Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Nghiên cứu đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ lửng vùng ven biển hải phòng bằng mô hình delft3d

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.37 KB, 29 trang )

Nghiên cứu đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ
lửng vùng ven biển Hải Phòng bằng mô hình
Delft3d

Vũ Duy Vĩnh

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn ThS chuyên ngành: Hải dương học; Mã số: 60 44 97
Người hướng dẫn: GS.TS. Đinh Văn Ưu
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Trình bày sơ lược tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên
quan tới vấn đề: tổng quan về điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu đặc điểm vận
chuyển trầm tích lơ lửng vùng ven biển bằng mô hình Delft3d; các yếu tố có ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp đến sự vận chuyển (trầm tích lơ lửng) TTLL ở khu vực nghiên cứu
như chế độ gió, đặc điểm thủy văn sông, hải văn và trầm tích. Tìm hiểu thông tin về
những tài liệu chính để thiết lập mô hình, cơ sở toán học của các mô hình (thủy động lực)
TĐL và vận chuyển TTLL; các phương pháp xử lý số liệu để thiết lập các điều kiện biên
cho mô hình; trình bày chi tiết việc thiết lập các mô hình toán học để mô phỏng điều kiện
TĐL và vận chuyển TTLL cho vùng cửa sông ven biển Hải Phòng. Một số kết quả hiệu
chỉnh kiểm chứng mô hình cũng như những kịch bản tính toán.

Keywords: Hải dương học; Trầm tích lơ lửng; Ven biển; Mô hình Delft3d; Hải Phòng


Content
MỞ ĐẦU
Vùng cửa sông ven biển Hải Phòng có chế độ động lực phức tạp với sự tác động và ảnh
hưởng của các yếu tố như sóng, dòng chảy, thủy triều và dòng nước ngọt từ sông đưa ra. Khu
vực này cũng có hệ thống cảng biển quan trọng, đầu mối ra biển của các tỉnh phía bắc. Tuy nhiên


do nhiều nguyên nhân khác nhau mà xu hướng bồi lắng ở khu vực cảng Hải Phòng luôn diễn ra
mạnh mẽ, các tàu hàng lớn thường rất khó vào cảng chính mà phải chờ đến thời gian nước lớn
mới có thể vào hoặc ra khỏi cảng.
Cũng ở khu vực này, bãi biển Đồ Sơn là bãi tắm khá nổi tiếng được phát hiện từ thời Pháp.
Đây là bãi tắm đẹp, sơn thủy hữu tình và có đường giao thông thuận lợi đi Hà Nội và các tỉnh
phía bắc. Chính vì vậy bãi biển Đồ Sơn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành du lịch nói
riêng và sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hải Phòng nói chung. Tuy nhiên vấn đề đục
nước ở bãi biển Đồ Sơn đã làm giảm sức hấp dẫn của khu du lịch này. Mặc dù đã có một số
nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của hiện tượng này nhưng các kết quả nghiên cứu đó vẫn còn
hạn chế. Vì vậy, các kết quả của đề tài này sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết về nguyên nhân
của hiện tượng đục nước ở vùng ven bờ Đồ Sơn.
Do những nguyên nhân trên mà đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ lửng (TTLL) ở khu vực
này đã được quan tâm nghiên cứu khá nhiều. Tuy nhiên do những nguyên nhân khác nhau mà
các kết quả của những nghiên cứu đó vẫn còn các hạn chế. Trong nghiên cứu này, tác giả sử
dụng một hệ thống mô hình tổng hợp 3 chiều thủy động lực- sóng- vận chuyển TTLL dựa trên
mô hình Delft3D của Hà Lan với mục tiêu là nghiên cứu đặc điểm vận chuyển trầm tích ở vùng
cửa sông ven biển Hải Phòng.
Với mục tiêu như trên, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ là: thu thập, xử
lý các tài liệu liên quan để thiết lập đầu vào, kiểm chứng và hiệu chỉnh mô hình; triển khai các
phương án ứng dụng các mô hình thủy động lực (TĐL), sóng và vận chuyển TTLL ở khu vực
nghiên cứu theo các kịch bản khác nhau: theo mùa, theo yếu tố tác động. Phạm vi khu vực
nghiên cứu là vùng cửa sông ven biển Hải Phòng nhưng chủ yếu tập trung vào khu vực phía
đông bắc bán đảo Đồ Sơn. Sau thời gian tiến hành nghiên cứu các kết quả nhận được đã cung
cấp các đặc điểm vận chuyển TTLL ở vùng ven biển Hải Phòng, cũng như vai trò của một số yếu
tố như thủy triều, gió, sóng kết hợp với gió đến đặc diểm vận chuyển TTLL ở khu vực nghiên
cứu.
Báo cáo này trình bày các kết quả đó và được cấu trúc như sau:
Mở đầu: Giới thiệu sơ lược về mục tiêu nội dung và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phần thứ nhất của báo cáo trình bày sơ lược tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước có liên quan tới vấn đề. Cũng trong phần này, tổng quan về điều kiện tự nhiên của khu vực

nghiên cứu được đưa ra, trong đó chủ yếu tập trung vào các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp đến sự vận chuyển TTLL ở khu vực nghiên cứu như chế độ gió, đặc điểm thủy văn
sông, hải văn và trầm tích.
Các tài liệu cơ bản và phương pháp chính để thực hiện các nội dung và mục tiêu nghiên cứu
đã đặt ra của luận văn được trình bày trong phần thứ 2 của báo cáo. Trong phần này, sẽ cung cấp
các thông tin về những tài liệu chính để thiết lập mô hình, cơ sở toán học của các mô hình TĐL
và vận chuyển TTLL. Ngoài ra, các phương pháp xử lý số liệu để thiết lập các điều kiện biên cho
mô hình cũng được trình bày trong phần này. Cũng trong phần thứ 2 của báo cáo, trình bày chi
tiết việc thiết lập các mô hình toán học để mô phỏng điều kiện TĐL và vận chuyển TTLL cho
vùng cửa sông ven biển Hải Phòng. Một số kết quả hiệu chỉnh kiểm chứng mô hình cũng như
những kịch bản tính toán chính cũng đã được trình bày.
Các kết quả phân tích đánh giá điều kiện TĐL, vận chuyển TTLL ở khu vực nghiên cứu
được trình bày trong phần thứ 3 của báo cáo.
Cuối cùng là một vài kết luận và khuyến nghị.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VÀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nƣớc
Trầm tích lơ lửng (TTLL) có một vai trò quan trọng ở nhiều khía cạnh khác nhau đối với
môi trường biển và công trình bờ. Tuy nhiên môi trường ở vùng cửa sông ven biển rất phức tạp,
nơi diễn ra sự tương tác của các khối nước sông- biển, dòng triều, sóng, gió, lực Coriolis…nên
những hiểu biết của con người các quá trình như lắng đọng, tái lơ lửng, kết keo vẫn còn nhiều
hạn chế. Ngoài phương pháp phân tích đánh giá các đặc điểm vận chuyển TTLL từ số liệu đo đạc
khảo sát người ta đã phát triển và ứng dụng các mô hình toán học để dự báo các đặc điểm vận
chuyển TTLL ở vùng cửa sông ven biển. Các mô hình này thông thường là các chương trình tính
để giải các bài toán cơ bản của cơ học chất lỏng và phương trình vận chuyển trầm tich.
Các phương trình cơ bản của cơ học chất lỏng có thể được giải theo sơ đồ trong không gian
của 1 chiều (1D), hai chiều (2D) hoặc 3 chiều (3D). Tương ứng với các phương trình đó là các
mô hình số 1 chiều, 2 chiều hoặc 3 chiều đồng thời tính phức tạp cũng lần lượt tăng dần. Trong
tự nhiên, hầu hết các quá trình TĐL và vận chuyển trầm tích ở vùng của sông ven biển như dòng
chảy rối, thủy triều, ứng suất của gió, tác động của sóng, sự phân tầng nhiệt-muối, dòng chảy nói

chung là các quá trình 3 chiều. Vì vậy, khi áp dụng và phát triển các mô hình toán vào các vùng
cửa sông ven biển người ta cố gắng lựa chọn các mô hình 3 chiều.
Các mô hình 2 chiều có thể là bình lưu hoặc tổng hợp theo độ sâu. Một mô hình bình lưu
giải các phương trình động lượng và liên tục cho chất lỏng và các pha (phases) của trầm tích.
Những ứng dụng của mô hình 2 chiều là các thiết kế trong các mương thoát nước và hệ thống
thủy lợi. Các mô hình vận chuyển trầm tích 2 chiều dựa trên phương trình động lượng trung bình
theo độ sâu và phương trình liên tục cho trầm tích. Mực nước, vận tốc dòng chảy, hàm lượng
TTLL và một số yếu tố khác được tính tại các điểm. Các tham số của mô hình được giả thiết là
đồng nhất theo độ sâu tại mỗi điểm tính.
Những ví dụ của mô hình 2 chiều có thể kể đến như các nghiên cứu của Struiksma và nnkvà
Wang. Struiksma và nnk đã tính toán biến động đáy của một đoạn sông với việc ứng dụng mô
hình vận chuyển trầm tích trên cơ sở các công thức của Engelund và Hansen. Wang đã nghiên
cứu phân bố trầm tích ở gần cửa sông với trường hợp dòng chảy ít biến đối. Các mô hình vận
chuyển trầm tích 2 chiều được sử dụng rộng rãi trong thực tế như MIKE 21 và TABS-MD. Mô
hình MIKE 21 được phát triển bởi Viện Thủy lực Đan Mạch và là mô hình sai phân hữu hạn. Mô
hình này cho các kết quả khá tốt và được sử dụng nhiều ở Mỹ. Tương tự như vậy, mô hình
TABS-MD được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực công trình bờ từ khi ra đời trong những năm
1970. Một mô hình 2 chiều là cần thiết nếu tính đến các kiểu hoàn lưu phức tạp và dòng chảy
không ổn định. Tuy nhiên so với các mô hình 1 chiều, các mô hình 2 chiều đòi hỏi thời gian tính
toán nhiều hơn, số liệu cung cấp và các biến đầu vào nhiều hơn. Vì vậy trong một số trường hợp
có thể cân nhắc lựa chọn giữa mô hình một chiều và 2 chiều.
Mô hình 3 chiều dựa trên các phương trình cân bằng khối lượng hay khuyếch tán đối lưu
của TTLL. Trong phần lớn các mô hình 3 chiều, trường dòng chảy và hàm lượng TTLL được
tổng hợp (intergated) và tính toán ở mỗi bước thời gian. Mô hình 3 chiều tính đến cả các thành
phần bình lưu và đối lưu của quá trình vận chuyển trầm tích và được dùng khi có sự phân tầng về
dòng chảy và vận chuyển trầm tích. Các mô hình 3 chiều cung cấp đầy đủ nhất bao gồm cả số
lượng các biến của bất kỳ hệ TĐL nào. Việc hiệu chỉnh mô hình cũng đòi hỏi lượng số liệu lớn
và phức tạp hơn, bởi vì các chương trình được yêu cầu phải thể hiện được tất cả các quá trình
phức tạp của điều kiện TĐL diễn ra cả trong 3 hướng. Thông thường các số liệu đầu vào cho mô
hình 3 chiều có được từ các số liệu gần đúng của các tài liệu nghiên cứu hơn là từ số liệu khảo

