Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nghiên cứu địa tầng phân tập và triển vọng dầu khí trầm tích cenozoic khu vực nước sâu đông bắc bể nam côn sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 13 trang )

Nghiên cứu địa tầng phân tập và triển vọng
dầu khí trầm tích Cenozoic khu vực nƣớc sâu
đông bắc bể Nam Côn Sơn


Nguyễn Duy Tuấn


Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn ThS. ngành: Thạch học, Khoáng vật học và Địa hóa học
Mã số: 60 44 57
Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS. Trần Nghi
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu đặc điểm địa tầng phân tập của các tập trầm tích Cenozoic đã
tìm ra các quy luật mới trong tìm kiếm dầu khí nhƣ các hoạt động tích tụ và bị phá
hủy, mất đi do các quá trình biến dạng của kiến tạo nhƣ đứt gãy, núi lửa, nâng trồi
móng. Nghiên cứu địa tầng phân tập khu vực nƣớc sâu Đông Bắc bể Nam Côn Sơn
góp phần làm sáng tỏ bối cảnh kiến tạo và vị trí bể trầm tích nguyên thủy đƣợc hình
thành trên một vỏ lục địa. Lịch sử tiến hóa trầm tích gắn liền với quá trình lún chìm
nhiệt của các bể thứ cấp và toàn bộ bể Nam Côn Sơn bị nhấm chìm xuống vị trí
nƣớc sâu nhƣ ngày nay. Luận văn đã nêu ra những quy luật quan trọng nhất của địa
tầng phân tập có liên quan đến các yếu tố kiến tạo và chuyển động dâng hạ của mực
nƣớc biển.

Keywords. Địa chất; Địa tầng; Dầu khí; Trầm tích


Content
LỜI MỞ ĐẦU


Bể Nam Côn Sơn có diện tích gần 100.000km
2
, nằm trong khoảng giữa 6
0
00’ đến
9
0
45’ vĩ độ Bắc và 106
0
00’ đến 109
0
00’ kinh độ Đông. Bể Nam Côn Sơn đƣợc giới hạn về
phía Tây là đới nâng Korat – Natuna. Ngăn cách với bể trũng Cửu Long là đới nâng Côn Sơn.
Phần cực Bắc giáp với đới trƣợt Tuy Hòa của bể trũng Phú Khánh. Còn phần phía Đông, ranh
giới phân chia giữa bể trũng Nam Côn Sơn và Tƣ Chính – Vũng Mây – nhóm bể Trƣờng Sa
thì chƣa đƣợc xác định rõ ràng do tài liệu còn thiếu.
Khu vực nghiên cứu nằm ở vùng nƣớc sâu phía Đông Bắc của bể. Là một khu vực có
sự thay đổi về địa hình đáy biển rất lớn từ nơi có độ sâu đáy biển nằm trong khoảng 100- 300
m ở phần phía Tây cho đến độ sâu trung bình 800 m, đôi chỗ 1500 m ở phần phía Đông.


Hình 1. Sơ đồ địa hình khu vực nghiên cứu
Khu vực Đông Bắc của bể Nam Côn Sơn đƣợc gọi là bể nƣớc sâu nằm trên sƣờn lục địa
Đông Nam Việt Nam. Cùng với các bể và nhóm bể vùng nƣớc sâu khác nhƣ bể Tƣ Chính-
Vũng Mây, bể Trƣờng Sa, bể Phú Khánh; bể Nam Côn Sơn có các trầm tích lục nguyên thành
tạo ở môi trƣờng châu thổ, aluvi và biển nông nằm ở độ sâu tới 14 km, bề mặt đáy biển có độ
sâu từ 200 - 2000m. Điều đó đã gây nên những ý kiến tranh luận khó đi đến thống nhất khi ít
chú ý đến quan hệ giữa thành phần thạch học, tƣớng trầm tích và chuyển động kiến tạo.
Nội dung luận văn của tôi gồm những chƣơng chính sau:
Chƣơng 1. Lịch sử và phƣơng pháp nghiên cứu.

Chƣơng 2. Đặc điểm địa chất khu vực.
Chƣơng 3. Đặc điểm tƣớng đá- cổ địa lý
Chƣơng 4. Đặc điểm địa tầng phân tập
Chƣơng 5. Triển vọng dầu khí

