bộ Giáo dục và Đoàn Thanh niên về vấn đề phòng chống HIV/AIDS thông qua dự
án ‘Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên”
- Ngân hàng thế giới (WB). WB đang lập kế hoạch tiến hành nghiên cứu về
tác động kinh tế của dịch HIV/AIDS ở Việt nam và hỗ trợ Chính phủ trong việc
cung cấp và truyền máu an toàn cũng như các hoạt động lồng ghép phòng chống
HIV/AIDS với công tác dân số kế hoạch hoá gia đình ở 38 tỉnh trọng điểm thông
qua 2 dự án do Bộ Y tế và UBQG Dân số thực hiện.
- Chương trình AIDS Toàn cầu (Global AIDS Program - GAP) tại VN: Hỗ trợ
cho Bộ Y tế Việt Nam được tập trung vào các lĩnh vực sau:
+ Các dịch vụ thử máu và tư vấn tình nguyện (VCT):
+ Các chương trình hướng tới cộng đồng cho các nhóm dân cư dễ lây nhiễm.
+ Phòng chống truyền HIV từ mẹ sang con (PMTCT):
+ Các chương trình chăm sóc và điều trị người bị nhiễm HIV/AIDS:
b. Hỗ trợ từ các tổ chức phi Chính phủ quốc tế:
- DKT Quốc tế. DKT thực hiện việc tiếp thị và phân phối bao cao su để thúc
đẩy dự phòng HIV/AIDS và kế hoạch hoá gia đình
- CARE Quốc tế: Tổ chức phòng chống AIDS tại các doanh nghiệp. Huy động
các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội tham gia công tác PC AIDS
- Ngoài ra, chương trình phòng chống AIDS của Việt Nam còn nhận được sự
giúp đỡ về tài chính cũng như kỹ thuật đáng kể từ các tổ chức phi Chính phủ quốc
tế khác như: For Foundation, Population Council, PDI-Asia, Australian Red Cross,
World Vision International, SCF-UK v.v Ngoài các hỗ trợ về công tác phòng
chống AIDS, các tổ chức đã giúp một số học bổng đi học tập và tham quan, hội
nghị ở nước ngoài
c. Hỗ trợ song phương:
- Dự án Hợp tác Kỹ thuật Việt Đức (GTZ). GTZ hỗ trợ Chính phủ Việt nam
dự án “phòng chống HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục” để làm giảm
nguy cơ lan truyền HIV, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và làm giảm tác
động về kinh tế và xã hội của dịch đối với một số tỉnh ở miền bắc VN.
- Quĩ hỗ trợ Úc (ausAID). ausAID hỗ trợ Việt Nam dự án "Nâng cao năng lực
điều phối, lập kế hoạch và quản lý chương trình phòng chống AIDS.
- Những hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ tại Việt Nam trong chương trình phòng
chống AIDS.
Chính phủ Hoa Kỳ có hai chương trình chính, và thông qua đó những hỗ trợ về
tài chính và kỹ thuật được cung cấp cho Việt Nam.
Chương trình thứ nhất được USAID tài trợ thông qua tổ chức Sức khoẻ Gia
đình quốc tế (FHI) và dịch vụ dân số quốc tế (PSI).
FHI đang giúp đỡ phát triển các can thiệp dự phòng HIV tại 4 tỉnh (Quảng
Ninh, Bình Định, Hải Phòng và Cần Thơ) và giám sát hành vi tại 5 tỉnh thí điểm
(Hà nội, Đà nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Cần Thơ).
PSI đang tiến hành chương trình toàn quốc về tiếp thị xã hội bao cao su
Chương trình thứ hai được triển khai thông qua CDC với Dự án Dự phòng
HIV/AIDS tại Việt nam.
1. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID)
Tiền tài trợ năm tài chính 2004: 4.500.000 đô-la
USAIDS/Việt Nam hỗ trợ một chương trình HIV/AIDS có quy mô lớn nhằm
phòng chống và giảm nhẹ tác hại của HIV/AIDS, chăm sóc và giúp đỡ bệnh nhân
HIV/AIDS tại Việt Nam. Chương trình này gồm những dự án sau:
- Dự án IMPACT (Thực hiện Phòng AIDS và Chăm sóc Bệnh nhân AIDS) Toàn
cầu.
- Dự án về chính sách (The Policy Project).
2. Bộ Y tế và Dịch vụ Con người Hoa Kỳ/Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát Bệnh
tật (HHS/CDC)/ Phân ban HIV/ Phòng bệnh/Chương trình Lãnh đạo và Đầu tư
chống lại đại dịch (chương trình LIFE).