sát do việc khảo sát các tham số này ở điều kiện 3 chiều cho đến nay vẫn còn nhiều khó khăn.
Các mô hình TĐL - vận chuyển bùn cát 3 chiều cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về diễn biến và sự
tương tác của các quá trình diễn ra trong thủy vực. Một ví dụ của kết quả mô hình TĐL 2 chiều
là kết quả đánh giá biến động của các nêm mặn vùng cửa sông. Nhiều mô hình 3 chiều đã được
áp dụng với các qui mô khác nhau như trong phòng thí nghiệm, hay quy mô các khu vực nhỏ.
Việc áp dụng mô hình 3 chiều ở quy mô vùng lớn thường gặp khó khăn do thời gian gian tính
toán lâu, vì vậy người ta thường chỉ mô phỏng trong phạm vi một vài ngày hoặc một chu kỳ
triều. Việc ứng dụng mô hình 3 chiều cần thiết nhất ở những vùng có cấu trúc thủy động lực và
quá trình trầm tích phức tạp với các xoáy và biến động mạnh theo không gian. Một số mô hình
đã được sử dụng rộng rãi nhất phải kể đến như RMA11, ECOMSED, CH3D-SED, Delft-3D. Khi
mô hình CH3D-SED được áp dụng gần đây ở vùng cửa sông Mississippi-Atchafalaya, mô hình
này chỉ được dùng để kiểm tra tính chính xác của một giả thuyết về sự sắp xếp đường cong trầm.
Người ta đã đi đến kết luận rằng một mô hình 2 chiều được xử lý và thiết lập tốt có thể trở thành
một công cụ kỹ thuật chuyên nghiệp cho nghiên cứu động lực học công trình bờ. Một ví dụ khác,
O’Connor và Nicholson cung cấp một mô hình 3 chiều đầy đủ bao gồm một mô hình vận chuyển
TTLL, quá trình ngưng keo và kết bông. Katopodi và Ribberink thông báo về một mô hình tựa 3
chiều (quasi-3D) cho TTLL dựa trên việc giải gần đúng phương trình khuếch tán- bình lưu cho
sóng và dòng chảy. Briand và Kamphuis đưa ra một cách tiếp cận chi tiết việc tính toán vận
chuyển trầm tích dựa trên kết hợp tính dòng chảy 3 chiều và phân bổ hàm lượng TTLL theo
phương thẳng đứng. Một mô hình sai phân hữu hạn 3 chiều cho TĐL và vận chuyển TTLL đã
được mô tả bởi Cancino và Neves.
Gần đây, trong một số nghiên cứu của Châu Âu về vùng cửa sông thuộc dự án Khoa học và
Công nghệ biển (MAST). Một trong những kết quả của dự án này là một mô hình kết hợp TĐL-
sinh thái vùng thềm lục địa gọi là mô hình COHERENS. Đây là mô hình tổng hợp của các thành
phần vật lý như dòng chảy, nhiệt độ, độ muối, các module sinh vật phù du, các quá trình sinh-
địa- hóa, TTLL và module phát tán vật chất theo công thức của Eulerian và Lagrangian. Tuy
nhiên, phần vận chuyển trầm tích trong mô hình này chưa tính đến những biến động của địa hình
đáy. Viện Thủy lực Delft cũng đã phát triển hệ thống mô hình tổng hợp (2D/3D) để mô phỏng
điều kiện TĐL và vận chuyển trầm tích dưới ảnh hưởng của các lực khí tượng và thủy triều. Mô
hình này tính đến những biến động của địa hình đáy, quá trình lắng đọng, xói lở và có thể tính

kết hợp (coupling) các điều kiện TĐL - sóng và vận chuyển trầm tích ở mỗi bước thời gian
(Online) trong quá trình tính toán.
Đáng chú ý là phần lớn các mô hình TĐL - vận chuyển trầm tích đều giả thiết là phân bố áp
suất thủy tĩnh và dùng các sơ đồ phần tử hữu hạn hoặc sai phân hữu hạn, phương pháp chuyển
đổi hệ tọa độ thẳng đứng sigma, ảnh hưởng của các lực được phân chia giống nhau lên toàn bộ
cột nước. Phần lớn các mô hình này dùng các biểu diễn đại số để tham số hóa các hệ số rối và
dùng các phương trình bán thực nghiệm với các hệ số đã được đơn giản hóa. Những so sánh,
đánh giá về tính năng, khả năng áp dụng, mức độ mạnh yếu của các mô hình được sử dụng rộng
rãi nhất hiện nay đã được so sánh và thảo luận chi tiết trong cuốn “A Review on Coastal
Sediment Transport Modelling” của Laurent Amoudry.
1.1.2. Nghiên cứu trong nƣớc
Với trên 3200 km chiều dải bờ biển, vùng ven bờ biển Việt Nam tiếp nhận một lượng trầm
tích rất lớn từ hệ thống sông Hông-Thái Bình ở Bắc Bộ và hệ thống sông Mê Kông ở Nam Bộ.
Dòng trầm tích từ lục địa đi vào vùng ven bờ không chỉ gây ra những tác động về môi trường
như ô nhiễm, đục hóa mà còn là một trong những nguyên nhân gây sa bồi luồng lạch cản trở các
hoạt động giao thông thủy. Chính vì vậy nghiên cứu đặc điểm vận chuyển trầm tích ở các vùng
cửa sông ven biển Việt Nam có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn cũng như nhận được sự quan tâm
của các nhà quản lý và các nhà khoa học. Trong giai đoạn đầu khi các mô hình toán chưa phát
triển, các nghiên cứu về vận chuyển TTLL ở vùng biển Việt Nam chủ yếu dựa trên các phân tích
đánh giá từ số liệu khảo sát. Tiêu biểu trong số đó là nghiên cứu của về động lực vùng ven biển
và cửa sông Việt Nam. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã dựa trên việc phân tích số liệu đo
đạc để đánh giá tương quan giữa các yếu tố động lực và quá trình trầm tích ở vùng cửa Văn Úc
và Ba Lạt. Một nghiên cứu khác về thủy thạch động lực chủ yếu dựa trên những số liệu quan
trắc. Theo đó, dòng bồi tích dọc bờ vùng ven biển Hải Thịnh- Hà Nam Ninh đã được tính toán
bằng các công thức của CERC và sự vận động của dòng bùn cát ven bờ chủ yếu là do TTLL
(chiếm tới 90%).
Trong những năm gần đây, do sự phát triển của các công cụ tính toán nên mô hình toán học
đã dần được đưa vào sử dụng trong việc tính toán TĐL và vận chuyển bùn cát. Các mô hình
được sử dụng nhiều ở Việt Nam là Mike 21 (Viện Địa lý, ĐH Thủy lợi, Viện KTTV và MT),
SMS (Viện KTTV và MT, Viện Cơ học, trường ĐHKHTN), MDEC (Trường ĐHKHTN),