CHƢƠNG I. LỊCH SỬ VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1975
Từ năm 1975 trở về trƣớc, công tác khảo sát khu vực và tìm kiếm dầu khí đƣợc nhiều
công ty, nhà thầu triển khai trên toàn thềm lục địa phía Nam nói chung và toàn bể Nam Côn
Sơn nói riêng. Các dạng công tác này do các công ty thăm dò Mỹ và Anh thực hiện nhƣ
Mandrell, Mobil Kaiyo, Pecten, Esso, Union Texas, Sun Marathon, Sunning Dale. Các nhà
thầu đã thu nổ hàng nghìn km địa chấn 2D với mạng lƣới tuyến 4x4 km và 8x8km.
1.1.2. Giai đoạn 1976-1980
Sau khi giải phóng miền Nam nƣớc nhà thống nhất, Tổng cục Dầu khí đã quyết định
thành lập Công ty Dầu khí Nam Việt Nam (11-1975), công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí
đƣợc đẩy mạnh. Các công ty AGIP và BOW VALLEY đã hợp đồng khảo sát tỉ mỉ (14.859km
địa chấn 2D mạng lƣới đến 2x2km) và khoan thêm 8 giếng khoan (04A-1X, 04B-1X, 12A-
1X, 12B-1X, 12C-1X, 28A-1X và 29A-1X).
1.2.3. Giai đoạn từ 1981-1987
Sự ra đời của Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro (VSP) là kết quả của hiệp định về
hữu nghị hợp tác tìm kiếm – thăm dò dầu khí ở thềm lục địa Nam Việt Nam giữa Liên Xô
(cũ) và Việt Nam vào năm 1981 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong công nghiệp dầu
khí Việt Nam.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay
Sau khi Nhà nƣớc ban hành Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài, 20 nhà thầu đã ký các hợp đồng
triển khai công tác tìm kiếm thăm dò ở bể Nam Côn Sơn. Các nhà thầu đã tiến hành khảo sát
54.779km địa chấn 2D và 5.399km2 địa chấn 3D, đã khoan 62 giếng khoan thăm dò và khai
thác. Mỏ Đại Hùng đã đƣợc đƣa vào khai tác từ năm 1994, mỏ khí Lan Tây vào năm 2002 và
các mỏ khí Rồng Đôi – Rồng Đôi Tây, Hải Thạch cũng chuẩn bị đƣa vào khai thác.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1.1. Phương pháp địa chấn địa tầng
- Qua việc phân tích đặc điểm trƣờng sóng địa chấn của 4 mặt cắt A19,A34, A26,
A31 và một số mặt cắt khác trong khu vực nghiên cứu, ta phân chia lát cắt địa chấn thành các
phức hệ và các tập địa chấn: phức hệ địa chấn bao gồm các mặt phản xạ hay các trục đồng
pha có thế nằm tƣơng tự nhau và chúng đƣợc hình thành trong cùng điều kiện trầm tích, và
các tập địa chấn ngăn cách nhau bởi các ranh giới bất chỉnh hợp.
- Phân chia các phức hệ địa chấn bằng các ranh giới bất chỉnh hợp.
Phân chia các phức hệ địa chấn phụ thuộc vào việc xác định các ranh giới bất chỉnh hợp. Dấu
hiệu nhận biết các ranh giới bất chỉnh hợp liên quan đến đặc điểm tiếp xúc của các pha phản
xạ nhƣ bất chỉnh hợp đáy (gá đáy, phủ đáy và bao bọc), bất chỉnh hợp nóc (bào mòn, chống
nóc và đào khoét), bất chỉnh hợp ngang (bờ dốc, hẽm ngầm)
 Bất chỉnh hợp đáy
+ Chống đáy (downlap): độ nghiêng các yếu tố phản xạ lớn hơn so với mặt ranh giới bất
chỉnh hợp. Loại này thƣờng xảy ra ở cuối nguồn vật liệu, trầm tích chủ yếu trong môi trƣờng
biển. Khi nguồn vật liệu có năng lƣợng thấp hoặc đáy lún chìm nhanh thì độ dày trầm tích
giảm dần và ngƣợc lại khi nguồn vật liệu có năng lƣợng lớn, đáy bùn chìm từ từ thì bề dày
trầm tích lớn dần về phía cuối nguồn vật liệu.
+ Phủ đáy (onlap): các yếu tố phản xạ phía trên ít nghiêng hơn so với ranh giới bất chỉnh hợp
phía dƣới. Các bất chỉnh hợp này thƣờng xảy ra ở đầu nguồn vật liệu, thƣờng có ở trầm tích
gần bờ.
+ Bao bọc: Pha phản xạ phía trên uốn lƣợn theo hình dạng của ranh giới bất chỉnh hợp.
Hƣớng vận chuyển vật liệu thƣờng vuông góc, thƣờng có trong trầm tích lục địa lót đáy hoặc
trầm tích biển nhƣng với điều kiện mức độ thủy động lực không lớn và liên quan đến các ám
tiêu san hô.
+Đào khoét lòng sông: là các dấu vết đào khoét lòng sông cổ khi chúng đào khoét các trầm
tích có trƣớc tại vị trí biển thoái cực đại và làm phong hóa thấm đọng tầng trầm tích ngập lụt
cực đại của giai đoạn trƣớc. Khi có dấu hiệu đào khoét lòng sông chứng tỏ trầm tích đƣợc
thành tạo trong môi trƣờng aluvi.
 Bất chỉnh hợp nóc

+ Bào mòn cắt xén: xảy ra ở ranh giới trên của một tập trầm tích do bào mòn hoặc do hoạt
động kiến tạo sau trầm tích.
+ Chống nóc (toplap): thƣờng xảy ra ở đầu nguồn vật liệu. Trầm tích thô, tích tụ gần bờ,
tƣớng châu thổ, thềm lục địa.
1.1.2. Phương pháp phục hồi mặt cắt địa chất
a. Xử lý đứt gãy thuận
Gọi A
1
là kích thƣớc của mặt cắt chƣa biến dạng
A
2
là kích thƣớc của mặt cắt hiện tại
A là khoảng cách dịch chuyển của 1 đứt gãy thuận
n là số đứt gãy thuận
Ta có công thức tổng quát nhƣ sau:
A
1
= A
2
-


n
i
iA
1
1
(1)
b. Xử lý đứt gãy nghịch
Gọi B

1
là kích thƣớc mặt cắt chƣa biến dạng
B
2
là kích thƣớc mặt cắt hiện tại
B là khoảng cách dịch chuyển của 1 đứt gãy nghịch
m là số đứt gãy nghịch
Vậy công thức tổng quát là
B
1
= B
2
+


m
i
iB
1
2
(2)
c. Xử lý uốn nếp
Khi bị nén ép trầm tích tạo nếp uốn và làm co chiều ngang của bể lại. Vì vậy, cần nắn chiều
dài mặt cắt hiện tại ra chiều dài chƣa biến dạng
Gọi C
1
là chiều dài mặt cắt chƣa biến dạng
C
2
là chiều dài mặt cắt hiện tại

C là chiều dài bị co lại của 1 nếp uốn
K là số nếp uốn
Vậy công thức tổng quát là:
C
1
= C
2
+


k
i
Ci
1
(3).
1.1.3. Phương pháp phân tích địa tầng phân tập
Địa tầng phân tập là một khái niệm để chỉ những mặt cắt địa tầng của các bể trầm tích trong
đó ranh giới các phân vị địa tầng đƣợc xác định dựa vào ranh giới các chu kỳ thay đổi mực
nƣớc biển toàn cầu và sự sắp xếp có quy luật của các đơn vị trầm tích theo không gian và
theo thời gian.
Phân loại đơn vị địa tầng phân tập
- Phức tập (Sequences):Một đơn vị cơ bản của địa tầng phân tập là một phức tập (Sequence).
Một Sequences bao gồm các “Miền hệ thống trầm tích”. Một Sequences có thể bao gồm 3
miền hệ thống trầm tích là hệ thống trầm tích biển thoái (lowstand Systems tracts), hệ thống
trầm tích biển tiến (transgressive Systems tracts) và hệ thống trầm tích biển cao (highstand
Systems tracts). Một phức tập (Sequence) là một chu kỳ trầm tích đƣợc giới hạn bởi ranh
giới bề mặt bào mòn biển thấp thứ nhất đến ranh giới bề mặt bào mòn biển thấp thứ 2 tƣơng
ứng vói một chu kỳ thay đổi mực nƣớc biển chân tĩnh.
- Nhóm phân tập (Parasequences set): Nhóm phân tập là tập hợp của một hai hay nhiều phân
tập tạo nên một tổ hợp cộng sinh các đơn vị trầm tích và đƣợc giới hạn với nhau bởi bề mặt