Số tiền tài trợ năm tài chính 2004: 2.850.000 đô-la
3. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (DOD)/Chương trình Phòng chống HIV/AIDS/Bộ Tư
lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ (USPACOM)/Trung tâm Đào tạo Nâng cao
Kiểm soát Thảm họa và Trợ giúp Nhân đạo
Tiền tài trợ năm tài chính 2004: 350.000 đô-la
4. Bộ Lao động Hoa Kỳ (USDOL)/Cục Lao động Quốc tế/Chương trình Cải thiện
Môi trường Làm việc Thông qua Giáo dục Phòng chống HIV/AIDS)
Tiền tài trợ năm tài chính 2004: 250.000 đô-la
* Từ năm 1999 đến năm 2011, các tổ chức Quốc tế đã hỗ trợ 134,6 triệu USD
để giúp VN chủ động hơn trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS.
Bộ Y tế đã quản lý 29 dự án HIV/AIDS, trong đó có 16 dự án đã kết thúc, với
tổng kinh phí 5,6 triệu USD và 13 dự án tiếp tục được triến khai đến năm 2011 với
tổng kinh phí khoảng 97,3 triệu USD. Các dự án này tập trung vào 9 chương trình
hành động trong Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020.
Bên cạnh đó, các dự án nước ngoài còn hỗ trợ trực tiếp trên 20 dự án về phòng,
chống HIV/AIDS cho các địa phương với kinh phí trên 6,1 triệu USD.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tỷ lệ giải ngân của các dự án HIV đạt hiệu
quả khá cao ( trên 80% ) và tuân thủ đúng quy định quản lý tài chính và nội dung
cam kết.
Tuy nhiên các dự án quốc tế hỗ trợ phòng chống HIV trong thời gian qua chỉ
tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Quảng Ninh, Hải Phòng trong khi còn tới 13 tỉnh, thành phố "trống" không có các
dự án đầu tư
* Nguyên nhân của những thành công trên.
- Có sự nhận thức sâu sắc, đúng đắn về tác hại và nguy cơ của đại dịch
HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, tương lai nòi giống là cực kì to
lớn và không thể lường trước được của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
- Có sự cam kết, thực hiện về Chính sách, Pháp luật và sự hỗ trợ về kinh phí kịp
thời của Nhà nước trong công tác phòng chống HIV/AIDS.
- Có sự hợp tác, giúp đỡ thiết thực và có hiệu quả của quốc tế, đặc biệt là
Chương trình Phòng chống AIDS của Liên Hiệp quốc (UNAIDS).
Chương trình có sự tham gia trực tiếp của phần lớn các bộ, ngành, và các đoàn
thể xã hội vào công tác phòng chống AIDS.
B. Những hạn chế trong công tác thực hiện chương trình phòng
chống quốc gia HIV/AIDS.
1. Bộ máy tổ chức phòng, chống AIDS các cấp cồng kềnh, kém hiệu quả và
còn rất yếu so với bộ máy phòng chống nhiều căn bệnh khác (lao, phong, sốt
rét )
- Cơ cấu tổ chức của chương trình quốc gia phòng, chống AIDS chỉ tập trung
vào hệ thống của Chính phủ.
Sự hợp nhất UBQG Phòng, chống AIDS với các UB phòng, chống ma tuý và
mại dâm thành UBQG Phòng chống AIDS - Ma tuý - Mại dâm dường như là cơ
hội để tăng cường sự phối hợp liên ngành.Tuy nhiên, sự phối hợp này còn rất lỏng
lẻo, thể hiện ở sự thiếu đồng bộ trong một số chính sách có liên quan đến
HIV/AIDS như chính sách về giảm tác hại trong các nhóm có hành vi nguy cơ.
Chỉ riêng trong Bộ Y tế đã tồn tại song song 2 cơ quan có cùng chức năng
phòng, chống AIDS là Ban phòng, chống AIDS và Văn phòng thường trực phòng,
chống AIDS; sức mạnh trong chỉ đạo triển khai các hoạt động từ trung ương đến
địa phương vì vậy chưa thể tập trung.
- Ở địa phương, bộ máy phòng, chống AIDS chưa có mô hình, thống nhất; hầu
hết cán bộ chuyên trách đều làm kiêm nhiệm và chưa có chức danh cụ thể để trực
tiếp chịu trách nhiệm quản lý và điều hành. Cán bộ tham gia phòng chống căn bệnh
này thường xem đây là công việc làm thuê, không phải là một ngành nghề chuyên
nghiệp, ổn định và lâu dài. Bên cạnh đó, đòi hỏi cả về chuyên môn y tế và kỹ năng
hoạt động xã hội thường khiến người tham gia nhụt chí; tổ chức phòng chống
AIDS thường không đủ.