Delft3D (Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Đại học Thủy lợi). Những lĩnh vực ứng dụng
nhiều của mô hình vận chuyển trầm tích như phục vụ đánh giá bồi tụ xói lở vùng cửa sông ven
biển Bắc Bộ, vùng ven biển miền Trung và vùng biển Nam Bộ, đánh giá xu thế bồi tụ- xói lở khu
vực Cửa Đáy, vận chuyển trầm tích và biến đổi địa hình đáy vùng cửa sông ven biển Hải Phòng.
Trong những nghiên cứu trên, các mô hình vận chuyển trầm tích chủ yếu được dùng để tính toán
dự báo cân bằng của các dòng bùn cát ở vùng ven bờ. Ứng dụng khác liên quan đến mô hình vận
chuyển TTLL liên quan đến lĩnh vực môi trường là đánh giá phân bố của TTLL ở các vùng cửa
sông ven biển. Một số nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này như ứng dụng mô hình Mike và
SMS đánh giá ảnh hưởng do hoạt động của nhà máy nhiệt điện Mông Dương đến quá trình vận
chuyển bùn cát lơ lửng ở khu vực này; ứng dụng mô hình 3 chiều để nghiên cứu lan truyền
TTLL ở vùng biển ven bờ Quảng Ninh; nghiên cứu phân bố và biến động của TTLL, biến động
địa hình đáy khu vực vịnh Hạ Long- Bái Tử Long bằng mô hình 3 chiều (Dellft3D) để phục vụ
đánh giá sức tải môi trường của khu vực này; trên cơ sở ứng dụng mô hình Delft3D các tác giả
tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển đã thiết lập đồng thời mô hình thủy động lực-sóng và
vận chuyển TTLL để đánh giá ảnh hưởng của đập Hòa Bính đến phân bố TTLL ở vùng ven bờ
châu thổ sông Hồng.
Vùng cửa sông ven biển Hải Phòng là nơi hằng năm tiếp nhận một lượng trầm tích khá lớn
từ lục địa của hệ thống sông Hồng- Thái Bình qua 5 cửa sônng chính là Bạch Đằng, Cấm, Lạch
Tray, Văn Úc và Thái Bình. Trong đó sông Cấm và Văn Úc là 2 trong số 4 cửa ra biển chính của
dòng vật chất từ sông Hồng- Thái Bình ra vùng ven bờ châu thổ sông Hồng. Dòng bùn cát từ lục
địa đưa ra vùng cửa sông ven biển góp phần hình thành nên các bãi bồi phì nhiêu, tăng nhanh
quá trình lấn biển mở rộng đất đai, cung cấp nguồn dinh dưỡng cho sinh vật. Tuy nhiên, dòng
bùn cát này cũng gây ra các vấn đề môi trường khác như đục nước, sa bồi luồng lạch. Chính vì
vậy đặc điểm vận chuyển trầm tích ở vùng ven biển Hải Phòng đã được quan tâm nghiên cứu từ
khá lâu. Điển hình là các nghiên cứu về điều kiện TĐL và vận chuyển trầm tích trong mối liên hệ
với hiện tượng biến dạng bờ và xói lở bờ đảo Cát Hải. Cũng dựa trên những số liệu khảo sát,
trong nghiên cứu về động lực vùng cửa Văn Úc, Nguyễn Văn Cư và nnk đã đưa ra những đánh
giá về quan hệ của các yếu tố động lực với quá trình vận chuyển trầm tích ở khu vực này. Một
nghiên cứu tổng hợp khác dựa trên các điều kiện địa chất- thủy động lực- vận chuyển trầm tích
để xác định nguyên nhân đục nước ở bãi biển Đồ Sơn cũng đã được tiến hành. Những nghiên

cứu liên quan về vận chuyển trầm tích ở khu vực này đã được tiến hành thông qua ứng dụng mô
hình toán học trong thời gian gần đây. Đáng chú ý là nghiên cứu áp dụng mô hình Mike21 để
đánh giá điều kiện động lực, dự báo vận chuyển trầm tích khu vực cửa Văn Úc và Lạch Huyện.
Một số nghiên cứu khác bằng mô hình 3 chiều (3D) cũng đã được thực hiện ở khu vực này.
Trong Luận văn cao học với nội dung đánh giá đặc trưng TTLL vùng cửa sông ven biển Hải
Phòng, tác giả Trần Anh Tú cũng đã sử dụng module chất lượng nước (Delf3d-WAQ) trong mô
hình Delft3d để mô phỏng điều kiện TĐL – vận chuyển TTLL. Tuy nhiên trong nghiên cứu này,
tác giả chỉ dùng mô hình 2 chiều và không tính đến các yếu tố sóng nên không thể hiện được sự
ảnh hưởng do tương tác của các quá trình thủy động lực- sóng và vận chuyển TTLL ở diễn ra ở
khu vực nghiên cứu.
Việc ứng dụng các mô hình toán học nghiên cứu đặc điểm vận chuyển trầm tích ở nước ta
tuy nhiều nhưng vẫn còn có những hạn chế, đặc biệt là vấn đề số liệu đầu vào cho mô hình.
Nguồn số liệu cung cấp cho các mô hình ở nước ta thường thiếu số lượng, thiếu đồng bộ, hệ
thống và cả độ chính xác. Do đó việc xử lý số liệu đầu vào, hiệu chỉnh các tham số tính toán để
lựa chọn được những tham số phù hợp cho mô hình vẫn là một vấn đề tồn tại cần giải quyết
trong thời gian tới.
1.2. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
1.2.1. Vị trí địa lý và địa hình
Khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng tọa độ 20.5-20.9 độ vĩ bắc và 106.5- 107.1 độ kinh
đông, vùng biển ven bờ tây vịnh Bắc Bộ, rìa Đông Bắc của châu thổ sông Hồng thuộc thành phố
Hải Phòng, cách Hà Nội khoảng 102km về phía đông.
Khu vực này được tạo thành bởi các quá trình động lực sông, biển và sông - biển hỗn hợp.
Đây là vùng biển có chế độ nhật triều đều với biên độ triều lớn, lại nằm trong vành đai khí hậu
nhiệt đới ẩm gió mùa, cho nên vai trò động lực thuỷ triều và thực vật ưa mặn đã đóng vai trò
quan trọng cho sự thành tạo và phát triển địa hình ở đây. Mặt khác, do hoạt động giao thông
thuỷ, quai đê lấn biển, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở vùng cửa sông của con người cũng làm
cho động lực phát triển của địa hình khu vực nghiên cứu thêm phức tạp. Bờ biển ven bờ Hải
Phòng có dạng đường cong lõm của bờ tây vịnh Bắc Bộ, thấp và khá bằng phẳng, cấu tạo chủ
yếu là bùn cát do năm cửa sông đổ ra. Địa hình vùng cửa sông ven biển Hải Phòng có độ sâu
không lớn, độ dốc nhỏ.

1.2.2. Chế độ gió
Các kết quả phân tích thống kê dựa trên số liệu quan trắc gió tại Hòn Dáu (1960-2011) cho
thấy trung bình trong nhiều năm các hướng gió có tần suất xuất hiện lớn là E, SE, NE và S. Vận
tốc gió ở khu vực này với giá trị nhỏ hơn 3m/s chiếm tần suất tới trên 50%. Tần suần xuất hiện
gió có vận tốc từ 3-5m/s chiếm khoảng 26.3%. Tần suất xuất hiện gió trên 5m/s chỉ chiếm
khoảng 6.5%.
Trong mùa khô, hướng gió thịnh hành chủ yếu là E, N và NE với tần suất lần lượt là 35.2,
16.6 và 11.1%. Vận tốc gió lớn hơn 6m/s trong mùa này chiếm tần suất khoảng 29%. Trong mùa
mưa các hướng gió thịnh hành là E, SE, S, N và NE. Vận tốc gió lớn hơn 6m/s chiếm tần suất
khoảng 37.9%.
1.2.3. Đặc điểm thủy văn
Hàng năm, hệ thống sông Hồng- Thái bình cung cấp khoảng 120 tỷ m
3
nước và 114 triệu tấn
phù sa cho vùng ven bờ. Lượng vật chất này chủ yếu qua 9 cửa sông chính: Bạch Đằng, Cấm,
Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, Trà Lý, Ba Lạt, Ninh Cơ và Đáy. Trong đó vùng cửa sông ven
biển Hải Phòng chịu tác động trực tiếp của các sông Bạch Đằng, Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và
Thái Bình. Chế độ dòng chảy ở các sông này cũng như các sông khác thuộc hệ thống sông Hồng-
Thái Bình có đặc điểm là biến động mạnh theo mùa. Phân tích từ các chuỗi số liệu nhiều năm
cho thấy tải lượng nước hằng năm tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa (từ tháng 6 đến
tháng 9) hằng năm. Trong khi đó các tháng còn lại lượng chảy hầu như rất nhỏ [14]. Trong mùa
mưa, lưu lượng chảy trung bình của các sông ra biển biến đổi trong khoảng 300-2200m
3
/s, trong
khi các tháng mùa khô, lưu lượng nước trung bình chỉ dao động quanh giá trị 50-300m
3
/s.
1.2.4. Đặc điểm hải văn
Dao động mực nước (DĐMN) ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng thuộc kiểu nhật triều
đều điển hình với hầu hết số ngày trong tháng là nhật triều, bán nhật triều chỉ xuất hiện 2-3 ngày

trong kì nước kém. Trong một pha triều có một lần nước lớn và một lần nước ròng. Trong một
tháng mặt trăng có hai kỳ nước cường, mỗi kỳ 11-13 ngày, biên độ trung bình dao động 2,6-3,6m
và hai kỳ nước kém, mỗi kỳ 3-4 ngày có biên độ 0,5-1,0m. Sóng triều có tính chất sóng đứng với
ưu thế thuộc các sóng nhật triều O
1
, K
1
có biên độ 70-90cm, trong khi các sóng bán nhật triều
M
2
, S
2
chỉ có vai trò thứ yếu với biên độ khá nhỏ.
1.2.5. Đặc điểm trầm tích
Trầm tích lơ lửng trong nước ở vùng cửa sông ven bờ Hải Phòng ven bờ chủ yếu do sông
cung cấp, ngoài ra còn do sóng khuấy đục. Hàm lượng TTLL trong nước ở các cửa sông từ cửa
Thái Bình, Văn Úc đến cửa Cấm, Bạch Đằng vào mùa mưa có giá trị dao động trong khoảng
0.09- 0.2kg/m
3
và khoảng 0.05- 0.1kg/m
3
vào mùa khô.
CHƢƠNG 2. TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
2.1. Tài liệu
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu của luận văn, các tài liệu cần thiết đã được thu thập
xử lý. Đây là những tài liệu đã được tổng hợp từ các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đối
tượng và nội dung nghiên cứu của luận văn.
2.2. Phƣơng pháp
2.2.1. Xử lý số liệu
Để phục vụ cho việc thiết lập mô hình theo các kịch bản tính toán dự báo khác nhau, cần