trầm tích ngập lụt của biển (marine flooding). Nhóm phân tập thƣờng có chiều dày từ 10-20m
đến vài trăm m. Chúng có thể đƣợc phát hiện dựa vào tài liệu địa chấn và địa vật lý giếng
khoan.
- Phân tập (Parasequences):Phân tập là đơn vị cơ bản nhỏ nhất tƣơng ứng với một đơn vị
trầm tích cơ bản.Phân tập là một phần của tập và hệ thống trầm tích gồm một số lớp trầm tích
nằm chỉnh hợp nhau liên quan với nhau về nguồn gốc đƣợc giới hạn ở nóc và đáy bởi các bề
mặt ngập lụt-ranh giới biển tiến. Phân tập đƣợc phát hiện và mô tả chi tiết ở lát cắt trầm tích
của đới ven bờ và biển nông. Trong đa số các trƣờng hợp các phân tập là các tập thô dần lên,
dày dần lên và sạch dần lên. Khi địa hình đới triều và đới ven biển khá phẳng giàu các vật
liệu mịn và địa hình bãi triều phẳng còn tồn tại phân tập mịn dần lên.
Các miền hệ thống hệ thống trầm tích
- Hệ thống trầm tích biển cao (highstand system tract).
Hệ thống trầm tích biển cao là phức hệ trầm tích đƣợc hình thành khi mực nƣớc biển chân
tĩnh dâng cao dần lên mức cao nhất, tuy nhiên do có quá trình lắng đọng trầm tích mà tốc độ
lắng đọng vƣợt qua tốc độ dâng cao của mực nƣớc biển chấn tĩnh. Lúc đó mặt cắt trầm tích
có sự phân dị độ hạt theo chiều thẳng đứng là dƣới mịn trên thô, chủ yếu có kiến trúc chồng
lấn thể hiện sự dƣ thừa lắng đọng trầm tích.
- Hệ thống trầm tích biển thấp (lowstand systems tract).
Hệ thống trầm tích biển thấp đƣợc chia ra làm hai phần gồm hệ thống nón quạt biển thấp và
nêm lấn biển thấp. Hệ thống nón quạt biển thấp hình thành khi mực nƣớc biển chấn tĩnh hạ
thấp trong bối cảnh tốc độ hạ thấp ngày càng tăng. Trong khi đó hệ thống nêm lấn biển thấp
đƣợc hình thành tiếp sau đó đƣợc hình thành khi mà mực nƣớc biển chấn tĩnh bắt đầu dâng
lên nhƣng tốc độ dâng cao chƣa vƣợt qua đƣợc tốc độ lắng đọng trầm tích mà theo mô hình là
một hằng số. Cấu tạo chủ yếu của miền hệ thống nêm lấn biển thấp là phủ chồng lấn
(Progradational) thể hiện tƣớng châu thổ điển hình.
-Hệ thống trầm tích biển tiến (transgressive systems tract).
Hệ thống trầm tích biển tiến là phức hệ trầm tích đƣợc tích tụ trong quá trình biển tiến với tốc
độ dâng cao của mực nƣớc biển luôn chiến thắng quá trình lắng đọng trầm tích. Trầm tích của
hệ thống trên có cấu tạo phủ chồng lùi (Retrogradational). Thành phần độ hạt theo mặt cắt từ
dƣới lên thay đổi từ thô đến mịn. Tuy nhiên cần lƣu ý sự giống nhau giữa trầm tích của hệ

thống trầm tích biển tiến đối với trầm tích aluvi, một nhịp của trầm tích aluvi từ lòng sông
đến bãi bồi tuy đƣợc thành tạo trong pha biển thoái song vẫn biến thiên độ hạt từ thô đến mịn.

CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHU VỰC
2.1. ĐỊA TẦNG
2.1.1. Các thành tạo trước Cenozoic
Một số giếng khoan (ĐH-1X, 04-A-1X, 04-2-BC-1X, 04-3-ĐB-1X, 10-PM-1X, Hong-1X,
12-Dừa-1X, 12-C-1X, 20-PH-1X, 28-A-1X, 29-A-1X ) ở bể Nam Côn Sơn gặp đá móng
không đồng nhất bao gồm: granit, granodiorit, diorit và đá biến chất, tuổi của các thành
tạo này có thể là Jura muộn – Creta.
Nằm không chỉnh hợp trên móng không đồng nhất là lớp phủ trầm tích Paleogen – Đệ Tứ có
chiều dày biến đổi từ hàng trăm đến hàng nghìn mét.

Hình 2.1: Cột địa tầng bể Nam Côn Sơn
2.1.2. Các thành tạo Cenozoic
Paleogen
+ Hệ tầng Cau (E
3
c)
Hệ tầng Cau vắng mặt trên phần lớn các đới nâng: Nâng Mãng Cầu, nâng Dừa, phần Tây lô
04, phần lớn lô 10, 11-1, 28, 29 và một số diện tích ở phần Tây, Tây Nam của bể. Trầm tích
của hệ tầng Cau bao gồm chủ yếu các lớp cát kết có màu xanh xen các lớp sét bột kết màu
nâu. Cát kết thạch anh hạt thô đến mịn, độ lựa chọn kém, xi măng sét, carbonat. Chiều dày
trung bình khoảng 360m.
Neogen
+ Hệ tầng Dừa (N
1
1
d)
Hệ tầng Dừa phân bố rộng rãi trong bể Nam Côn Sơn bao gồm chủ yế cát kết, bột kết màu

xám sáng, xám lục xen kẽ với sét kết màu sám, xám đỏ, xám xanh; các lớp sét chứa vôi giàu
vật chất hữu cơ có nơi chứa sét than hoặc các lớp than mỏng. Đôi khi có những lớp đá vôi
mỏng chứa nhiều hạt vụn hoặc đá vôi màu trắng xen kẽ trong hệ tầng. Tỉ lệ cát/sét trong toàn
bộ mặt cắt gần tƣơng đƣơng nhau, tuy nhiên về phía Đông của bể thành phần hạt mịn tăng
dần và ngƣợc lại, ở phần rìa phía Tây tỉ lệ cát kết tăng do gần nguồn cung cấp vật liệu.
+ Hệ tầng Thông – Mãng cầu (N
1
2
tmc)
Trầm tích của hệ tầng Thông – Mãng Cầu phân bố rộng khắp bể Nam Côn Sơn. Mặt cắt hệ
tầng có thể chia thành hai phần chính:
Phần dƣới chủ yếu là cát kết thạch anh hạt mịn đến trung, ximăng carbonat, chứa glauconit và
nhiều hóa thạch sinh vật xen kẹp những lớp mỏng sét kết và sét vôi.
Phần trên là sự xen kẽ giữa các lớp đá vôi màu xám sáng, màu trắng sữa đôi khi màu nâu bị
dolomit hóa với các lớp sét – bột kết, cát kết hạt mịn, ximăng carbonat màu xám xanh.
+ Hệ tầng Nam Côn Sơn(N
1
3
ncs)
Hệ tầng Nam Côn Sơn phân bố rộng rãi với tƣớng đá thay đổi mạnh các khu vực khác nhau.
Ở rìa phía Bắc và Tây – Tây Nam trầm tích chủ yếu là lục nguyên gồm sét kết, sét vôi màu
xám lục đến xám xanh, gắn kết yếu xen kẽ các lớp cát – bột kết chứa vôi đôi khi gặp một số
thấu kính hoặc những lớp đá vôi mỏng chứa nhiều mảnh vụn lục nguyên. Cát kết có độ lựa
chọn và mài tròn tốt, chứa hóa thạch động vật biển và glauconit. Ở vùng Trung tâm bể mặt
cắt gồm các trầm tích lục nguyên và carbonat xen kẽ. Nhƣng tại một số vùng nâng ở phía
Đông, Đông Nam bể đá Carbonat lại chiếm ƣu thế trong mặt cắt của hệ tầng.
+ Hệ tầng Biển Đông (N
2
– Q bđ)
Hệ tầng Biển Đông không chỉ phân bố trong bể Nam Côn Sơn mà trong toàn khu vực Biển