- Việc thay đổi liên tục về mô hình tổ chức phòng, chống HIV/AIDS tại tuyến
TW thể hiện sự tăng cường quản lý Nhà nước đối với công tác này nhưng cũng
làm nhiều nơi lúng túng không chuyển đổi kịp dẫn đến hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS những nơi này bị ngưng trệ.
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Mô hình Bộ máy tổ chức phòng, chống HIV/AIDS chưa hoàn thiện, thống
nhất. Thiếu phương tiện vật chất kỹ thuật, nhân lực tham gia.
- Hệ thống tổ chức cơ quan chuyên trách phòng, chống HIV/AIDS từ Trung
ương đến địa phương trong cả nước còn lỏng lẻo, tạm thời.
- Sự chỉ đạo giữa UBQG phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý,
mại dâm với Cục phòng, chống HIV/AIDS thông qua Bộ Y tế chưa được thắt chặt
2. Thiếu sự phối hợp liên ngành trong công tác phòng chống HIV/AISD từ
1990-2005. Sự phối hợp liên ngành trong phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta
còn mang tính vụ việc, nhỏ lẻ, chưa mang tính đa ngành do thiếu một kế
hoạch tổng thể.
Công tác phối hợp liên ngành trong phòng chống HIV/AIDS mới chỉ dừng ở
chủ trương, quan điểm chỉ đạo, còn thiếu đầu tư kinh phí và xác định cơ chế tổ
chức thực hiện. Việc phân công, phân nhiệm cho từng thành viên khi tham gia vào
hoạt động phòng, chống HIV/AIDS còn thiếu cụ thể, rõ ràng. Chỉ thị 52-CT/TW
mặc dù đã sớm được ra đời song còn thiếu sự sát sao trong chỉ đạo thực hiện và
giám sát đánh giá. Vì vậy, cho dù đã có 12 năm triển khai thực hiện song đến nay
hoạt động phối hợp liên ngành trong phòng, chống AIDS ở một số địa phương,
một số ngành vẫn còn chưa được thực hiện, những nơi đã thực hiện thì chưa đạt
được kết quả như mong muốn. Đó là:
- Hiện nay, trong cả nước chưa có một cơ cấu tổ chức thống nhất cho bộ phận
thường trực phòng, chống AIDS cấp tỉnh.
Văn phòng Phòng, chống HIV/AIDS có thể là một bộ phận riêng trực thuộc Sở
Y tế hoặc đặt trong một phòng của Sở hoặc gắn với khoa AIDS của Trung tâm y tế
dự phòng. Sự không đồng nhất về mô hình tổ chức của bộ phận này đã phần nào
làm hạn chế việc phát huy hiệu quả của việc phối hợp liên ngành.
- Sự điều phối và phối hợp giữa Văn phòng thường trực phòng, chống
HIV/AIDS và Ban AIDS của Bộ Y tế chưa được thiết lập một cách hoàn hảo, gây
lúng túng trong quá trình thực hiện chương trình ở các địa phương. Hoạt động liên
ngành mới chỉ được thực hiện ở các Ngành, các đoàn thể, tổ chức xã hội, chưa huy
động được sự tham gia của các tổ chức tư nhân trong nước và của cộng đồng. Đặc
biệt hiện còn thiếu cơ chế để huy động sự tham gia của các cơ sở y tế tư nhân vào
chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
- Phối hợp liên ngành trong phòng, chống HIV/AIDS ở tuyến cơ sở được thể
hiện rõ nét hơn so với tuyến tỉnh, nhất là so với tuyến TW.
Tại tuyến trung ương, các thành viên rất ít có sự bàn bạc, phối hợp trong lập kế
hoạch cũng như triển khai chỉ đạo thực hiện. Các hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS dường như còn bị khép kín trong từng ngành, từng đoàn thể, từng tổ
chức tại tuyến cao nhất này.
- Thiếu kinh phí hoạt động, thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực và có tâm huyết,
thiếu tài liệu và phương tiện, thiếu hoạt động giám sát, kiểm tra, đánh giá hiệu quả
của sự phối hợp liên ngành trong phòng, chống HIV/AIDS.
Ở hầu hết các Bộ, Ngành, đoàn thể và các địa phương, hoạt động phối hợp liên
ngành trong phòng, chống HIV/AIDS chủ yếu do các ngành thành viên tự xây
dựng kế hoạch, tự triển khai hoạt động sau khi có kinh phí phân bổ và tự báo cáo
kết quả. Việc giám sát lẫn nhau giữa các bên, giữa Bộ chủ quản với các đơn vị trực
thuộc cũng như giữa UB phòng, chống AIDS và phòng, chống TNXH ma tuý, mại
dâm với các thành viên chưa được quan tâm thực hiện.