thiết phải xử lý các số liệu thu thập để tạo số liệu đầu vào cho mô hình. Các phương pháp xử lý
số liệu khác cũng đã được xử dụng trong nghiên cứu này:
- Phương pháp GIS để số hóa và xử lý số liệu địa hình từ các bản đồ địa hình.
- Phương pháp tính toán thống kê để tạo các file số liệu dạng chuỗi lưu lượng nước cho các
biên sông của 5 sông chính trong khu vực nghiên cứu là Bạch Đằng, Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và
Thái Bình.
- Phương pháp khai thác số liệu từ Cơ sở dữ liệu nhiệt muối WOA09 và cơ sở dữ liệu thủy
triều FES2004. Các cơ sở dữ liệu này cùng cấp số liệu cần thiết để xác định các điều kiện biên
mở cho mô hình TĐL vùng ngoài khơi (với lưới tính thô) được lưu trữ ở dạng file Netcdf.
- Phương pháp lưới lồng (phương pháp NESTING trong Delf3d) được sử dụng trong nghiên cứu
này để tạo ra các điều kiện biên mở phía biển của mô hình.
2.2.2. Mô hình toán học
Trong nghiên cứu này các đối tượng nghiên cứu chủ yếu như TĐL, vận chuyển TTLL được
mô hình hóa trên cơ sở mô hình Delft3d. Đây là mô hình tổng hợp 3 chiều (3D) do Viện Thủy
lực Delft (Hà Lan) nghiên cứu phát triển gồm có các module cơ bản như TĐL (Delft3d-Flow),
sóng (Delft3d-Wave), vận chuyển bùn cát (Delft3d-Sed), chất lượng nước (Delft3-Waq) và sinh
thái học (Delft3d-Eco). Mô hình này có thể mô phỏng tốt điều kiện TĐL - sóng, vận chuyển bùn
cát, chất lượng nước ở vùng cửa sông ven bờ [34].
2.2.3. Thiết lập mô hình
Phạm vi miền tính của mô hình
Mô hình thuỷ động lực cho khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng sử dụng hệ lưới cong trực
giao. Phạm vi vùng tính của mô hình bao gồm các vùng nước của các cửa sông Bạch Đằng, Cấm,
Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình và phía ngoài các cửa sông này mở rộng ra phía ngoài.
Thời gian tính toán
Mô hình TĐL khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng được thiết lập và chạy với thời gian là
các mùa đặc trưng trong năm (mùa mưa và mùa khô) của các kịch bản khác nhau. Trong đó hai
kịch bản hiện trạng được thiết lập để hiệu chỉnh và kiểm chứng mô hình gồm: mùa mưa (tháng
7-8-9 năm 2009); mùa khô (tháng 2- 3 năm 2009). Bước thời gian chạy của mô hình thủy động
lực là 0,5 phút.
2.2.4. Hiệu chỉnh và kiểm chứng kết quả của mô hình

Cơ sở số liệu để hiệu chỉnh mô hình
- Số liệu mực nước đo đạc với tần suất 1h/lần do Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia
thực hiện tại trạm Hải văn Hòn Dáu trong năm 2009.
- Số liệu đo đạc dòng chảy (được đo 2 tầng) và hàm lượng TTLL (lấy mẫu 2 tầng) tại vùng
cửa Nam Triệu và phía ngoài khu vực Đồ Sơn vào mùa khô từ 18/3-19/3/2009 mùa mưa từ 30/8-
02/9/2009 (điểm B2) của các đề tài liên quan [1, 8].
2.2.5. Các kịch bản tính toán
Để đánh giá đặc điểm vận chuyển TTLL cho vùng cửa sông ven biển Hải Phòng, các kịch
bản tính toán khác nhau đã được thiết lập. Các nhóm kịch bản tính toán bao gồm:
- Các kịch bản hiện trạng với điều kiện thực của tháng 2-3 và tháng 7-8-9 năm 2009, có
tính đến tất cả các yếu tố như thủy triều, sóng, gió, nhiệt, muối và ảnh hưởng của sông.
- Kịch bản đánh giá ảnh hưởng do thủy triều: thiết lập như các kịch bản hiện trạng
nhưng không có DĐMN.
- Kịch bản đánh giá ảnh hưởng của gió, 2 nhóm kịch bản: thiết lập như các kịch bản hiện
trạng nhưng không có gió-sóng, thiết lập như các kịch bản hiện trạng với gió vận tốc trung bình
và hướng không đổi (NE, E, SE).
- Kịch bản đánh giá ảnh hưởng của gió kết hợp với sóng: thiết lập như các kịch bản hiện
trạng với điều kiện sóng và gió trung bình và hướng không đổi (NE, E, SE).

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3. 1. Thủy động lực
Điều kiện thủy động lực ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng chịu tác động tổng hợp của
các yếu tố như dao động mực nước, trường gió, sóng và các khối nước sông đưa ra. Trong các
yếu tố trên, những biến động của trường gió và tải lượng nước sông đã gây ra sự biến đổi của
trường dòng chảy theo mùa.
3.1.1. Biến động theo không gian
Mùa khô
Dòng chảy tổng hợp vào mùa khô ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng biến động mạnh
theo pha dao động của mực nước triều. Trong pha triều lên, trường dòng chảy có hướng từ biển
vào phía trong các sông. Ở phía ngoài, hướng dòng chảy chủ yếu là đông nam- tây bắc. Trong

pha triều này, các khối nước đi từ phía vịnh Hạ Long vào vùng ven bờ phía tây đảo Cát Bà. Vận
tốc dòng chảy ở khu vực nghiên cứu trong pha triều này phổ biến trong khoảng 0-2-0.5m/s. Một
số khu vực có vận tốc dòng chảy lớn hơn (0.7-1.0m/s) như ở cửa Lạch Huyện, phía trong cửa
Nam Triệu, sông Bạch Đằng và Cấm.
Trong pha triều xuống, do có sự kết hợp với các khối nước sông nên vận tốc dòng chảy lớn
hơn (đặc biệt là các lớp nước trên mặt) so với pha triều lên. Vận tốc dòng chảy ở pha triều này
phổ biến dao động trong khoảng 0.3-0.7m/s. Hướng dòng chảy trong pha triều này chủ yếu định
hướng theo hướng từ bờ ra phía ngoài (tây bắc- đông nam)
Ở thời kỳ nước lớn, vận tốc dòng chảy khá nhỏ (đặc biệt là phía ngoài các cửa sông), sự ảnh
hưởng của khối nước sông vào thời điểm này rất hạn chế nên khối nước biển xâm nhập sâu hơn
vào phía trong các cửa sông. Đáng chú ý là thời điểm nước lớn, vẫn xuất hiện dòng chảy ở phía
trong các cửa sông với vận tốc khoảng 0.1-0.3m/s trong khi phía ngoài biển vận tốc dòng chảy
rất nhỏ. Trường dòng chảy chỉ đạt giá trị nhỏ nhất sau thời điểm nước lớn khoảng 1-2h.
Trong thời điểm nước ròng của mùa khô, trường dòng chảy khu vực ven biển Hải Phòng có
vận tốc khá nhỏ và phân tán mạnh về vận tốc và hướng chảy. Cũng do tải lượng nước của các
sông nhỏ nên thời gian dừng chảy vào thời điểm nước ròng ngắn hơn, trường dòng chảy nhanh
chóng chuyển trạng thái từ dừng chảy thành chảy lên.
Sự biến động của trường dòng chảy ở khu vực nghiên cứu trong mùa khô theo độ sâu là
không lớn, sự phân tầng dòng chảy xảy ra rõ rệt hơn ở các pha triều lên và triều xuống. Trong
khi đó vào các thời điểm nước lớn hoặc nước ròng, chênh lệch dòng chảy giữa các tầng là khá
nhỏ.
Trong những ngày triều kém của mùa khô, xu hướng biến động của trường dòng chảy tổng
hợp ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng cũng tương tự như trong những ngày triều cường
nhưng giá trị vận tốc dòng chảy cực đại nhỏ hơn nhiều so với những ngày triều cường. Trường
dòng chảy trong những ngày triều kém phân bố đều hơn, ít xuất hiện những khu vực có vận tốc
quá lớn so với khu vực khác.
Do độ sâu nhỏ lên sự phân tầng về giá trị vận tốc và hướng dòng chảy không lớn. Vận tốc
dòng chảy theo cáo tầng khác nhau khá đồng nhất ở vùng phía trong gần các cửa sông và có
chênh lệch tương đối lớn ở các vùng nước sâu phía ngoài. Hướng dòng chảy theo độ sâu ít thay
đổi trong pha triều lên hoặc xuống nhưng phân hóa mạnh ở các thời điểm quanh khoảng thời