Đông liên quan đến đợt biển tiến Pliocen. Trầm tích Pliocen gồm cát kết màu xám, vàng nhạt
và bột kết xen lẫn với sét kết nhiều vôi chứa nhiều glauconit và rất nhiều hóa thạch trùng lỗ,
gắn kết yếu hoặc bở rời. Tuổi Pliocen đƣợc xác định dựa vào Foram đới N19 – N21, tảo
carbonat đới NN12 – NN18 và bào tử phấn hoa đới Dacrydium hệ tầng tƣơng đƣơng với tầng
Muda của Agip (1980). Hệ tầng Biển Đông có bề dày trầm tích thay đổi từ vài trăm mét đến
vài nghìn mét, nằm bất chỉnh hợp trên hệ tầng Nam Côn Sơn.
2.2. CẤU TRÚC, KIẾN TẠO
2.2.1. Phân tầng cấu trúc theo không gian
Dựa vào các đặc điểm nhƣ chiều dày trầm tích Cenozoic, thành phần vật chất các đá trầm
tích đƣợc cấu thành, đặc điểm cấu trúc riêng biệt của của các vùng khác nhau, cũng nhƣ các
hệ thống đứt gãy .v.v thì cấu trúc của bể Nam Côn Sơn có thể đƣợc phân chia ra các bậc cấu
trúc cao hơn nhƣ bậc II, bậc III.
a. Đới phân dị phía Tây
Đới nằm ở phía Tây bể trên các lô 27, 28, 29 và nửa phần Tây các lô 19, 20, 21, 22. Ranh
giới phía Đông của đới đƣợc lấy theo hệ đứt gãy Sông Đồng Nai. Đặc trƣng cấu trúc của
đới là sự sụt nghiêng khu vực về phía Đông theo kiểu xếp chồng do kết quả hoạt động đứt
gãy – khối chủ yếu theo hƣớng bắc-năm, tạo thành các trũng hẹp sâu ở cánh Tây của các
đứt gãy, đặc biệt là đứt gãy lớn đi kèm các dải nâng . Dựa vào đặc điểm cấu trúc của
móng, đới phân dị phía Tây đƣợc phân thành 2 đơn vị (phụ đới) có đặc trƣng cấu trúc
tƣơng đối khác nhau, ranh giới phân chia là đứt gãy Sông Hậu.
b. Đới phân dị chuyển tiếp
Đới này có ranh giới phía Tây là đứt gãy Sông Đồng Nai, phía Đông và Đông Bắc là hệ đứt
gãy Hồng – Tây Mãng Cầu. Ranh giới phía Bắc Tây Bắc đƣợc lấy theo đƣờng đẳng sâu móng
1.000m của đới nâng Côn Sơn. Ranh giới phía Nam là khối móng nhô cao (phần cuối của đới
nâng Natuna) với độ sâu 1.000  1.500m. Đới mang đặc tính cấu trúc chuyển tiếp từ đới phân
dị phía Tây kéo sang phía Đông và từ đới nâng Côn Sơn kéo xuống phía Nam. Đới bị chia cắt
bởi các hệ đứt gãy phƣơng bắc – nam, đông bắc – tây nam và đông – tây.
c. Đới sụt phía Đông
Gồm diện tích rộng lớn ở trung tâm và phần Đông bể Nam Côn Sơn, với đặc tính kiến tạo sụt
lún, đứt gãy hoạt động nhiều pha chiếm ƣu thế. Địa hình móng phân dị mạnh với chiều sâu

thay đổi từ 2.500m trên phụ đới nâng Mãng Cầu đến hơn 10.000m khác ở trung tâm các trũng
sâu, đặc trƣng cấu trúc của móng chƣa đƣợc xác định.
2.1.2. Phân tầng cấu trúc theo thời gian
Cũng nhƣ cấu trúc địa chất các thành tạo Cenozoic ở các bể Sông Hồng, Phú Khánh và Cửu
Long, cấu trúc địa chất của bể Nam Côn Sơn cũng đƣợc chia ra 2 tầng cấu trúc chính là tầng
cấu trúc dƣới và tầng cấu trúc trên.
* Tầng cấu trúc dưới: Tầng cấu trúc dƣới hay còn đƣợc gọi là tầng cấu trúc trƣớc
Cenozoic, tầng này bao gồm toàn bộ các đá móng magma granit, granodiorit và cả các đá
phun trào và biến chất. Chúng có thành phần vật chất và tuổi hết sức phức tạp.
* Tầng cấu trúc trên: Tầng cấu trúc trên bao gồm toàn bộ các thành tạo Cenozoic: Eocen(?)
– Oligocen, Miocen và Pliocen - Đệ tứ. Chúng phủ bất chỉnh hợp lên tầng cấu trúc dƣới.
Dựa vào các đặc điểm cấu trúc địa chất, môi trƣờng lắng đọng trầm tích và lịch sử tiến hóa
địa chất có thể đƣợc phân ra 3 phụ tầng cấu trúc chính:
+ Phụ tầng cấu trúc dƣới (Eocen – Oligocen)
+ Phụ tầng cấu trúc giữa (Miocen)
+ Phụ tầng cấu trúc trên (Pliocen - Đệ tứ).
2.1.3. Hệ thống đứt gãy
+ Hệ thống đứt gãy ĐB-TN
Trong khu vực nghiên cứu, phát hiện ra các đứt gãy theo phƣơng ĐB- TN, chúng đƣợc hình
thành theo cơ chế căng tách do tác động chính của quá trình giãn đáy của biển Đông dẫn đến
sự hình thành và phát triển của phần phía Đông của bể Nam Côn Sơn. Những đứt gãy này
đƣợc hình thành và phát triển chủ yếu vào thời kỳ tạo Rift sớm Eocen- Oligocen và tiếp tục
phát triển trong thời kỳ tạo Rift muộn Miocen dƣới- giữa. Nhƣ vậy, các đứt gãy hệ ĐB- TN
phát triển ở hai thời điểm khác nhau trùng với hai pha căng giãn.

CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM TƢỚNG ĐÁ- CỔ ĐỊA LÝ
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỘNG SINH TƢỚNG KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Qua việc phân tích đặc điểm trƣờng sóng trên mặt cắt địa chấn, ta thấy đặc điểm cộng sinh
tƣớng thay đổi theo không gian và thời gian:
-Chuyển tƣớng theo không gian

+Càng về phía Đông của khu vực nghiên cứu thì càng thấy rõ dấu hiệu phản ánh tƣớng biển
nông bao gồm: trầm tích hạt mịn, đá vôi phát triển rất mạnh, trƣờng sóng thể hiện phân lớp
ngang song song, liên tục.
-Chuyển tƣớng theo thời gian:
+ Việc phân tích đặc điểm cộng sinh tƣớng theo không gian thực chất đã bao hàm cả phân
tích tƣớng theo thời gian.
+ Do đặc điểm kiến tạo theo kiểu dao động mà các chu kỳ trầm tích ngoài các hệ thống trầm
tích biển thoái, biển tiến lớn theo khu vực, còn có các hệ thống trầm tích biển thoái, tiến xen
kẹp nhau tạo thành các chu kì trầm tích địa phƣơng.
3.2. PHÂN TÍCH TƢỚNG ĐÁ- CỔ ĐỊA LÝ
Bản đồ tƣớng đá- cổ địa lý là loại bản đồ tổng hợp những đặc điểm tƣớng và cổ địa lý của
một bể trầm tích và trên một lãnh thổ rộng lớn gồm những đặc điểm sau:
- Đặc điểm vùng xâm thực, ranh giới vùng xâm thực và vùng lắng đọng trầm tích.
- Quy mô phân bố các bể trầm tích và những đặc điểm tƣớng đá và tổ hợp cộng sinh tƣớng
theo thời gian và không gian.
- Hƣớng vận chuyển của vật liệu trầm tích từ vùng xâm thực đến bể trầm tích và các dòng bồi
tích trong bể nƣớc.
3.2.1. Đặc điểm tướng đá cổ địa lý giai đoạn đồng tạo Rift
Trong khu vực nghiên cứu, thời kỳ đồng tạo Rift diễn ra trong giai đoạn Oligocen ở pha 1 và
từ Miocen dƣới đến cuối Miocen giữa ở pha 2.
Thời kỳ Oligocen xảy ra rất nhiều các biến động lớn về mặt kiến tạo địa chất, là thời kỳ tạo
bể khiến cho các tập trầm tích đƣợc tích đọng rất dày ở vùng trũng. Nhƣng nguồn cung cấp
vật liệu cũng lại đƣợc lấy từ các khối nâng lớn nhƣ khối nâng Côn Sơn, khối nâng Đại Hùng
là những khối nâng nâng rất mạnh và liên tục trong giai đoạn này. Điều đó giải thích sự vắng
mặt trầm tích Oligocen ở hầu hết diện tích trên khối nâng. Các trầm tích Oligocen bị bào mòn
trên các khối nâng và bị vận chuyển xuống các vùng trũng hơn đã tạo nên một bình đồ thay
đổi tƣớng rất mạnh, nhanh và phức tạp.
Nhìn chung, các miền xâm thực với diện tích khổng lồ trong giai đoạn Oligocen đã tạo nên
rất nhiều các dòng cung cấp vật liệu trầm tích, với các hƣớng chủ đạo là từ Tây sang Đông
nhƣ hình trên. Các vật liệu trầm tích đƣợc các con sông bào mòn, mang đi, lắng đọng tại các

châu thổ ngầm ở độ sâu sâu hơn, ở đây là những khu vực chịu quá trình sụt lún lâu dài khiến
cho bề dày trầm tích Oligocen tại những trũng này rất dày.
3.2.2. Đặc điểm tướng đá cổ địa lý giai đoạn sau tạo Rift
Quá trình sau Rift diễn ra bắt đầu trong Miocen giữa và đến hết Miocen trên, bề dày trầm tích
Miocen trên không biến động quá lớn, chỉ tối đa là 2000m. Tuy nhiên, trên bản đồ cấu trúc và
trên mặt cắt địa chấn, căn nguyên của các pha biến dạng, oằn võng, nâng trồi và phá hủy các
tập trầm tích trƣớc đó lại xảy ra chủ yếu trong Miocen trên, đặc biệt xảy ra tại các khu vực
nƣớc sâu phần phía Nam khu vực nghiên cứu. Phân tích mặt cắt địa chấn cho thấy tập trầm
tích Miocen trên chủ yếu có tƣớng biển nông ở phần lớn diện tích, một chút tƣớng châu thổ ở
phía Tây khu vực nghiên cứu. Tƣớng không có sự biến đổi quá nhiều và ít bị biến dạng. Điều
này phản ánh những pha hoạt động nâng trồi, phát triển các đứt gãy sau trầm tích gây biến
dạng mạnh bể thứ cấp Miocen trên diễn ra vào giai đoạn cuối của Miocen trên.
3.2.3. Đặc điểm tướng đá cổ địa lý giai đoạn lún chìm nhiệt
Giai đoạn Pliocen- Đệ Tứ đánh dấu một hiện tƣợng kiến tạo quan trọng là lún chìm nhiệt,
điều này đã đem lại một không gian lắng đọng trầm tích tuyệt vời, để trầm tích lắng đọng có
thể phát triển mạnh về chiều dày, các vật liệu cung cấp trong thời kỳ này không phải dựa vào
nguồn vật liệu từ các khối nhô lớn nhƣ đới nâng Côn Sơn hay Đại Hùng nữa, mà do nguồn
vật liệu từ các con sông từ trong đất liền ngày nay đƣa ra.

CHƢƠNG 4. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA TẦNG PHÂN TẬP
4.1. PHÂN TÍCH ĐỊA CHẤN ĐỊA TẦNG
4.1.1. Phân chia ranh giới địa chấn địa tầng dựa trên tài liệu địa chấn
Khu vực nghiên cứu sử dụng các băng địa chấn đƣợc chuyển về hệ định vị chung là hệ
Mercatos- WGS84.
Với sự thay đổi lớn về mực nƣớc biển từ vài chục mét ở phần phía Tây lên đến 1500 m ở
phần phía Đông nhƣng chất lƣợng tài liệu rất tốt. Chiều sâu quan sát đƣợc của các tuyến địa
chấn trung bình đạt từ 500- 5500 ms.
Trên các mặt cắt địa chấn tiến hành phân tích, xác định các ranh giới địa chấn dựa trên các
đặc tính phản xạ và gián đoạn phản xạ ( cấu trúc địa chấn địa tầng nhƣ gá đáy, chống đáy,
v.v.), học viên đã xác định đƣợc 6 ranh giới địa chấn đƣợc minh họa trên tuyến địa chấn A19

nhƣ sau:
- Tầng màu đỏ- Nóc móng trƣớc Cenozoic:
Nóc móng trƣớc Cenozoic đƣợc xác định và nhận dạng dễ dàng trên mặt cắt địa chấn. Với
đặc điểm phản xạ có biên độ từ trung bình đến mạnh, hỗn độn và không liên tục, tần số từ
thấp đến trung bình.
- Tầng màu xanh đậm- Nóc Oligocen
Tầng này có phản xạ á song song, độ liên tục trung bình đến tốt, biên độ phản xạ mạnh và tần
số thấp thể hiện môi trƣờng tƣớng aluvi đến châu thổ. Ở một số nơi phản xạ địa chấn có biên
độ rất yếu, không liên tục có thể là do trong quá trình thu nổ hầu hết năng lƣợng sóng đã bị
hấp thụ bởi tầng Cacbonat phía trên.