- Phối hợp liên ngành trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ thể hiện trong lĩnh
vực truyền thông tại tuyến cơ sở xã/phường, chưa quan tâm nhiều đến việc quản lý,
chăm sóc và tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng.
Ở nhiều địa phương hiện nay mảng công việc này chủ yếu vẫn chỉ do ngành y
tế đảm nhận. Trong xu hướng gia tăng của đại dịch, số người nhiễm HIV trong
cộng đồng sẽ ngày càng nhiều, chắc chắn sẽ vượt quá khả năng đáp ứng của y tế cơ
sở. Huy động sự tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động quản lý, chăm
sóc, tư vấn cho người có HIV/AIDS vì vậy sẽ là rất cần thiết. Nếu không giải quyết
tốt vấn đề này sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội do những người bị nhiễm
HIV không được chăm sóc, điều trị, bị kỳ thị phân biệt đối xử sẽ tập hợp thành một
lực lượng xã hội với những phản ứng tiêu cực.
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Công tác phòng, chống HIV/AIDS chưa được xây dựng thành chương trình
phối hợp liên ngành.
- Cơ sở pháp lý cho hoạt động liên ngành ph òng chống HIV/AIDS chưa hoàn
thiện. Việc ban hành các văn bản chỉ đạo cụ thể cơ chế, cách thức phối hợp cũng
như xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của mỗi lực lượng xã hội khi tham gia, đặc
biệt là sự cam kết đầu tư nguồn lực chưa thống nhất.
3. Nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo và Sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền ở một số địa phương chưa thật sự được chú trọng.
- Một bộ phận không nhỏ đội ngũ lãnh đạo ở các cấp cơ sở chưa nhận thức
đúng và đầy đủ về HIV/AIDS, coi đó là một loại tệ nạn xã hội và việc phòng,
chống HIV/AIDS là việc riêng ngành y tế, chưa thấy được là trách nhiệm chung
của toàn xã hội và phối hợp liên ngành đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp.
Chẳng hạn như An Giang là một tỉnh đông dân, 2 triệu dân, trong đó có khoảng
2000 hộ nghèo. Hàng năm An Giang giảm được 1% hộ nghèo tương đương với
600 hộ. Nhưng cũng thời gian đó lại có lại có thêm 1000 đến 1500 người nhiễm
HIV/AIDS mới. Như vậy rõ ràng những gia đình có người nhiễm HIV/AIDS đó sẽ
là những người nghèo. Vậy bao giờ An Giang thành công trong xóa đói giảm
nghèo nếu không đặt vấn đề phòng, chống HIV/AIDS với công tác xóa đói giảm
nghèo và phát triển kinh tế - xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và chính
quyền.
- Còn nhiều sự bất cập trong công tác lập kế hoạch hoạt động cho chương trình
quốc gia phòng chống HIV/AIDS.
Việc lập kế hoạch cho chương trình từ cấp tỉnh trở xuống là theo cách “từ trên
đưa xuống”, hạn chế sự chủ động và sáng tạo của các cấp dưới.
Tại nhiều Ban, Ngành thành viên cũng như ở nhiều địa phương, việc lập kế
hoạch hoạt động phòng, chống AIDS còn mang tính hình thức, không có sự trao
đổi, thảo luận giữa các thành viên.
Khá nhiều địa phương chưa thực sự coi trọng công tác này, giao phó toàn bộ
cho ngành Y tế đảm nhận việc phân công, tổ chức thực hiện sự tham gia liên ngành
trên địa bàn, vẫn còn nhiều lực lượng xã hội coi hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS của đơn vị mình là làm theo Hợp đồng đặt hàng của ngành y tế nên có
tiền thì hoạt động, không có tiền thì thôi và chỉ hoạt động trong phạm vi kinh phí
được phân bổ, hoạt động để quyết toán cho xong
- Các cấp Uỷ, Đảng, Chính quyền chưa phát huy được vai trò của mình trong
lãnh đạo và chỉ đạo công tác phối hợp liên ngành phòng, chống HIV/AIDS tại mỗi
địa phương.
Lãnh đạo của một số địa phương cũng tự cho phép mình đứng ngoài cuộc, chưa
nhận thức được tầm quan trọng của Chương trình phòng, chống HIV/AIDS đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và cũng chưa nhận rõ trách nhiệm của
mình đối với lĩnh vực này.