gian mực nước đạt cực trị.
Mùa mƣa
Vào mùa mưa, mặc dù lưu lượng nước sông đưa ra lớn hơn mùa khô lớn, nhưng do ảnh
hưởng của trường gió nên dòng chảy từ biển hướng vào phía các cửa sông vận có giá trị khá lớn.
Trong pha triều này, hướng dòng chảy chủ yếu là đông nam- tây bắc với giá trị vận tốc biến đổi
từ 0,2-0,7m/s. Một số khu vực có vận tốc dừng chảy lớn hơn như Lạch Huyện cửa Nam Triệu và
cửa Bạch Đằng, Cấm.
So với mùa khô, sự kết hợp giữa dòng chảy sông và dòng triều được thể hiện rõ nét vào pha
triều xuống tạo ra dòng chảy tổng hợp với vận tốc khá lớn so với các pha triều khác. Hướng dòng
chảy trong trường hợp này định hướng theo hướng của các các của sông ra phía biển, và chủ yếu
là hướng đông nam và nam. Giá trị vận tốc dòng chảy biến đổi trong khoảng từ 0,4-1.0m/s. Một
số nơi do lòng dẫn hẹp như khu vực cửa Lạch Huyện, cửa Nam Triệu vận tốc dòng chảy tầng
mặt có thể đạt đến giá trị trên 1,0m/s.
Vào thời điểm nước lớn của mùa mưa, cũng tương tự như trong mùa khô vẫn thấy xuất hiện
dòng chảy hướng vào sâu các sông với giá trị vận tốc khoảng 0.1-0.4m/s trong khi ở các khu vực
phía ngoài có dòng chảy khá nhỏ. Sau thời điểm nước lớn khoảng 1-2 giờ, giá trị vận tốc dòng
chảy nhỏ nhất và đổi hướng chảy xuống. Trường dòng chảy cuối pha triều lên tăng từ phía ngoài
vào trong các cửa sông, trong khi đầu pha triều xuống lại có xu hướng giảm dần từ phía trong
các cửa sông ra phía ngoài biển.
Ở thời điểm nước ròng, khối nước từ sông có điều kiện phát triển mạnh mẽ ra phía biển,
nhưng do địa hình khu vực bị phân hóa mạnh khi mực nước xuống thấp nên trường dòng chảy
vào mùa mưa ở thời điểm nước dòng khá phân tán cả về hướng và các giá trị vận tốc. Một số khu
vực vẫn có vận tốc dòng chảy lớn như phía trong các sông, khu vực cửa nam Triệu, Lạch Huyện.
Trong những ngày triều kém của mùa mưa, biến động của trường dòng chảy tổng hợp theo
các pha dao động mực nước cũng tương tự như trong những ngày triều cường nhưng giá trị vận
tốc dòng chảy cực đại ở khu vực phía trong các cửa sông thường có giá trị nhỏ hơn nhiều (30-
60%) so với những ngày triều cường. Cũng tương tự như trong mùa khô, phân bố theo không
gian của trường dòng chảy vào những ngày triều kém trở lên đồng nhất hơn, chênh lệch giá trị
vận tốc ở một số khu vực có giá trị cục bộ lớn so với nhưng khu vực còn lại nhỏ hơn so với
những ngày triều cường. Vào pha triều lên trường dòng chảy hướng vào các cửa sông có giá trị

rất nhỏ (dưới 0.2m/s) so với thời điểm đó trong ngày triều cường. Trong khi đó vào thời điểm
nước lớn của ngày triều kém, dòng chảy hướng ra phía ngoài vẫn có giá trị khá lớn (khoảng 0.1-
0.3m/s) ở phía ngoài biển.
Sự phân tầng của các trường dòng chảy theo pha dao động của mực nước trong mùa mưa ở
khu vực nghiên cứu thể hiện rõ rệt hơn so với mùa khô. Trong mùa mưa, sự phân tầng của dòng
chảy (dù không lớn) không chỉ thể hiện rõ rệt ở các thời điểm triều lên, triều xuống mà cả trong
các trường hợp mực nước đạt giá trị cực trị. Sự phân tầng cũng tăng dần từ vùng cửa sông ra khu
vùng biển phía ngoài nơi có độ sâu lớn hơn.
3.1.2. Biến động theo thời gian
Để đánh giá biến động theo thời gian của giá trị vận tốc dòng chảy ở khu vực nghiên cứu,
kết quả tính toán của mô hình tại một số điểm đã được phân tích đánh giá trong tương quan với
DĐMN. Các khu vực đó bao gồm khu vực cửa Nam Triệu, tây nam Cát Hải, phía ngoài cửa Lạch
Huyện, phía tây nam đảo Cát Bà và phía ngoài vùng biển Đồ Sơn
Các kết quả phân tích cho thấy biến động của giá trị vận tốc dòng chảy ở các khu vực khác nhau
trong vùng nghiên cứu đều phụ thuộc chặt chẽ vào DĐMN triều. Trong một chu kỳ triều thường
xuất hiện bốn cực trị vận tốc dòng chảy: hai cực đại và hai cực tiểu. Cực đại dòng chảy xuất hiện
trong nửa cuối của pha triều lên lớn hơn cực trị dòng chảy ở nửa cuối pha triều xuống. Độ lớn
dòng chảy và chênh lệch giữa các tầng ở khu vực này cũng thường có giá trị lớn hơn ở những
ngày triều cường và nhỏ hơn vào những ngày triều kém.
3. 2. Vận chuyển trầm tích lơ lửng
3.2.1. Theo không gian
Mùa khô
Đặc điểm vận chuyển và lan truyền của TTLL có liên quan chặt chẽ đến chế độ thủy động
lực và nguồn cung cấp trầm tích. Vào mùa khô hàm lượng TTLL của các sông Hải Phòng thường
có giá trị không lớn hơn 0.12kg/m
3
. Tuy nhiên giữa các sông khác nhau cũng có sự phân tán lớn,
một số sông có hàm lượng trầm tích cao hơn các sông còn lại như sông Cấm và Văn Úc. Cũng
trong mùa khô, do tải lượng nước từ sông đưa ra khá nhỏ nên phạm vi phát tán của TTLL ra
vùng biển phía ngoài cũng rất hạn chế.

Trong pha triều lên trường dòng chảy có hướng từ phía biển vào các cửa sông vì vậy vùng
có hàm lượng TTLL cao bị đẩy dần về phía lục địa. Ảnh hưởng của vùng nước có hàm lượng
TTLL cao (khoảng 0.07kg/m
3
) chỉ ở sát phía ngoài cửa Lạch Tray và phía trong cửa Nam Triệu.
Các khu vực khác hàm lượng TTLL có giá trị khá nhỏ.
Trong pha triều xuống, các khối nước từ sông hướng ra biển có điều kiện phát triển mạnh
hơn nên dòng TTLL phát triển ra phía biển nhiều hơn. Tuy nhiên do lưu lưu lượng nước trong
mùa khô khá nhỏ nên sự chênh lệch phạm vi của vùng nước có hàm lượng TTLL cao trong pha
triều lên và triều xuống vào mùa khô là không lớn. Đáng chú ý là hàm lượng TTLL trong pha
triều xuống có giá trị khá nhỏ so với pha triều lên, có thể do TTLL trong pha triều lên chủ yếu là
do xói đáy dưới tác dụng của dòng triều chứ không phải do từ sông đưa ra.
Sự xâm nhập của các khối nước biển mạnh nhất vào thời điểm nước lớn. Trong pha triều
này, diễn biến lan truyền của TTLL tiếp tục xu hướng của pha triều lên, đẩy các khối nước sông
vào sát phía lục địa. Sự phát tán tán của TTLL từ các sông ra vùng ven biển bị hạn chế nhất và
chỉ còn thấy xuất hiện phía sâu trong các sông.
Trong thời điểm nước ròng, các khối nước sông cũng như dòng TTLL từ lục địa có điều
kiện phát triển mạnh nhất ra phía ngoài, đặc biệt là phía cửa Nam Triệu, cửa Lạch Tray và ven
bờ phía tây nam đảo Cát Hải. Tuy nhiên, lưu lượng nước sông trong mùa khô hạn chế nên phạm
vi phát tán của TTLL cũng chỉ dừng lại ở khu vực phía tây Cát Hải. Hàm lượng TTLL ở khu vực
phía ngoài cửa Lạch Huyện trong pha triều này vào mùa khô cũng có giá trị khá nhỏ (dưới
0.01kg/m
3
).
Vào những ngày triều kém của mùa khô, xu hướng biến động của TTLL qua các pha triều
về cơ bản cũng giống như những ngày nước cường. Tuy nhiên nó cũng có những đặc điểm riêng.
Vào thời điểm triều lên, sự xâm nhập của nước biển vào phía trong các cửa sông bị hạn chế hơn
so với những ngày triều cường, làm cho TTLL có điều kiện phát triển ra phía ngoài hơn ở thời
điểm này. Vào thời điểm nước lớn vào ngày triều kém, TTLL vẫn gây ra đục nước ở vùng biển
phía ngoài cửa Nam Triệu, tây nam đảo Cát Hải và phía ngoài cửa Lạch Tray. Trong thời kỳ

nước ròng của ngày triều kém, TTLL từ các sông đưa ra bị giảm nhẹ khả năng phát tán ra phía
ngoài so với những ngày triều cường.
Mùa mưa
Trong mùa mưa, xu thế biến động TTLL theo pha triều cũng tương tự như mùa khô nhưng
tải lượng nước từ các sông đưa ra lớn hơn nên sự phát tán của TTLL từ lục địa ra phía ngoài
cũng mạnh mẽ hơn.
Trong pha triều lên, khối nước với hàm lượng TTLL (lớn hơn 0.1kg/m
3
) bị dồn lại ở khu
vực phía tây nam đảo Cát Hải- ven bờ Lạch Tray và một phần khu vực cửa Lạch Huyện. Ở phía
ngoài xa hơn, hàm lượng TTLL giảm dần.
Ở pha triều xuống của mùa mưa, dòng bùn cát lơ lửng từ sông có điều kiện phát triển ra
phía ngoài, ảnh hưởng đến một phần khu vực ven bờ đảo Cát Bà và bãi biển Đồ Sơn với giá trị
hàm lượng TTLL khoảng dưới 0.03kg/m
3
.
Vào thời điểm nước lớn của mùa mưa, sự xâm nhập của các khối nước biển đã đẩy vùng
nước có hàm lượng TTLL cao vào sát phía trong cửa Nam Triệu và Lạch Tray. Ở khu vực phía
ngoài hàm lượng TTLL chỉ có giá trị khoảng 0.01-0.003kg/m
3

Trong thời điểm nước ròng của mùa mưa, các khối nước sông với hàm lượng TTLL cao có
điều kiện phát triển mạnh ra phía ngoài làm cho vùng nước phía nam và tây nam Cát Hải và phía
bắc Đồ Sơn có đục khá cao với hàm lượng TTLL có thể lên tới trên 0.1kg/m
3
. Tuy nhiên vùng
nước ven bờ phía tây nam Cát Bà và khu vực phía ngoài cửa Lạch Huyện hàm lượng TTLL vẫn
có giá trị không vượt quá 0.04kg/m
3
.