- Tầng màu xanh nhạt- Nóc Miocen dƣới
Môi trƣờng trầm tích chủ yếu của Miocen dƣới khu vực nghiên cứu là biển nông, phát triển
mạnh tƣớng cacbonat do vậy mà trên mặt cắt địa chấn đã xác định đƣợc rất nhiều các phản xạ
có biên độ mạnh, liên tục, phân lớp từ thấp đến trung bình thể hiện các khối ám tiêu san hô
phát triển trên các khối nâng.
- Tầng màu xanh lá cây- Nóc Miocen giữa
Đặc điểm của tầng này có xu hƣớng chỉnh hợp lên tầng Miocen dƣới, đặc điểm địa chất cũng
không có sự thay đổi đáng kể về mặt môi trƣờng thành tạo hay các pha hoạt động đứt gãy nên
không có sự khác biệt rõ rệt để có thể phân chia tầng này với tầng Miocen dƣới một cách
chính xác.
- Tầng màu vàng- Nóc Miocen trên
Ở khu vực nƣớc sâu từ 100 đến 250 m nƣớc, đặc điểm phản xạ địa chấn của tầng trên chủ yếu
là phân lớp ngang song song, song song lƣợn sóng, biên độ phản xạ từ yếu đến trung bình, độ
liên tục tốt, tần số từ trung bình đến cao phản ánh môi trƣờng biển nông.
- Tầng Pliocen- Đệ tứ
Đặc điểm phản xạ địa chấn ở phần bên trái của hệ thống đứt gãy á kinh tuyến giống với tầng
Miocen trên với biên độ phản xạ từ trung bình đến mạnh, có sự xuất hiện của các cấu tạo nêm
lấn nhƣng với mật độ và cƣờng độ ít hơn, thay vào đó là các tập có phản xạ ngang song song,
độ liên tục cao, tần số lớn thể hiện môi trƣờng thành tạo là châu thổ cho đến biển nông.

4.1.2. Thành lập mô hình cấu trúc dựa trên tài liệu địa chấn đã minh giải
Học viên sử dụng phần mềm Petrel để thành lập mô hình 3 chiều độ sâu của các tầng móng,
Oligocen, Miocen dƣới, Miocen giữa và Miocen trên; các mô hình này đƣợc thành lập dựa
trên việc phân tích ranh giới địa chấn địa tầng các mặt cắt địa chấn sau đó thực hiện phƣơng
pháp nội suy Kriging để tạo ra mô hình. Từ các mô hình này có thể chuyển sang định dạng
ASCII và nhập dữ liệu vào trong Map Info để thành lập ra các bản đồ cấu trúc.
4.2. PHỤC HỒI LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT PHỤC VỤ PHÂN TÍCH ĐỊA
TẦNG PHÂN TẬP
Để nhìn lại lịch sử phát triển địa chất của một bể, nhất thiết phải sử dụng phƣơng pháp phục
hồi mặt cắt địa chất với việc phân tích định lƣợng bề dày, chiều dài mặt cắt qua các thời kỳ.
Và sự nhìn nhận đầy đủ đƣợc bức tranh phát triển địa chất của khu vực nghiên cứu sẽ tạo ra
đƣợc cách nhìn nhận tổng quát nhất về đặc điểm địa tầng phân tập ban đầu của các tập trầm
tích.
4.3. MỐI LIÊN HỆ TRONG PHÂN TÍCH ĐỊA TẦNG PHÂN TẬP VỚI HOẠT
ĐỘNG BIẾN DẠNG CÁC BỂ THỨ CẤP
4.3.1. Hoạt động biến dạng do đứt gãy sau trầm tích
4.3.2. Hoạt động biến dạng do đứt gãy đồng trầm tích
4.3.3. Hoạt động biến dạng do núi lửa
Các hoạt động núi lửa làm ảnh hƣởng vô cùng mạnh mẽ đối với các tập trầm tích nằm trên
chúng. Chúng phá hủy, trộn lẫn, làm mờ đi tất cả các ranh giới phức tập, nhóm phân tập của
các tập trầm tích nằm trên và kế cận.
4.3.4. Hoạt động biến dạng do ép trồi móng
Các hoạt động ép trồi móng thƣờng làm biến dạng các tập trầm tích tối đa đến vị trí nóc của
các đới nâng bị ép trồi. Chúng tạo ra các cấu tạo giả onlap của các tập trầm tích trƣớc đó lên
rìa đới nâng.
4.3.5. Hoạt động biến dạng do sụt lún
Các hoạt động sụt lún xảy ra chủ yếu trong giai đoạn lún chìm nhiệt. Trong khu vực nghiên
cứu, hoạt động sụt lún đã xảy ra đồng bộ và với cƣờng độ rất mạnh do hoạt động lún chìm
nhiệt trên. Các hoạt động này tạo ra hiện tƣợng dƣ thừa trầm tích, tạo không gian lắng đọng
trầm tích lý tƣởng để bề dày trầm tích có thể tăng nhanh nhất.