Thực tế cho thấy, công tác phối hợp liên ngành phòng, chống HIV/AIDS tại
mỗi địa phương đóng vai trò hết sức quan trọng và đã có sự chỉ đạo thống nhất của
Đảng và Chính phủ về thực hiện chủ trương này song chỉ khi nào lãnh đạo địa
phương thực sự vào cuộc thì khi đó hoạt động phối hợp liên ngành mới có hiệu
quả. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế hiệu quả hoạt động
của phối hợp liên ngành phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian qua ở nước ta.
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Nhận thức, trách nhiệm, sự chỉ đạo của các cấp còn hạn chế.
- Thiếu sự theo dõi, kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cấp, đặc biệt là cơ
chế giám sát, đánh giá liên ngành đối với hoạt động phòng chống HIV/AIDS của
các thành viên.
4. Nhân lực chuyên môn: Thiếu và yếu. Chế độ chính sách cho cán bộ Y
tế trực tiếp chăm sóc, hỗ trợ, điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS còn
nhiều bất cập,
So với nhu cầu ngày càng tăng của hoạt động chăm sóc, điều trị và hỗ trợ
ngưòi nhiễm HIV/AIDS thì nhân lực tham gia vào hệ thống phòng, chống
HIV/AIDS còn thiếu cả về số lượng và hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước hầu
như không có cán bộ chuyên trách ở cấp địa phương từ tỉnh trở xuống. Điều này
làm hạn chế việc thực thi chương trình một cách mạnh mẽ, sâu sắc. Cụ thể:
* Hệ thống chăm sóc điều trị HIV/AIDS nước ta còn yếu.
- Hiện cả nước có 03 cơ sở điều trị ở tuyến trung ương gồm: Viện các
bệnh truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc gia, Bệnh viện đa khoa Trung ương Huế và
Bệnh viện nhiệt đới TP Hồ Chí Minh.
- Ở tuyến tỉnh, tiểu ban điều trị được thành lập trên cơ sở khoa truyền nhiễm
bệnh viện đa khoa tỉnh trực thuộc Ban phòng chống HIV/AIDS hoặc Văn phòng
thường trực HIV/AIDS.
- Ở tuyến huyện là bệnh viện huyện và ở tuyến xã là các trạm y tế xã…
Tuy nhiên, Ngoài các địa phương có triển khai Phòng khám ngoại trú, có
chương trình dự án thì hoạt động tương đối hiệu quả, còn lại đều tỏ ra rất lúng túng
và nhiều yếu điểm. Đặc biệt là hầu hết các cơ sở tuyến huyện chưa đủ điều kiện cả
về nhân lực và cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc men…để có thể sẵn sàng tiếp
nhận, chăm sóc và điều trị lâu dài cho người nhiễm HIV/AIDS.
- Những cán bộ y tế cấp cao làm công tác y tế công cộng thì chưa được đào tạo
nghiệp vụ và chưa gần gũi người bệnh. Các bác sĩ điều trị thì tuy có bằng cấp
chuyên môn nhưng chưa được tập huấn về nghiệp vụ tư vấn, về xã hội học hay tâm
lý học.
- Cả nước hiện có 84 trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - LĐXH thường xuyên
tiếp nhận, cai nghiện, chữa trị cho 45 – 50 nghìn người trong đó có khoảng 18 – 20
nghìn người nhiễm HIV, trong khi đội ngũ cán bộ trung tâm vừa thiếu về số lượng,
yếu về chuyên môn nghiệp vụ phòng chống HIV/AIDS.
+ Về số lượng, số bệnh nhân AIDS liên tục tăng khiến nhu cầu chăm sóc, phục
vụ tại các trung tâm cũng tăng. Đặc biệt, khi bệnh nặng phải chuyển lên các bệnh
viện để điều trị thì mỗi bệnh nhân phải cần từ 1- 2 cán bộ thay nhau quản lý, chăm
sóc ( Bình quân 1 bệnh nhân AIDS phải nằm viện 1 tháng/ năm), bệnh nhân điều
trị thuốc kháng HIV (ARV), điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội hàng quý phải
có cán bộ đưa đi làm xét nghiệm. Trong khi đó, các trung tâm không được tăng
thêm về biên chế nên gây rất nhiều khó khăn cho cơ sở.