Vào những ngày triều kém của mùa mưa, xu hướng biến động của TTLL qua các pha triều
về cơ bản cũng giống như những ngày nước cường. Tuy nhiên nó cũng có những đặc điểm riêng.
Vào thời điểm triều lên, lượng TTLL bị dồn lại phía trong khu vực các cửa sông giảm mạnh so
với những ngày nước cường nên khu vực có hàm lượng TTLL cao ở phía ngoài các cửa sông
giảm đi rõ rệt. Trong thời điểm triều xuống, TTLL từ các sông đưa ra chỉ phát tán hạn chế với
phạm vi khá nhỏ ở sát các cửa sông so với những ngày triều cường. Vào thời điểm nước lớn vào
ngày triều kém, TTLL ở vùng phía ngoài cửa Nam Triệu giảm mạnh hàm lượng (khá khác so với
mùa khô) so với thời điểm đó trong kỳ nước cường, có thể do hieệu ứng dồn nước và TTLL vào
ngày triều kém yếu hơn. Trong thời kỳ nước ròng của ngày triều kém, TTLL từ các sông đưa ra
bị giảm mạnh khả năng phát tán ra phía ngoài so với những ngày triều cường chỉ còn phân bố tập
trung phía ngoài cửa Lạch Tray, phía tây và tây nam đảo Cát Hải.
3.2.2. Biến động theo thời gian
Biến động theo thời gian của hàm lượng TTLL tại các vị trí khác nhau ở vùng cửa sông ven
biển Hải Phòng cũng đã dược phân tích đánh giá trong tương quan với dao động mực nước. Các
khu vực đó bao gồm khu vực cửa Nam Triệu, tây nam Cát Hải, phía ngoài cửa Lạch Huyện, phía
tây nam đảo Cát Bà và phía ngoài vùng biển Đồ Sơn.
Các kết quả phân tích cho thấy biến động của hàm lượng TTLL ở các khu vực khác nhau
trong vùng nghiên cứu đều phụ thuộc chặt chẽ vào dao động mực nước triều. Trong một chu kỳ
triều thường xuất hiện hai lần cực trị hàm lượng TTLL: một cực đại và một cực tiểu. Cực đại
hàm lượng TTLL thường xuất hiện vào thời điểm nước ròng do TTLL từ sông đưa ra và cực tiểu
thường xuất hiện vào thời điểm nước lớn khi nước biển xâm nhập trở lại. Hàm lượng TTLL và
và chênh lệch của giá trị này giữa các tầng ở vùng biển Hải Phòng khu vực này cũng thường có
giá trị lớn hơn ở những ngày triều cường và nhỏ hơn vào những ngày triều kém.
3.2.3. Tác động của một số yếu tố
Ngoài yếu tố quan trọng nhất là dòng bùn cát từ các sông đưa ra, đặc điểm vận chuyển
TTLL vùng cửa sông ven biển Hải Phòng chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như thủy triều, gió
và kết hợp của sóng và gió.
Ảnh hưởng của thủy triều
Với biên độ triều khá lớn, thủy triều có thể làm tăng cường hoặc hạn chế sự phát tán của TTLL
từ vùng cửa sông ra phía ngoài.

Vào mùa khô do dòng TTLL và lưu lượng nước đưa ra đều nhỏ lên những ảnh hưởng của
thủy triều đến đặc điểm vận chuyển TTLL không thể hiện rõ rệt. Trong mùa mưa, ở pha triều
lên, ảnh hưởng của thủy triều làm tăng cường sự xâm nhập của nước biển vào sâu các cửa sông
thêm khoảng 1-2.5km. Vào pha triều xuống, yếu tố này làm tăng cường sự phát tán của TTLL ra
phía ngoài khoảng thêm khoảng 4-8km. Với cùng các điều kiện khác thì sự dâng mực nước ở
thời điểm nước lớn không làm cho khối nước sông bị đẩy lại sâu vào trong sông nhiều mà phân
bố TTLL theo chiều thẳng đứng trở lên đồng nhất hơn so với trường hợp không có thủy triều vào
thời điểm đó. Thời điểm nước ròng có thể tăng cường sự phát tán của TTLL từ lục địa ra phía
ngoài thêm khoảng 5-10 km.
Những ảnh hưởng của thủy triều đến phân bố TTLL theo không gian cũng được thể hiện
tương tự như những tác động đến profile của TTLL. Ảnh hưởng của thủy triều làm tăng cường
xáo trộn, khuyếch tán TTLL từ các tầng dưới lên các tầng trên mặt, mở rộng phạm vi ảnh hưởng
của TTLL ra phía ngoài trong pha triều xuống và hạn chế sự phát triển của TTLL từ các sông
trong pha triều lên. Trong mùa khô do dòng bùn cát từ lục địa đưa ra nhỏ nên những tác động
của thủy triều cũng khá nhỏ.
Ảnh hưởng của gió
Đánh giá những ảnh hưởng của gió đã được thực hiện qua phân tích kết quả tính toán kịch
bản hiện tại khi không có gió với các kịch bản với hướng gió khác nhau như NE, E và SE.
Trong mùa khô, vì tải lượng nước và TTLL đưa ra phía ngoài khá nhỏ nên những tác động
của trường gió đến profile của TTLL trong tất cả các pha triều đều không thể hiện rõ rệt.
Vào mùa mưa, do dòng TTLL đưa ra lớn nên những ảnh hưởng của trường gió trở nên rõ rệt
hơn.
+ Gió NE trong pha triều lên làm cho sự xâm nhập của nước biển (với hàm lượng TTLL nhỏ
hơn) ở tầng trên vào sâu phía trong cửa sông khoảng 0.5-1.2km, nó cũng làm cường sự khuếch
tán TTLL lên tầng mặt ở vùng biển phía ngoài. Trong pha triều xuống, ảnh hưởng của gió làm
tăng cường xáo trộn và phát tán TTLL ở lớp nước phía trên nhưng lại hạn chế sự mở rộng của
nước sông ở tầng gần đáy. Ở thời kỳ nước lớn, gió hướng NE làm tăng nhẹ sự xâm nhập của
nước biển trên tầng mặt về phía cửa sông. Trong thời kỳ nước ròng, ảnh hưởng của gió E đến
profile TTLL khá nhỏ.
+ Gió hướng E trong pha triều lên vào mùa mưa làm cho lớp nước biển trên mặt tiến sâu

hơn vào phía trong khoảng 0.5-1.0km trong khi TTLL ở các lớp dưới mở rộng ra phía biển hơn
so với trường hợp không có gió. Trong pha triều xuống, gió hướng E làm tăng cường sự xáo trộn
TTLL trong cột nước ở phía ngoài vùng ảnh hưởng của nước sông ở khoảng 10-16km từ cửa
sông. Ở thời kỳ nước lớn, gió E làm tăng cường sự xâm nhập của khối nước biển vào phía trong
sông, giảm hàm lượng TTLL ở tầng mặt. Trong thời kỳ nước ròng, ảnh hưởng của gió E đến
phân bố TTLL khá nhỏ.
+ Gió hướng SE trong pha triều lên vào mùa mưa làm cho lớp nước biển trên mặt và cả đáy
tiến sâu hơn vào phía trong khoảng 0.5-1.5km hơn so với trường hợp không có gió. Trong pha
triều xuống, gió hướng SE cũng làm tăng cường sự xáo trộn TTLL trong cột nước ở phía ngoài
vùng ảnh hưởng của nước sông ở khoảng 10-16km từ cửa sông và làm cho vùng nước có hàm
lượng TTLL mở rộng ra phía ngoài hơn. Ở thời kỳ nước lớn, gió SE làm khối nước biển xâm
nhập sâu hơn vào vùng cửa sông (lớn hơn cả với gió hướng E), giảm hàm lượng TTLL ở tầng
mặt ở phía ngoài. Trong thời kỳ nước ròng, gió SE làm hạn chế sự phát tán TTLL ra phía ngoài
nhưng khá nhỏ.
Phân bố không gian của TTLL cũng thể hiện sự tác động của trường gió với xu hướng như
đã phân tích ở trên. Vào mùa khô, gió làm tăng cường độ đục ở phía ngoài vùng ảnh hưởng của
TTLL từ sông đưa ra nhưng với vai trò khá nhỏ. Vào mùa mưa những ảnh hưởng của gió đến
vận chuyển TTLL ở khoảng 8-18km từ cửa sông ra đã trở lên rõ rệt hơn, trong đó có ảnh hưởng
làm tăng độ đục cửa nước ven bờ Đồ Sơn, đặc biệt là trong pha triều xuống khi xuất hiện gió
hướng E và SE.
Ảnh hưởng của sóng và gió
Những ảnh hưởng đồng thời của sóng và gió đã được khảo sát thông qua các kịch bản tính
toán và phân tích giữa các trường hợp không có yếu tố sóng-gió và có tính đến yếu tố sóng- gió.
Các kết quả cho thấy:
Trong mùa khô, cũng như các trường hợp khác tải lượng nước và TTLL từ sông đưa ra nhỏ
nên những tác động của sóng-gió mặc dù làm hạn chế sự phát tán TTLL ra phía ngoài, tăng
cường xâm nhập của nước biển vào sâu các sông nhưng ảnh hưởng đó khá nhỏ.
Vào mùa mưa những ảnh hưởng của sóng- gió đến vận chuyển TTLL ở vùng cửa sông ven
biển Hải Phòng được thể hiện rõ rệt hơn.
+ Sóng và gió hướng NE trong pha triều lên làm tăng cường sự khuyếch tán TTLL ở các