4.3.6. Hoạt động biến dạng do trượt bằng
Các đứt gãy trƣợt bằng tạo ra một sự thay đổi vô cùng lớn đến các quy luật phân bố trầm tích
trên mặt cắt địa chấn. Với những biểu hiện đặc biệt thể hiện qua sự khác nhau hoàn toàn về
đặc điểm phản xạ địa chấn, tƣớng trầm tích, bề dày trầm tích của cánh phía bên trái và bên
phải đứt gãy. Việc xác định đƣợc các biến dạng do trƣợt bằng cần đƣợc thực hiện trên 2 hoặc
nhiều mặt cắt để xác định đó là đứt gãy trƣợt bằng trái hay phải.
4.4. PHÂN TÍCH ĐỊA TẦNG PHÂN TẬP TRÊN MẶT CẮT ĐỊA CHẤN DỰA
TRÊN TỔNG HỢP CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC VÀ BIẾN DẠNG
4.4.1. Phân tích mặt cắt địa tầng phân tập trong bối cảnh địa chất ít hoạt động kiến
tạo
Tại mặt cắt trên, các tập trầm tích đƣợc thành tạo trong Pliocen- Đệ Tứ có quy luật phân bố
rất trật tự theo chu kỳ xen kẽ với tập trầm tích biển thấp ở dƣới cùng, tiếp đến là các tập trầm
tích biển tiến và cuối cùng là trầm tích biển cao để hoàn thiện một phức tập.
4.4.2. Phân tích mặt cắt địa tầng phân tập trong bối cảnh địa chất chịu biến dạng
của nhiều pha hoạt động kiến tạo
Mặt cắt trên cho thấy các dấu hiệu để phân chia đƣợc các ranh giới miền hệ thống trầm tích
các trầm tích cổ nhƣ Oligocen dƣới, Oligocen trên cũng nhƣ Miocen dƣới, giữa vô cùng khó
khăn do khu vực nghiên cứu chịu quá trình phát triển các đứt gãy đồng tạo Rift trong suốt
Oligocen và Miocen dƣới, sau đó lại bị oằn võng, phá hủy vào Miocen giữa, trên và cuối
cùng là pha sụt lún nhiệt làm toàn bộ các cấu tạo trên bị sụt lún mạnh.
Các đứt gãy ở mặt cắt trên phát triển từ cuối Miocen giữa đến đầu Miocen trên đã phá hủy hết
các cấu trúc trầm tích trƣớc đó, khiến các tập trầm tích bị oằn võng, bào mòn mạnh tức là mất
đi phần lớn các tập trầm tích thuộc hệ thống trầm tích biển tiến, cao của Miocen giữa tại nóc
khối nâng. Sự biến mất của miền hệ thống trầm tích biển tiến, cao này của Miocen giữa rất
khác so với bản chất chúng không có tập trầm tích trên mà phải dựa vào mặt cắt phục hồi để
đánh giá lại môi trƣờng trầm tích, cơ chế lắng đọng, địa hình cổ của khối nhô trên thì mới có
đƣợc kết luận chính xác vì sao lại mất các miền hệ thống trầm tích biển tiến, biển cao.
4.4.3. Phân tích địa tầng phân tập trong bối cảnh sụt lún và dư thừa vật liệu trầm
tích
Sự sụt lún và dƣ thừa trầm tích tạo ra một loạt các cấu tạo nêm lấn xếp chồng lấn lên nhau,

tuy nhiên sự xếp chồng đó có thể đƣợc chia làm hai loại. Loại thứ nhất là theo quỹ đạo của
điểm offlap break thì cấu trúc phủ chồng lấn (Progradational) giảm dần trong khi phủ chồng
đứng (Aggradational) tăng dần. Còn loại thứ hai thì ngƣợc lại, cấu trúc phủ chồng lấn tăng
dần trong khi phủ chồng đứng giảm dần.

CHƢƠNG 5. TRIỂN VỌNG DẦU KHÍ
5.1. HỆ THỐNG DẦU KHÍ
5.1.1. Tiềm năng đá sinh
Các trầm tích Oligocen và Miocen của khu vực nghiên cứu đƣợc thành tạo trong 2 môi
trƣờng cơ bản:
- Môi trƣờng tam giác châu có chế độ oxy hóa và khử yếu chứa kerogen loại III (thực vật bậc
cao).
- Môi trƣờng đầm hồ lắng đọng trong điều kiện khử chứa Kerogen loại II (động vật biển và
một số loài tảo chứa chất sáp và lipit).
5.1.2. Đá chứa
Đối tƣợng đá chứa chủ yếu gồm đá móng nứt nẻ trƣớc Cenozoic, các vỉa cát kết Oligocen-
Miocen dƣới và đá vôi ám tiêu san hô tuổi Miocen giữa.
5.1.3. Tiềm năng đá chắn
Trên cơ sở tài liệu giếng khoan tại một số giếng khoan ở bể Nam Côn Sơn có thể dự báo
trong khu vực nghiên cứu tồn tại hai tầng đá chắn: tầng đá chắn địa phƣơng và tầng đá chắn
khu vực.
Trong vùng nghiên cứu đá chắn địa phƣơng là các tập trầm tích hạt mịn bao gồm sét, bột, sét
than và sét vôi của trầm tích Oligocen và Miocen hạ nằm xen kẽ với các tập hạt thô.
Ðá chắn có tính khu vực là các trầm tích hạt mịn tuổi Pliocen dƣới có bề dày vài chục
mét, đƣợc thành tạo trong môi trƣờng biển.
Ngoài các tầng đá chắn đã nêu trên, vai trò của các mặt trƣợt đứt gãy trong khả năng chắn
cũng cần đƣợc quan tâm nghiên cứu, điều này đã đƣợc chứng minh tại một số giếng khoan ở
bể Nam Côn Sơn (mỏ Ðại Hùng, mỏ Rồng Ðôi - Rồng Ðôi Tây).
5.1.4. Bẫy chứa
Có thể tồn tại 2 loại bẫy chứa: bẫy cấu tạo và bẫy địa tầng:

Bẫy cấu tạo:
Các khối - đứt gãy kiến tạo đặc trƣng cho các hoạt động căng giãn xảy ra từ Paleocen đến
Miocen dƣới, giữa. Các khối đứt gãy nghiêng thƣờng rất phổ biến, chúng khép kín 3 chiều
với đứt gãy hoặc khép kín 2 chiều với 2 đứt gãy.
Các cấu tạo vòm phát triển hoặc do hệ quả của nén ép ngang của các đứt gãy căng giãn hoặc
do sự nghịch đảo của các cấu trúc âm mà không làm biến dạng các đứt gãy. Thông thƣờng
các bẫy này phát triển ở cánh treo của đứt gãy lớn do hệ quả của nén ép ngang và quá trình cố
kết tạo đá. Các bẫy dạng kế thừa địa hình cổ của móng nhô cao, có khép kín 4 chiều hoặc
khép kín nhờ đứt gãy.
Móng nứt nẻ: Dạng bẫy này liên quan đến đỉnh các khối địa luỹ và các khối đứt gãy xoay.
Các bẫy dạng này có thể khép kín 3 chiều nhờ đứt gãy, hoặc khép kín 2 chiều và đứt gãy.
Loại bẫy này rất phổ biến và có triển vọng dầu khí.
Bẫy địa tầng:
Các thể quạt bồi tích - sông: bẫy hình thành do biến đổi tƣớng đá theo bề ngang của các quạt
bồi tích (từ cát kết sang sét bột hoặc sét).
Các quạt ở sƣờn dốc lục địa: bẫy hình thành do biến đổi tƣớng đá theo bề ngang do dốc lục
địa (từ cát kết sang sét bột hoặc sét).
Các vát nhọn địa tầng: Bẫy chứa đƣợc xác định trong khu vực nghiên cứu là các thân cát tuổi
Oligocen, Miocen dƣới, địa hình vát nhọn về phía các cấu trúc nhô cao hơn. Chắn cho các
bẫy dạng này là các tập sét xen kẽ (địa phƣơng).
Các bẫy nằm dƣới bất chỉnh hợp góc do bào mòn: Bẫy dạng này hình thành do sự vát nhọn ,
bào mòn của các tập cát kết bị nâng lên do có thế nằm dốc nghiêng. Tầng chắn cho đối tƣợng
này là các tập sét xen kẹp và các tập sét kết, bột kết phủ trên nó.
Bẫy khối đá vôi: các thể đá vôi khối xây phát triển trên các địa luỹ hoặc trên các cánh cao của
các cấu tạo dạng khối đứt gãy, đƣợc khép kín bởi 2, 4 phía đứt gãy. Tuy nhiên trong khu vực
nghiên cứu cần lƣu ý tới các khối đá vôi phát triển trong Miocen trên là đối tƣợng chứa khá
tiềm năng bởi có tầng chắn Pliocen- Đệ Tứ khá dày ở phần trũng sâu. Ngoài các loại bẫy địa
tầng kể trên thì các thể ám tiêu san hô phát triển ở các rìa thềm đá vôi. Chúng thƣờng có độ
rỗng và độ thấm cao và có thể biến đổi theo chiều ngang bởi các thể bùn vôi tƣớng hồ rắn
chắc, các tập sét tƣớng biển khơi.