+ Về chất lượng, phần lớn cán bộ trung tâm chưa được tập huấn về công tác
phòng chống AIDS, cán bộ y tế chưa được đào tạo chuyên sâu về điều trị, chăm
sóc bệnh nhân HIV/AIDS trong khi đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ cho công tác điều trị chưa đáp ứng được yêu cầu…
- Trên thực tế, bệnh nhân HIV/AIDS vào điều trị nội trú tại các bệnh viện vẫn
được thu dung vào điều trị và sử dụng các giường bệnh của Khoa truyền nhiễm của
các bệnh viện. Hiện vẫn chưa có quy định về số giường để điều trị cho bệnh nhân
HIV/AIDS tại các bệnh viện cũng như kinh phí cho các giường bệnh này.
Tại Viện Các bệnh truyền nhiễm và Nhiệt đới quốc gia, với số lượng 12 giường
bệnh (dành riêng cho bệnh nhân HIV/AIDS) nhưng hằng năm Viện phải tiếp nhận
và điều trị nội trú cho hàng trăm trường hợp nhiễm HIV/AIDS có biểu hiện nhiễm
trùng cơ hội nặng và nguy kịch như viêm não, lao màng não, nấm da, lao màng
tim, suy kiệt nặng Chăm sóc và điều trị cho những bệnh nhân AIDS giai đoạn
cuối này không phải BS, y tá nào cũng dám làm
Các phòng khám ngoại trú chủ yếu được thành lập dựa trên sự tài trợ của các
chương trình dự án như: Life-Gap, Pepfar, Quỹ toàn cầu…
- Ở các địa phương không có chương trình dự án thì việc triển khai công
tác chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân HIV vẫn chủ yếu dựa trên cơ sở bệnh viện đa
khoa tỉnh, chưa có các quy định về tổ chức, nhân sự, kinh phí…của các phòng
khám ngoại trú cho chăm sóc, điều trị và hỗ trợ người nhiễm. Và hiện mới chỉ có
30% bệnh nhân AIDS (khoảng trên 10.000 người) tiếp cận được với thuốc kháng
HIV (ARV).
Đa số bệnh nhân là người nghèo, không nơi nương tựa. Chế độ Bảo hiểm Y tế,
viện phí cho chăm sóc và điều trị, khả năng tiếp cận các dịch vụ Y tế của người
nhiễm còn rất thấp, ngoại trừ một số dự án có tài trợ. Tại Việt Nam, bệnh nhân
HIV/AIDS mua thuốc trên thị trường chợ đen hoặc chỉ uống khi họ có đủ khả
năng chi trả, ngừng uống khi hết tiền và uống lại khi có tiền!
* Công tác tư vấn chưa được quan tâm đúng mức.
- Đội ngũ làm y tế công cộng chưa được đề cao đúng mức và thiếu kinh nghiệm
tư vấn. Nhiều người cho rằng, công tác tư vấn phải gắn với các bác sĩ, y tá chứ
không phải người làm công tác y tế công cộng hoặc nếu cần, bệnh nhân có thể đến
bệnh viện để được tư vấn miễn phí nhưng thường thì buổi tư vấn chỉ rất ngắn và sơ
sài.
- Hiện nay, nhiều tổ chức phi chính phủ làm công tác tư vấn rất tốt nhưng ít
người bệnh biết để tìm đến. Mối liên kết giữa các tổ chức cũng rất lỏng lẻo. Luật
chưa có chế độ riêng cho người làm công tác tư vấn miễn phí.
- Hiện chúng ta chưa có một đội ngũ tư vấn ở cộng đồng để làm chi tiết như lên
lịch uống thuốc, lên lịch khám chữa bệnh, tìm hiểu tác dụng phụ của việc điều trị.
Bởi thuốc điều trị HIV/AIDS phải kiên trì dùng cả đời. Những người bị nhiễm
HIV, khi bị sốt, sẵn sàng ra hiệu thuốc mua kháng sinh và uống theo hướng dẫn
của bà bán thuốc hơn là theo đơn của bác sĩ. Rõ ràng việc tư vấn ở VN đang bị ảnh
hưởng bởi yếu tố tâm lý
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Nhân sự phòng chống HIV/AIDS không ổn định, chủ yếu là kiêm nhiệm,
không có hoặc có rất ít người làm chuyên trách.
- Việc thuyên chuyển cán bộ, nhất là những cán bộ đã được đào tạo về phòng
chống HIV/AIDS cũng là một nguyên nhân của tình trạng thiếu nhân lực chuyên
môn cho hoạt động chăm sóc, điều trị và hỗ trợ người nhiễm HIV.
- Bên cạnh đó, cũng do tâm lý của một bộ phận cán bộ y tế không thích làm
việc trong môi trường HIV/AIDS vì nguy cơ lây nhiễm cao trong khi chế độ chính
sách còn chưa thoả đáng.
- Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông đã không làm được việc cung cấp
các địa chỉ tư vấn cho bệnh nhân. Những người nhiễm HIV hiện nay chưa có điều
kiện để tiếp cận với chương trình điều trị, bản thân họ cũng chưa có đủ thông tin về
các điểm cung cấp dịch vụ và sợ bị kỳ thị phân biệt đối xử nên không lộ diện công
khai để tiếp cận với các dịch vụ sẵn có.
5. Hiệu quả phòng, chống HIV/AIDS còn hạn chế vì nhận thức. Tình trạng
kì thị, phân biệt đối xử vẫn tồn tại khá nhiều trong dân cư.
Nhận thức của người dân về HIV/AIDS và sự tham gia của người dân vào
công tác phòng chống HIV/AIDS còn hạn chế. Sự xa lánh, kì thị, phân biệt đối xử
đối với những người nhiễm bệnh còn tồn tại khá nhiều trong bộ phận lớn dân cư.
Qua khảo sát về sự hiểu biết của người dân về con đường dây lây nhiễm
HIV/AIDS cho thấy vẫn còn nhiều người có sai lầm trong nhận thức:
- 32,8% cho rằng người nhiễm HIV nhìn bề ngoài ốm yếu
- Chỉ có 41,8% số người trả lời đúng là HIV không lây nhiễm do muỗi đốt và
không lây khi dùng chung với người đã bị nhiễm HIV.
Dịch HIV/AIDS gắn liền với các TNXH đặc biệt là ma túy, mại dâm đã làm
tăng sự phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử
đã tác động trực tiếp và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tinh thần và vật chất
của bản thân người nhiễm và gia đình họ, đồng thời cũng làm hạn chế đến công tác
quản lý, dự phòng và chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS.
Kì thị và phân biệt đối xử hiện hữu ở nhiều nơi, dưới nhiều hình thức, xuất phát
từ tình trạng thiếu thông tin, thiếu hiểu biết và sự sợ hãi. Chính tình trạng này đã
cản trở việc những người sống với HIV tiếp cận với các dịch vụ y tế, chật vật trong
công cuộc mưu sinh và khó khăn để tham gia các tổ chức của những người sống
với HIV. Gánh nặng này càng lớn hơn đối với những người ở các nhóm bị xã hội
bỏ rơi. Tình trạng người sống với HIV bị gia đình hắt hủi, bạn bè cự tuyệt, cộng
đồng xa lánh; bị phân biệt đối xử ở các cơ sở y tế, tại nơi làm việc và ở trường học
là những hiện tượng phổ biến.
Sự kỳ thị và phân biệt đối xử khiến những người có HIV không dám bộc lộ thân
phận, không thể áp dụng các biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV cho người thân
của mình khiến cho HIV/AIDS tiếp tục lây lan trong cộng đồng.
Có thể nói, kỳ thị và phân biệt đối xử chính là rào cản làm giảm đi hiệu quả của
những nỗ lực trong công tác phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta.
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Pháp luật chưa có những quy định cụ thể về trách nhiệm của các đối tượng
liên quan về chống sự kỳ thị, phân biệt đối xử với những người nhiễm HIV/AIDS.
- Công tác giáo dục, truyền thông chưa đáp ứng được yêu cầu.
6. Công tác truyền thông, giáo dục còn hạn chế: “Lệch đường ray”.
Thứ nhất, công tác giáo dục truyền thông chưa đến được với nhiều đối tượng
quan trọng, trong đó có các cán bộ chủ chốt các cấp chưa nhận thức được đầy đủ
công tác phòng, chống HIV/AIDS, chưa thấy được trách nhiệm, tình cảm của mình
để thực hiện tốt công tác này.
Thứ hai, là công tác truyền thông giáo dục chưa đến được và ít có dịp tiếp xúc
với những đối tượng có nguy cơ cao như gái mại dâm, lái xe đường dài, người tiêm
chích ma túy.
Thứ ba, Truyền thông đã không làm được việc cung cấp các địa chỉ tư vấn cho
bệnh nhân.
Thứ tư, Trong thời gian dài vừa qua, thông điệp và hình thức truyền thông về
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên còn mang tính chung nhất, chưa tác động lớn
tới nhận thức về HIV/AIDS.
Thứ năm, Nội dung, biện pháp của Công tác giáo dục, truyền thông về
HIV/AIDS trong thời gian qua vẫn nặng tính “hù dọa” hơn là giải thích, điều này
chỉ đẩy thêm sợ hãi và tăng thêm sự kỳ thị và tỷ lệ nhiễm bệnh.
