Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.15 KB, 5 trang )

TƯ TƯởNG Hồ CHí MINH Về ĐạO ĐứC, NHÂN CáCH NGƯờI CáN Bộ
QUÂN Sự
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và vũ khí, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bao giờ cũng nhấn mạnh nhân tố con người giữ vai trị quyết định. Trong đó,
Người rất quan tâm đến đội ngũ cán bộ, vì theo Người, cán bộ là gốc của mọi công
việc. “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Tốt hoặc kém
ở đây bao gồm cả 2 mặt đức và tài của người cán bộ, trong đó Người xem đức là gốc,
là nhân tố quyết định sự khác biệt về bản chất của quân đội cách mạng so với quân
đội của giai cấp bóc lột. Vấn đề đạo đức, nhân cách của người cán bộ quân đội nói
chung, cán bộ quân sự nói riêng, cũng chính là một nội dung quan trọng gắn liền với
xây dựng quân đội luôn vững mạnh về chính trị. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dành nhiều công sức bồi dưỡng đạo đức và nhân cách cho đội ngũ cán bộ quân đội và
chính đạo đức, nhân cách của Người là một tấm gương ngời sáng cho toàn Đảng, toàn
quân và dân ta noi theo.
Đã có nhiều cách tiếp cận về đạo đức, nhân cách người cán bộ quân sự theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bài viết này tiếp cận vấn đề ở bốn mối quan hệ cơ bản:
- Trước hết là quan hệ đối với Đảng, với nước, với dân - nhân tố quyết định bản
chất cách mạng của người cán bộ quân sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn
mạnh yêu cầu hàng đầu đối với người cán bộ quân sự là phải tuyệt đối trung thành
với Đảng, với nước và hiếu với dân. Trong lời phát biểu tại lễ tốt nghiệp khố học thứ
tư trường Qn chính Việt Nam (l0.1945) Người yêu cầu: đã là cán bộ thì phải
“Trung thành với mục đích cách mạng: giữ cho nước nhà được độc lập nịi giống
được tự do”. Đó chính là cái định hướng chính trị, là mục tiêu chiến đấu mà mọi cán
bộ qn đội phải nắm vững, vì nếu khơng sẽ mất phương hướng hành động. Tháng
5.1946, khi đến thăm Trường võ bị Trần Quốc Tuấn, Người tặng nhà trường lá cờ
thêu 6 chữ vàng “Trung với nước, hiếu với dân” và căn dặn “Mong rằng anh em ở
đây bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em:
"Trung với nước, hiếu với dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: trung với nước là
trung thành với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, vì rằng: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
đem lại độc lập tự do thật sự cho dân tộc; đồng thời, “trung” với nước không tách rời


“trung” với Đảng, bởi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và
xây dựng quân đội ta đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong buổi nói
chuyện tại Hội nghị quân sự lần thứ năm (8.1948), khi nói về nhiệm vụ của người
tướng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích “Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng”. Đây chính là sự gắn kết hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ quân đội
của Người, là sự khái quát chính xác về sự thống nhất bản chất giai cấp công nhân
với tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc của quân đội ta. Nhận thức đúng vấn đề này