tầng nước phía dưới lên các tầng trên mặt. Vào pha triều xuống, ảnh hưởng của sóng- gió cũng
làm độ đục ở phía ngoài (khoảng 10-18km) tăng lên đáng kể so với trường hợp không có sóng
gió). Ở thời điểm nước lớn, sóng- gió làm cho khối nước có độ đục lớn mở rộng ra phía ngoài
khoảng 1-4km so với trường hợp không có ảnh hưởng của sóng- gió, đồng thời các lớp nước
tầng mặt cũng trở lên đục hơn khi có tác động của sóng- gió hướng E vào thời điểm nước lớn.
Vào thời điểm nước ròng ảnh hưởng của sóng gió làm cho vùng nước ở khoảng cách 16-19km
tăng mạnh độ đục so với trường hợp không có tác động của sóng- gió.
+ Sóng và gió hướng E trong pha triều lên làm tăng cường sự khuyếch tán TTLL ở nước
phía ngoài từ các tầng dưới lên các tầng trên mặt. Vào pha triiều xuống, ảnh hưởng của sóng- gió
cũng làm độ đục ở phía ngoài (khoảng 10-19km) tăng lên đáng kể so với trường hợp không có
sóng gió. Ở thời điểm nước lớn, sóng- gió làm cho khối nước có độ đục lớn mở rộng ra phía
ngoài khoảng 1-3km so với trường hợp không có ảnh hưởng của sóng- gió, đồng thời các lớp
nước tầng mặt cũng trở lên đục hơn khi có tác động của sóng- gió hướng E vào thời điểm nước
lớn. Khi mực nước xuống thấp nhất, sóng gió làm cho vùng nước ở khoảng cách 16-20km tăng
mạnh độ đục so với trường hợp không có tác động của sóng- gió.
+ Sóng và gió hướng SE trong pha triều lên làm tăng cường sự khuyếch tán TTLL ở nước
phía ngoài từ các tầng dưới lên các tầng trên mặt. Vào pha triiều xuống, ảnh hưởng của sóng- gió
cũng làm độ đục ở phía ngoài (khoảng 10-20km) tăng lên đáng kể so với trường hợp không có
sóng gió. Ở thời điểm nước lớn, sóng- gió hướng SE không làm thay đổi nhiều phân bố. Trong
khi vào thời điểm nước ròng ảnh hưởng của sóng gió làm cho vùng nước ở khoảng cách 16-
20km tăng mạnh độ đục so với trường hợp không có tác động của sóng- gió.
Những ảnh hưởng do sóng- gió còn được thể hiện qua phân bố theo không gian của TSS đặc
biệt là các thời điểm triều lên và triều xuống. Vào mùa khô, các hướng gió NE, E và SE đều làm
tăng độ đục ở phía ngoài nhưng ảnh hưởng lớn nhất là hướng gió SE. Cũng trong mùa khô, ảnh
hưởng của sóng gió là lớn nhất vào thời điểm triều xuống.
Trong mùa mưa, những ảnh hưởng của gió-sóng đến phân bố của TTLL rất rõ rệt. Khi
không có tác động của sóng gió trong pha triều lên, ảnh hưởng của TTLL từ các cửa sông chỉ
hạn chế ở phía ngoài cửa Nam Triệu, nhưng khi đưa những ảnh hưởng của sóng gió vào thì vùng
đục nước xuất hiện ở phía đông và đông bắc Đồ Sơn xuất hiện trong tất cả các hướng sóng gió
NE, E và SE, trong đó hướng SE tác động mạnh hơn. Tương tự như vậy, trong pha triều xuống

do ảnh hưởng của gió-sóng hướng NE, E, SE đã làm xuất hiện các vùng nước đục ở phía ngoài
vùng ảnh hưởng của các khối nước sông trong đó có vùng biển Đồ Sơn.

KẾT LUẬN
Một hệ thống mô hình thủy động lực- sóng-vận chuyển TTLL trên cơ sở mô hình Delft3d đã
được ứng dụng tính toán đồng thời để nghiên cứu đặc điểm vận chuyển TTLL ở vùng ven biển
Hải Phòng. Để phục vụ cho việc thiết lập và kiểm chứng kết quả của mô hình, các bộ số liệu liên
quan ở khu vực đã được thu thập và xử lý tương đối đầy đủ và hệ thống. Các kết quả so sánh
giữa tính toán bằng mô hình và quan trắc cho thấy đã có sự phù hợp tương đối và mô hình này có
thể được sử dụng như một công cụ để nghiên cứu đặc điểm vận chuyển TTLL cho vùng ven biển
Hải Phòng.
- Đặc điểm vận chuyển TTLL ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng biến đổi mạnh theo
mùa. Vào mùa khô do sự suy giảm của lưu lượng nước và hàm lượng TTLL nên sự phát tán của
TTLL từ các sông ra phía ngoài rất hạn chế quanh các cửa sông và vùng nước phía trong cửa
Nam Triệu, phía tây nam Hoàng Châu và sát cửa Lạch Tray với hàm lượng nhỏ hơn 0.07kg/m
3
.
Các khu vực khác chỉ chịu ảnh hưởng của TTLL từ sông đưa ra trong một số ngày triều cường,
còn những ngày triều kém, TTLL từ sông trong mùa khô gần như không ảnh hưởng đến các khu
vực khác như phía Nam Cát Hải, phía ngoài cửa Lạch Huyện, khu vực Đồ Sơn – Cát Bà. Trong
khi đó vào mùa mưa do tải lượng nước và TTLL từ các sông đưa ra lớn nên TTLL có điều kiện
phát tán mạnh tới vùng nước khu vực giữa đảo Cát Hải – Đồ Sơn- Cát Bà với một số thời điểm
hàm lượng TTLL có thể trên 0.1kg/m
3
. Tuy nhiên trong thời gian tính toán khối nước có hàm
lượng TTLL lớn hơn 0.1kg/m
3
cũng không vượt quá khu vực có độ sâu 5m.
- Sự phân tầng của TTLL ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng không lớn. Sự phân tầng này
chủ yếu diễn ra trong mùa mưa vào các thời điểm triều lên và triều xuống ở khu vực cách cửa

sông khoảng 8-16km.
- Thủy triều ở vùng ven biển Hải Phòng có ảnh hưởng quan trọng đến đặc điểm lan truyền
TTLL ở khu vực này, đặc biệt là trong mùa mưa: tăng cường vận chuyển TTLL trong pha triều
xuống và hạn chế sự phát tán TTLL ra phía ngoài trong pha triều lên. Trong pha triều lên, ảnh
hưởng của thủy triều làm tăng cường sự xâm nhập của nước biển vào sâu các cửa sông thêm
khoảng 1-2.5km. Vào pha triều xuống, yếu tố này làm tăng cường sự phát tán của TTLL ra phía
ngoài khoảng 4-8km. Sự dâng mực nước ở thời điểm nước lớn không làm cho khối nước sông bị
đẩy lại sâu vào trong sông nhiều mà phân bố TTLL theo chiều thẳng đứng trở lên đồng nhất hơn.
Thời điểm nước ròng có thể tăng cường sự phát tán của TTLL từ lục địa ra phía ngoài khoảng 5-
10 km.
- Những tác động của trường gió đến vận chuyển TTLL ở vùng cửa sông ven biển Hải
Phòng thể hiện rõ trong mùa mưa khi tải lượng TTLL từ lục địa đưa ra lớn. Ảnh hưởng của gió
trong pha triều lên làm cho sự xâm nhập của nước biển ở tầng trên vào sâu phía trong cửa sông
khoảng 0.5-1.5km, nó cũng làm cường sự khuyếch tán TTLL lên tầng mặt ở vùng biển phía
ngoài. Trong pha triều xuống, ảnh hưởng của gió làm tăng cường sự xáo trộn TTLL trong cột
nước ở phía ngoài vùng ảnh hưởng của nước sông ở khoảng 10-16km từ cửa sông. Ở thời kỳ
nước lớn, gió làm tăng nhẹ sự xâm nhập của nước biển trên tầng mặt về phía cửa sông. Trường
gió cũng có vai trò nhất định trong ảnh hưởng làm tăng độ đục của nước ven bờ Đồ Sơn vào mùa
mưa, đặc biệt là trong pha triều xuống khi xuất hiện gió hướng E và SE.
- Sóng và gió kết hợp có ảnh hưởng quan trọng đến đặc điểm vận chuyển TTLL ở vùng cửa
sông ven biển Hải Phòng, nhất là trong mùa mưa. Dưới ảnh hưởng của sóng và gió, TTLL trong
pha triều lên được tăng cường khuyếch tán ở các tầng phía dưới lên các tầng trên mặt. Vào pha
triều xuống, ảnh hưởng của sóng- gió cũng làm độ đục ở phía ngoài (khoảng 10-20km) tăng lên
đáng kể so với trường hợp không có sóng gió. Ở thời điểm nước lớn, sóng- gió làm cho khối
nước có độ đục lớn mở rộng ra phía ngoài khoảng 1-4km so với trường hợp không có ảnh hưởng
của sóng- gió, đồng thời các lớp nước tầng mặt cũng trở lên đục hơn khi có tác động của sóng-
gió. Vào thời điểm nước ròng ảnh hưởng của sóng gió làm cho vùng nước ở khoảng cách 16-
19km tăng mạnh độ đục so với trường hợp không có tác động của sóng- gió. Tác động của sóng
gió đến phân bố theo không gian của TTLL cũng được thể hiện rất rõ rệt trong mùa mưa, nó tạo
thành các vùng đục nước ở phía ngoài cửa Nam Triệu, khu vực phía đông bắc và bãi biển Đồ

Sơn. Trong đó hướng gió tác động mạnh nhất là SE.
Trong nghiên cứu này, các đặc điểm vận chuyển TTLL ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng
mới chỉ được xét đến trong các điều kiện thời tiết bình thường mà chưa tính đến ảnh hưởng của
các hiện tượng thời tiết cực đoan như gió mùa, bão đến vận chuyển TTLL ở khu vực này như thế
nào. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, vai trò của các yếu tố như DĐMN, gió, sóng
đến vận chuyển TTLL ở khu vực ven biển Hải Phòng mới chỉ được đánh giá bước đầu. Những
hạn chế này sẽ được khắc phục trong những nghiên cứu tiếp theo.