5.1.5. Sự di chuyển của dầu khí
Có 2 giai đoạn di cƣ chính:
- Pha di cƣ Hydrocacbon đầu tiên của đá mẹ Oligocen diễn ra trong thời gian khoảng 24 triệu
năm trƣớc, di cƣ mạnh mẽ trong khoảng thời gian từ 21-18,5 triệu năm trƣớc tức là khoảng
thời gian cuối Oligocen - đầu Miocen dƣới
- Pha di cƣ thứ 2 xảy ra trong khoảng thời gian từ 10-7 triệu năm trƣớc tức là khoảng thời
gian Miocen giữa.
Ngoài ra, các đứt gãy trong vùng nghiên cứu vừa đóng vai trò chắn, vừa đóng vai trò là
đƣờng dẫn Hydrocacbon tới bẫy. Với mật độ các đứt gãy phân bố tƣơng đối dày trong vùng
sẽ thuận lợi cho dịch chuyển dầu khí từ những khu vực sinh ở dƣới sâu vào bẫy.
5.1.6. Triển vọng dầu khí theo quan điểm địa tầng phân tập
Trên cơ sở các miền hệ thống của địa tầng phân tập có thể xây dựng đƣợc các tiền đề đánh
giá tiềm năng và triển vọng dầu khí:
- Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST): Quá trình biển thoái xuất hiện các tƣớng
cát cồn chắn cửa sông, bãi triều cát là những tầng chứa chất lƣợng tốt.
- Miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST): Hình thành các tầng sinh dầu khí tốt
thuộc tƣớng đầm lầy ven biển và vũng vịnh và tầng chắn dày không thấm thuộc tƣớng biển
nông nhƣ đá vôi ám tiêu v.v.
- Miền hệ thống trầm tích biển cao (HST): Là điều kiện thuận lợi tạo môi trƣờng
châu thổ chuyển tiếp phát triển các tƣớng cát cồn chắn cửa sông, cát bãi triều, cát cồn sông
chọn lọc và mài tròn tốt là các tầng chứa chất lƣợng tốt. Các tƣớng sét đầm lầy chứa than ven
biển là các tầng sinh khí tốt.

KẾT LUẬN
1. Trầm tích Cenozoic bao gồm 5 phức tập gồm: Oligocen, Miocen dƣới, Miocen
giữa, Miocen trên và Pliocen- Đệ Tứ trong đó trầm tích Oligocen và Miocen dƣới thuộc pha
đồng tạo rift còn trầm tích Miocen giữa và Miocen trên thuộc pha mở rộng, sụt lún và oằn
võng, cuối cùng là pha tạo thềm xảy ra trong Pliocen- Đệ Tứ.
2. Các đứt gãy trong khu vực chủ yếu có hƣớng ĐB- TN, chúng là những đứt gãy cấp
2 phát triển trong 2 pha tạo rift sớm (Eocen- Oligocen) và pha tạo rift muộn (Miocen dƣới-

giữa)
3. Các hoạt động biến dạng do các yếu tố kiến tạo thể hiện ở chƣơng 4 đã ảnh hƣởng
rất mãnh liệt lên đặc điểm lắng đọng của trầm tích. Các hoạt động biến dạng này lại mang
tính tích dồn ảnh hƣởng, tức là các trầm tích càng cổ và càng chịu nhiều các pha biến dạng
kiến tạo thì càng khó để phân tích địa tầng phân tập.


References
1. Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh, 1986. Liên hệ địa tầng trầm tích Đệ tam các bể dầu khí Việt
Nam, Lƣu trữ VDK (Đ/c 137).
2. Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh, 1993. Địa tầng trầm tích Đệ tam thềm lục địa Việt Nam. Lƣu
trữ VDK.
3. Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh. 1996. Báo cáo nghiên cứu địa tầng các giếng khoan miền
trũng Hà Nội, Vịnh bắc Bộ, miền Trung, bể Cửu Long và Nam Côn Sơn. Lƣu VDK.
4. Đỗ Bạt, 2000. Địa tầng và qúa trình phát triển trầm tích Đệ tam thềm lục địa Việt Nam.
Hội nghị KHKT 2000 - ngành Dầu khí trƣớc thềm thế kỷ 21.
5. Nguyễn Thị Dậu và nnk, 2000. Mô hình địa hóa bể Nam Côn Sơn. Lƣu trữ VDK.
6. Trịnh Dánh, 1995. Stratigraphic correlation of Neogen sequence of Vietnam and adjacent
areas. J. Geology, B/5-6, 114-120, Hanoi.
7. Đặng Văn Bát, Cù Minh Hoàng, Nguyễn Thị Anh Thơ, 2007. Địa tầng Paleogene ở bồn
trũng Nam Côn Sơn. Tạp chí Dầu khí.
8. Trần Nghi,2012. Trầm tích học (tái bản lần thứ nhất). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
9. Trần Nghi, 2005. Địa chất biển. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
10. Tạ Trọng Thắng, 2009. Bài giảng Địa chất Dầu khí đại cương.
11. Mai Thanh Tân, 2007. Thăm dò địa chấn trong địa chất dầu khí.
12. David willmore, Nguyễn Giao, Nguyễn Trọng Tín, 1991. Petroleum Geology and
hydrocarbon Potential of Nam Con Son basin. Lƣu trữ viện dầu khí.
13. Biển Đông-Chuyên khảo tập III. Địa chất-địa vật lý biển. Chƣơng trình điều tra nghiên
cứu biển KHCN-06. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
14. Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý biển, tập III. Hà Nội, 1993

15. Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý biển, tập IV. Hà Nội, 1996.
16. Các thành tạo magma - Địa chất Việt Nam. Tổng Cục Địa chất Việt Nam, 1995.







×