- Qua các kênh thông tin, những chương trình truyền thông về HIV/AIDS
thường đưa ra các tiểu phẩm, hình ảnh, pano, áp phích tờ rơi tuyên truyền rùng
rợn như đầu lâu xương chéo, quả cầu gai hay những thân hình người gầy guộc, tiều
tụy về căn bệnh thế kỷ. Những hình ảnh này tuy giúp người dân cảnh giác với
HIV và nhận biết sự nguy hiểm của mại dâm ma túy. Nhưng thật sự chưa làm thay
đổi hành vi cũng như động viên cộng đồng trong toàn xã hội tham gia tích cực vào
việc phòng, chống HIV/AIDS.
- Ở VN thời gian qua, có thể nói truyền thông và HIV/AIDS đã đi lệch đường
ray vì đã gắn HIV/AIDS với TNXH bằng nhiều hình thức. Trong nhiều bức tranh,
những chữ ma túy, mại dâm và HIV/AIDS thường đi liền nhau, ngụ ý những hiện
tượng này là bạn đồng hành và HIV cũng là tệ nạn. Không ít người từ lớn tuổi đến
những trẻ em ở tiểu học đều thuộc lòng câu “ma túy, mại dâm là mầm sida”. Ma
túy, mại dâm là hai đối tượng trong nhóm TNXH đã, đang lên án. Đây lại là cội
nguồn của sự lây nhiễm, từ một cách suy luận phổ thông nhất vẫn hiểu người có
HIV/AIDS đều bước ra từ tệ nạn.
Câu khẩu ngữ đã bắt người đọc đánh đồng nạn nhân và tệ nạn là một.
Thực tế, có nhiều bệnh nhân nhiễm HIV còn khỏe mạnh vẫn có thể đóng góp
nhiều cho cộng đồng. Thế nhưng, công tác thông tin, giáo dục, truyền thông
thường hay tập trung miêu tả phần đen tối nhất trong cuộc sống của họ, chủ yếu đi
sâu về họ ở giai đoạn AIDS mà quên đi những điều họ đã làm và đóng góp cho xã
hội, quên mất đi hình ảnh những người nhiễm HIV còn có nhiều khả năng kéo dài
sự sống, sống khỏe mạnh để làm việc và cống hiến. Điều này khiến cộng đồng ngộ
nhận người có nhiễm HIV/AIDS là vô dụng. Vô hình dung tạo ra trong tiềm thức
mọi người sự né tránh “con ếch” với một tâm lý ghê sợ, làm tăng sự kỳ thị với
người mắc bệnh, vô tình làm suy yếu những cố gắng tốt đẹp của chương trình
phòng chống HIV/AIDS nhằm làm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người có
HIV. Đây cũng là rào cản khá lớn của việc phòng chống HIV/AIDS trong thời
điểm hiện tại.
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Do nhận thức và tâm lý xã hội hạn chế của người dân.
- Các ngành chức năng chưa coi trọng công tác giáo dục, truyền thông.
- Kinh phí dành cho công tác giáo dục, truyền thông thấp.
- Nhận thức của những người làm công tác này về HIV/AIDS còn sai lệch.
7. Mức đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác phòng chống
HIV/AIDS. Hiệu quả đầu tư chưa cao, còn bất hợp lý.
Kinh phí hoạt động của Chương trình phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam tuy
đã có sự gia tăng rất đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn chỉ ở mức
0,8-1,2USD/người/năm, còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu của chương trình và so
với mức đầu tư cho phòng chống HIV/AIDS được UNAIDS khuyến cáo là 4
USD/người/năm.
Ngân sách cho Chương trình Quốc gia một mặt hạn chế, chưa đáp ứng được
thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân AIDS. Trong năm 2003 chỉ có 160 bệnh
nhân AIDS được điều trị thuốc đặc hiệu trong tổng số 11.659 bệnh nhân AIDS.
Mặt khác, do phải bao phủ nhiều nội dung, phải đảm bảo các chỉ tiêu pháp lệnh
như truyền máu, giám sát, phòng chống HIV/AIDS tuyến xã phường, kinh phí
được phân bổ theo phương thức bình quân đã ảnh hưởng không nhỏ tới công tác
phòng chống HIV/AIDS, làm cho các hoạt động của chương trình có tính chất rải
đều và không đủ để có hiệu quả.
* Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Cơ chế phân bổ kinh phí của Chương trình còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi tính
tập trung, quan liêu và áp đặt. Khi phân bổ kinh phí, không xét đến nhu cầu thực tế
của các địa phương, các ngành.
- Cơ cấu kinh phí còn bất hợp lý, không chú trọng đầu tư cho sự phát triển bền