trong giai đoạn hiện nay có một ý nghĩa rất quan trọng, khi mà chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hồ bình”, thúc đẩy mưu đồ
“phi chính trị hóa” qn đội ta. Nói đến sự trung thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu phải thể hiện ra ở việc phấn đấu thực hiện thắng lợi chức trách, nhiệm vụ của mỗi
người, mà trước hết là phải hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ chiến đấu, dám đánh và biết
đánh thắng quân thù. Hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi sự trung với nước,
trung với Đảng của người cán bộ qn sự nói riêng, tồn thể qn đội nói chung phải
gắn liền với sự tận “hiếu với dân”, vì theo Người: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ
của bộ đội”. Do đó, Người địi hỏi “Cán bộ phải dạy cho đội viên biết kính trọng dân,
thương yêu dân, giúp đỡ dân”. Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, những
phẩm chất đạo đức hàng đầu đó của người cán bộ phải được tiếp tục gìn giữ, phát huy
trong công tác đào tạo và tự đào tạo, rèn luyện của mỗi người cán bộ quân sự hôm
nay.
Thứ hai là đối với đồng chí, đồng đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến giữ gìn sự đồn kết.
Người căn dặn: “Đoàn kết là sức mạnh nhất của ta. Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán
bộ và chiến sỹ”. Sự đồn kết đó bắt nguồn từ sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu và lợi ích căn bản của cán bộ, chiến sỹ là “tranh lại độc lập tự do cho Tổ
quốc”. Để có được sự đồn kết thực sự, Người đòi hỏi cán bộ phải thương yêu cấp
dưới, phải đồng cam cộng khổ với họ. Đó chính là cơ sở để trên, dưới đồng lịng vượt

qua mọi trở ngại, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Người căn dặn: “Cán bộ có
thân đội viên như chân tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt. Có như thế thì
chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch cấp trên đưa xuống, đội viên sẽ tích cực và triệt để thi
hành”. Muốn thế, “Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc
đời sống vật chất và tinh thần của đội viên”. Trong mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khơng quên nhắc nhở đội ngũ cán bộ quân sự nêu cao tinh thần quốc tế vơ sản,
vì qn đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân. Người căn dặn: giúp nhân dân
nước bạn tức là mình tự giúp mình, do đó phải “Nêu cao tinh thần quốc tế, tơn trọng
chủ quyền, tơn trọng phong tục tập qn, kính yêu nhân dân nước bạn”. Có thể nói,
những lời căn dặn chí tình ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là bí quyết để người
cán bộ chỉ huy đơn vị mình hồn thành nhiệm vụ; là cẩm nang để mọi cán bộ soi
chiếu, rèn luyện và hành động cho xứng đáng là người cán bộ của một đội quân cách
mạng.
- Thứ ba là đối với bản thân, Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi người cán bộ phải
chăm chỉ rèn luyện để thực sự là tấm gương sáng về mọi mặt cho cấp dưới noi theo;
bởi nêu gương là một hoạt động đặc biệt của người cán bộ trong qn đội cách mạng,
là mệnh lệnh khơng lời có sức cảm hoá to lớn để cấp dưới mang hết tinh thần và trách
nhiệm, khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm vụ. Người căn dặn: “Giữ gìn kỷ luật
học tập kỹ thuật, luyện quân lập công, xung phong hãm trận, thân ái đồn kết, nói
tóm lại, mỗi việc trong bộ đội , cán bộ đều phải làm gương” . Để là tấm gương sáng


cho cấp dưới noi theo, Người yêu cầu người cán bộ qn sự phải có chữ tín, tức là
“phải làm cho người ta tin mình”, nhưng khơng tự kiêu, khơng có cái bệnh “Làm
quan cách mạng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm thấy căn bệnh của những người
có chức có quyền, nên đặc biệt quan tâm đến 4 đức tính phải có của người cán bộ
cách mạng là “cần, kiệm, liêm, chính”. Người địi hỏi cán bộ phải làm việc cho hết
chức trách, không ỷ lại, dựa dẫm; mọi người phải chăm chỉ luyện tập trên thao trường
để bớt đổ máu trên chiến trường; đồng thời phải làm việc có kế hoạch, khơng tuỳ tiện
theo lối “nước sơng cơng lính” lãng phí tiền bạc, thì giờ của nhân dân, công sức của