References
Tiếng Việt
1. Đỗ Trọng Bình, Trần Anh Tú, Vũ Duy Vĩnh (2010), “Nghiên cứu đánh giá lan truyền
các chất gây ô nhiễm khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng bằng mô hình toán học”. Báo
cáo tổng hợp Đề tài cấp Thành phố Hải Phòng. Mã số: ĐT.MT.2008.500.
2. Nguyễn Văn Cư và nnk (1990), “Động lực vùng ven biển và cửa sông Việt Nam - Phần
nghiên cứu cửa sông”. Báo cáo TK đề tài 48B - 02 - 01. Chương trình nghiên cứu biển
48B-02 (1986 - 1990), Viện KHVN. Hà Nội
3. Nguyễn Văn Cư và nnk (1994), “Đặc điểm các quá trình động lực và hiện trạng bồi xói
ven biển đồng bằng sông Hồng”. Báo cáo tổng kết đề tài VIE 89/034. Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Cư và nnk (1995), “Báo cáo tổng kết đề tài: Nguyên nhân và giải pháp khắc
phục đục nước bãi biển Đồ Sơn” (thuộc chương trình nghiên cứu khoa học và triển khai
đổi mới công nghệ cấp thành phố (Hải Phòng).
5. Nguyễn Văn Cư, Phạm Huy Tiến (2003), “Sạt lở bờ biển miền Trung Việt Nam”. NXB.
KH&KT Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Cư và nnk (2008), Báo cáo đề tài cấp thành phố Hải Phòng: “Nghiên cứu
quá trình động lực, dự báo sự vận chuyển bùn cát, bồi tụ, xói lở vùng ven biển cửa sông
phục vụ phát triển hệ thống cảng bến và cụm công nghiệp trên sông Văn Úc”. Lưu trữ tại
Viện Địa lý.
7. Nguyễn Văn Cư và nnk (2010), “Nghiên cứu quá trình động lực, dự báo vận chuyển, bồi
lắng bùn cát tại Lạch Huyện, Nam Đồ Sơn trước và sau khi xây dựng cảng nước sâu và

giải pháp khắc phục”. Báo cáo tổng kết đề tài KC.08.10/06-10.
8. Nguyễn Đức Cự và nnk (2011), “Nghiên cứu, đánh giá tác động của các công trình hồ
chứa thượng nguồn đến diễn biến hình thái và tài nguyên - môi trường vùng cửa sông
ven biển đồng bằng Bắc Bộ”. Báo cáo tổng hợp Đề tài độc lập cấp Nhà nước (Mã số:
ĐTĐL. 2009T/05).
9. Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Văn Thảo, Vũ Duy Vĩnh (2011), “Nghiên cứu đánh giá tác
động thủy thạch - động lực của hệ thống đê quai lấn biển phục vụ xây dựng Sân bay quốc
tế tại khu vực ven bờ Tiên Lãng - Hải Phòng”. Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ cấp thành phố
Hải Phòng.
10. Nguyê
̃
n Xuân Hiê
̉
n , Dương Ngọc Tiến, Nguyê
̃
n Th ọ Sáo (2012), “Tính toán và phân tích
xu thế bồi t ụ xói lở khu vực Cửa Đáy, Tuyê
̉
n tâ
̣
p báo cáo Hô
̣
i thảo Khoa học Quốc gia về
Khí tượng, Thủy văn, Môi trường và Biến đô
̉
i khí hâ
̣
u lần thứ XV. Tâ
̣
p 2. Thủy văn - Tài

nguyên nước, môi trường và Biê
̉
n . NXB Khoa học và Kỹ thuâ
̣
t Hà Nô
̣
i , tháng 3 năm
2012, tr. 241-246
11. Bùi Hồng Long và nnk (2001), “Nghiên cứu quy luật và dự báo xu thế xói lở- bồi tụ vùng
ven bờ cửa sông Việt Nam”. Báo cáo đề tài cấp Nhà nước KHCN-5C. Viện Hải dương
học Nha Trang.
12. Trần Hồng Thái, Lê Vũ Việt Phong, Nguyễn Thanh Tùng, Phạm Văn Hải (2010), “Mô
phỏng, dự báo quá trình vận chuyển bùn cát lơ lửng khu vực Cửa Ông”. Tuyển tập báo
cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10, Viện Khoa học KTTV&MT; tr. 332- 341.
13. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Chu Hồi và nnk (1998), “Đặc điểm biến dạng
bờ và giải pháp phòng chống xói lở bờ đảo Cát Hải, Hải Phòng”. Tài nguyên và Môi
trường biển tập IV. NXB KH&KT, Hà Nội.
14. Trần Đức Thạnh, Vũ Duy Vĩnh, Yoshiki Saito, Đỗ Đình Chiến, Trần Anh Tú (2008),
“Bước đầu đánh giá ảnh hưởng của đập Hòa Bình đến môi trường trầm tích ven bờ châu
thổ sông Hồng”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển số 3-2008. tr1-16.
15. Trần Đức Thạnh, Cao Thị Thu Trang, Vũ Duy Vĩnh, Vũ Thị Lựu (2010), “Nghiên cứu
đánh giá sức tải môi trường và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững khu vực Vịnh
Hạ Long – Vịnh Bái Tử Long”. Đề tài cấp tỉnh Quảng Ninh.
16. Trần Đức Thạnh và nnk (2001), “Nghiên cứu dự báo, phòng chống sạt bờ biển bắc Bộ từ
Quảng Ninh tới Thanh Hóa. Báo cáo dự án KHCN-5A”. Phân Viện Hải dương học tại
Hải Phòng.
17. Trần Anh Tú (2012), “Đánh giá dặ trưng trầm tích lơ lửng khu vực cửa sông ven biển Hải
Phòng”. Luận Văn cao học, trường ĐHKHTN.
18. Đinh Văn Ưu, (2009), “Mô hình vận chuyển trầm tích và biến động địa hình đáy áp dụng
cho vùng biển cửa sông cảng Hải Phòng”. Tạp chí ĐHQG Hà Nội, KHTN và Công Nghệ

số 1S (2009) 133-139.
19. Đinh Văn Ưu, Đoàn Văn Bộ, Hà Thanh Hương, Phạm Hoàng Lâm, (2005), “Ứng dụng
mô hình dòng chảy ba chiều (3D) nghiên cứu quá trình lan truyền chất lơ lửng tại vùng
biển ven bờ Quảng Ninh”. Tuyển tập công trình Hội nghị Khoa học Cơ học thuỷ khí toàn
quốc năm 2005, Hà Nội, trang 623-632.
20. Vũ Duy Vĩnh, Đỗ Đình Chiến và Trần Anh Tú, (2008), “Mô phỏng đặc điểm thuỷ động
lực và vận chuyển trầm tích lơ lửng khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng”. Tài nguyên
và môi trường biển, tập XIII. Nxb KH&KT, Hà Nội. 2008
21. Vũ Duy Vĩnh, Nguyễn Đức Cự và Trần Đức Thạnh, (2011), “Ảnh hưởng của đập Hòa
Bình đến phân bố trầm tích lơ lửng vùng ven bờ châu thổ sông Hồng”. Kỷ yếu Hội nghị
Khoa học và Công nghệ biển lần thứ V, quyển 3.

Tiếng Anh
22. Abbott, M. B. (1992), “Computational Hydraulics”. Ashgate Publishing Company,
Brookfield, Vermont 05036, USA.
23. Amoudry, Laurent., (2008), “A review on coastal sediment transport modelling”.
Liverpool, Proudman Oceanographic Laboratory. (POL Internal Document No.189).
24. Arcement, G.J., Jr. and V.R. Schneider (1989), “Guide for Selecting Manning’s
Roughness Coefficients for Natural Channels and Flood Plains”. U.S. Geological Survey
Water Supply Paper 2339, 38 p.
25. Battjes, J. and J. Janssen (1978), “Energy loss and set-up due to breaking of random
waves”, In Proceedings 16th International Conference Coastal Engineering, ASCE,
pages 569-587. 47, 133, 134, 138, 139, 188
26. Becker, J.J., Sandwell, D.T., Smith, W.H.F., Braud, J., Binder, B., Depner, J., Fabre, D.,
Factor, J., Ingalls, S., Kim, S H., Ladner, R., Marks, K., Nelson, S., Pharaoh, A.,
Trimmer, R., Von Rosenberg, J., Wallace, G., Weatherall, P. (2009), “Global bathymetry
and elevation data at 30 arcsec resolution: SRTM30_PLUS”. Mar. Geodesy 32, 355–371.
doi: 10.1080/01490410903297766.

×