bộ đội; cán bộ phải sống ngay thắng, trong sạch, thanh cao, không lấy của công làm
của tư, “Chớ tham của, chớ tham sắc... chớ tham danh vọng, tham sống”. Những lời
chỉ bảo đó đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay, khi mà sự nghiệp xây dựng
qn đội trong hồ bình, đất nước phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều tác động tích cực, song cũng lắm tác động tiêu cực đến việc giữ
vững phẩm chất của người quân nhân cách mạng. Nó địi hỏi mỗi cán bộ qn đội
phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, vượt qua những
cám dỗ vật chất, tiền tài, danh vọng, giữ vững những phẩm chất cao quý của “Bộ đội
Cụ Hồ”.
- Thứ tư đối với công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi người cán bộ quân sự
“Phải siêng năng: siêng nghe, siêng thấy, siêng đi, siêng nghĩ, siêng nói, siêng làm”,
tức là phải chăm chỉ, tận tuỵ với cơng việc. Đó cơng việc của người cán bộ qn đội
có tính đặc thù so với các loại cán bộ khác, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến hai
phẩm chất mà người cán bộ quân sự phải có để xử lý các tình huống chiến đấu một
cách chính xác và kịp thời, đó là trí và dũng. Người nói: “Trí là phải có óc sáng suốt
để nhìn mọi việc, để suy xét địch cho đúng . . . Dũng là không được nhút nhát, phải
can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh Theo đó,
người có “Trí là người biết địch, biết ta, biết dùng người đúng chỗ, đúng việc, luôn
cầu tiến bộ, ham học hỏi, nắm vững những kiến thức cần thiết cho việc thực hiện
chức trách của mình. Người có “Dũng” phải có gan chịu trách nhiệm trước cơng việc
gặp việc khó phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ, hiểm nguy
có gan chịu đựng, có gan chống lại những cám dỗ của đời thường; dám hy sính vì vận
mệnh của Đảng, của Tổ quốc “Trí, Dũng” song tồn là hai phẩm chất đặc biệt cần
thiết của người chỉ huy quân sự và đó cũng là mục tiêu của công tác đào tạo cán bộ
quân sự hiện nay.
Để có được những phẩm chất đạo đức nhân cách nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
u cầu: một mặt, tổ chức phải bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ được rèn luyện,
mặt khác bản thân mỗi cán bộ phải bền bỉ, thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, bởi
theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó đã đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng

sáng, vàng càng luyện càng trong”. Hơn 60 năm qua, dưới sự dìu dắt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và tư tưởng của Người về đạo đức và nhân cách của người cán bộ quân sự,


lớp lớp cán bộ quân đội ta đã là những tấm gương ngời sáng về đạo đức cách mạng,
thực sự là hạt nhân đoàn kết trong lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp xây dựng quân đội ta thành đội quân cách mạng, bách chiến, bách thắng lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tuyệt đại đa số
cán bộ quân đội vẫn giữ vững được phẩm chất đạo đức và nhân cách người cán bộ
cách mạng. Tuy nhiên, trước tác động của những biến đổi kinh tế-xã hội đang diễn ra,
đã có một bộ phận cán bộ qn đội khơng cịn giữ nguyên được phẩm chất cao quý
đó, họ chưa thực sự là tấm gương cho chiến sỹ noi theo. Trong quản lý đơn vị họ cịn
nặng về mệnh lệnh hành chính mà chưa quan tâm đến giáo dục, thuyết phục; cịn
khơng ít cán bộ có tính gia trưởng, quan liêu làm cho tình cảm cán-binh nơi đó có
phần xa cách, ảnh hưởng đến sự đoàn kết va kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Một số cán bộ do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đã có biểu hiện dao động, suy giảm niềm
tin vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, sao nhãng nhiệm vụ, chạy theo lợi ích
vật chất và lối sống tầm thường, dẫn đến nhiều vụ vi phạm kỷ luật trong quan hệ với
nhân dân, với đồng chí, đồng đội phải xử lý . . . Những hạn chế đó có phần do cơng
tác giáo dục, bồi dưỡng, quản lý của một số tổ chức đảng và tổ chức chỉ huy còn yếu
kém; phần quan trọng hơn là chính những cán bộ đó khơng chịu thường xun tu
dưỡng, rèn luyện. Chính vì vậy, việc tiếp tục quán triệt và học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức nhân cách của người cán bộ quân sự và hành động theo tư tưởng
của Người vẫn là hết sức bức thiết. Để góp phần nâng cao đạo đức cách mạng và
nhân cách người cán bộ quân sự trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung làm tốt một
số nội dung chính sau đây:
Một là, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh cả trong nhà trường lẫn ngồi đơn vị. Bên cạnh việc đổi mới nội dung,
hình thức truyền đạt, cần quan tâm đến phương pháp nêu gương của cán bộ cấp trên
đối với cấp dưới, của cán bộ, giáo viên nhà trường đối với học viên, thực hiện tốt

phương châm “nói ít, làm nhiều; nói đi đơi với làm”. Đẩy mạnh tuyên truyền gương
người tốt, việc tốt; làm tốt việc nhân điển hình tiên tiến ở các đơn vị; đồng thời cần
chú trọng giáo dục tình thương yêu đồng chí, đồng đội cho mọi quân nhân, tập trung
trước hết vào đội ngũ cán bộ từ đại đội trưởng xuống đến tiểu đội trưởng, những cán
bộ trực tiếp hàng ngày cùng ăn, cùng ở, cùng huấn luyện và công tác với chiến sỹ;
đồng thời phải xử lý thật kiên quyết những biểu hiện quân phiệt (cả bằng lời nói lẫn
hành động), mất dân chủ của bất cứ cán bộ ở cấp nào.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, vai trò của các tổ chức chỉ
huy, tổ chức quần chúng trong bồi dưỡng, giáo dục, giám sát sự rèn luyện đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ.
Tổ chức quán triệt và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; duy trì tốt nề nếp
hoạt động và hiệu quả thiết thực của các tổ chức quần chúng trong phát huy quyền
dân chủ của cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị để giải quyết tốt các mối quan hệ trong đơn


vị xây dựng bầu khơng khí dân chủ, đồn kết trên cơ sở chấp hành đúng các chế độ,
nguyên tắc, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, pháp luật của Nhà nước. Đồng
thời, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp trên với nhiều hình thức theo
chế độ thường xuyên hoặc đột xuất để kịp thời phát hiện tình hình, uốn nắn những sai
phạm...
Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm khơng
ngừng hồn thiện đạo đức, nhân cách người cán bộ cách mạng. Trong thực hiện tự
phê bình và phê bình, người cán bộ phải có thái độ nghiêm túc trong tiếp thu ý kiến
đóng góp của tập thể, nhưng cũng cần chống thái độ “dễ người, dễ ta”, hoặc lợi dụng
phê bình để thực hiện mục đích cá nhân, khơng trong sáng.
Bốn là, trong cơng tác đào tạo tại trường, cần kết hợp chặt chẽ giữa học và rèn,
đảm bảo cho người học viên khi ra trường có đủ cả đức và tài để thực hiện tốt chức
trách ban đầu. Trong bối cảnh hiện nay, cần có nhiều biện pháp ngăn chặn những tác
động xấu của kinh tế thị trường vào lĩnh vực đào tạo cán bộ quân sự, kiên quyết
chống những biểu hiện tiêu cực trong dạy và học, đảm bảo môi trường đào lạo trong

các nhà trường thực sự là môi trường lành mạnh để người học viên qn sự tích luỹ,
hình thành hoặc hoàn thiện nhân cách người cán bộ quân sự theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Cần phải coi tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và nhân cách người cán bộ quân
sự là hành trang trong suất cuộc đời của mỗi người cán bộ quân đội. Chỉ có thường
xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách của mình theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
mỗi cán bộ quân đội chúng ta mới thật sự xứng đáng là người quân nhân cách mạng
của một quân đội Anh hùng.
Tạp chí Khoa học quân sự Số 11 (11-2005)



×