Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.43 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
000


GIÁO SƯ - TIẾN SỸ KHOA HỌC NGUYÊN VĂN HỘ




XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC











HÀ GIANG, NGÀY 27/6/2004
Phần I
NHŨNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC
I. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của xã hội học
1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học (XHH) là xã hội loài người, trong đó quan


hệ xã hội (tương quan xã hội) được xuất phát từ con người xã hội (XH) và được biểu
hiện thông qua các sinh hoạt XH, lao động và hành vi XH giữa người với người.
- Tìm hiểu tính quy luật trong quan hệ giữa người với người (trong gia đình, bạn
bè, cộng đồng). Tính quy luật ấy còn được gọi là hình thái biểu hiện XH do con người
XH và vì con người XH. Trong cùng một tình huống, tuỳ thuộc vào vị thế XH mà có
cách ứng xử khác nhau.
- Tìm hiểu hệ thống XH, cơ cấu XH (mối quan hệ giữa cá nhân trong tương quan
XH với nhóm, với cộng đồng diễn ra như thế nào).
+ Tìm hiểu nhóm cộng đồng (giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, trình
độ văn hoá ). Các chuẩn mực, giá trị, thiết chế XH, bản sắc văn và những khuôn mẫu,
chuẩn mực hành động xã hội của mỗi nhóm người).
2. Quan hệ giữa XHH với các khoa học khác: là một khoa học thuộc hệ thống
khoa học xã hội, XHH liên quan mật thiết đến nhiều khoa học trong hệ thống khoa học
XH như Triết học, Tâm lý học, Nhân chủng học
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở chung của XHH - là phương pháp luận cơ
bản khi xem xét, đánh giá các hiện tượng xã hội.
(Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về XH và phát triển XH; vận dụng các
phạm trù, khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, phân tích, rút ra các kết
luận về các vấn đề tương quan trong XHH).
- Các hệ thống khác nhau của những quan hệ XH và các lĩnh vực, các mặt khác
nhau của đời sống XH cũng trở thành đối tượng của các chuyên ngành XHH khác
nhau: XHH nông thông, XHH đô thị, XHH giới, XHH giáo dục, XHH tội phạm v.v
- XHH nghiên cứu cụ thể những hình thức quan hệ XH như lối sống, đời sống cá
nhân, cơ cấu XH, những lĩnh vực của đời sống XH như sinh hoạt văn hoá, gia đình,
giáo dục, dân số, dân cư v.v
- Các khoa học khác có liên quan đến XHH như:
+ Khoa học chính trị (nghiên cứu về quyền lực, quản lý XH)
+ Kinh tế học (nghiên cứu về sản xuất, phân phối, tiêu dùng, hàng hoá và dịch
vụ)


2
+ Nhân chủng học bao gồm khảo cổ học (nghiên cứu những gì còn lại của nền
văn minh đã mất).
+ Ngôn ngữ học (nghiên cứu về tiếng nói và chữ viết)
+ Nhân chủng học tự nhiên (nghiên cứu về quá trình tiến hoá của nhân loại về
mặt vật chất).
+ Nhân chủng học XH và văn hoá (nghiên cứu về văn hoá học và nghiên cứu các
phương thức sống của các cộng đồng trên thế giới).
Trong quá trình nghiên cứu XHH có 3 yếu tố thường gây khó khăn đó là:
+ Tính chất phức tạp về nội dung XH với ý nghĩa là đối tượng nghiên cứu XHH.
+ Tính chất đa dạng, phức hợp trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội.
+ Tính chất vận động và phát triển (tính chất động) của các phương pháp, giải
pháp đối với các vấn đề XH (khác với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật).
3. Cơ cấu XHH: Tất cả các khoa học nghiên cứu về XH (đều lấy XH làm đối
tượng nghiên cứu) đều là những khoa học XH, trong đó có XHH. Song, không phải
mọi khoa học xã hội đều là XHH.
Các khoa học về XH như Triết học, Lịch sử học, Địa lý nhân văn, Văn hóa học,
Kinh tế chính trị học, Đạo đức học, Mỹ học, Lý luận về nhà nước và pháp quyền. . . là
các ngành học trong hệ thống KHXH, nhưng chúng là những KH độc lập, có đối
tượng, phương pháp nghiên cứu riêng, độc lập với XHH.
- Trong nghiên cứu XHH, có thể có ba mức độ (phạm vi) nghiên cứu:
+ Nghiên cứu cơ cấu tổng thể XH (chẳng hạn từ tính chất, đặc điểm của hình thái
kinh tế xã hội mà chia thành XH nô lệ, phong kiến, tư bản (nghiên cứu ở cấp độ này
là nghiệm vụ của XHH vĩ mô).
+ Nghiên cứu sự vận hành của cơ chế XH, các tập hợp XH (nhóm, cộng đồng )
trong quá trình quản lý XH.
+ Nghiên cứu cá nhân với tư cách cách là con người XH trong các mối tương
quan XH, đó là XHH vi mô.
* Các cấp độ nghiên cứu của XHH:
- XHH đại chúng: là cấp độ cơ bản của lý thuyết XHH, của KH về các quy luật

hoạt động và phát triển XH, về mối liên hệ vốn có giữa các yếu tố hợp thành hệ thống
XH.
- XHH chuyên ngành: là một bộ phận của XHH, trong đó áp dụng lý luận XHH
vào nghiên cứu các mặt khác nhau, sự vận động và phát triển của XH trong một giới
hạn xác định (nông thôn, đô thị, nông nghiệp, giới )
+ XHH chuyên ngành là cấp độ KH nghiên cứu các mối quan hệ XH có tính chất

3
bộ phận phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống XH.
+ Lý luận XHH chuyên ngành là khâu trung gian gắn lý luận XHH đại cương với
NC các hiện tượng của đời sống XH ở các mặt khác nhau.
+ XHH chuyên ngành có 4 nhóm:
Yếu tố XHH: văn hoá, cấu trúc XH, XH hoá, tương tác XH, sự lệch chuẩn, sự
kiểm soát XH, các cộng đồng dân cư.
Bất bình đẳng XH: sự phân tầng của các giai cấp, bất bình đẳng dân tộc và chủng
tộc, vai trò của giới và bình đẳng theo giới, bất bình đẳng theo lứa tuổi.
Thiết chế XH: gia đình, tôn giáo, giáo dục, chính trị, kinh tế
XH biến cách: tính năng động XH, hành vi tập thể, các phong trào XH, chuẩn
mực XH, các biến đổi XH.
- XHH thực nghiệm (XHH cụ thể): là một bộ phận nghiên cứu XHH, trong đó
các kết luận XHH về XH được rút ra từ trực tiếp quan sát, trắc nghiệm, thực nghiệm,
kiểm chứng thực tế đối với các đối tượng XH.
4. Chức năng của XHH :
- Nhận thức
- Thực tiễn
5. Tư tưởng
Nhiệm vụ của XHH
- Nghiên cứu các hình thức biểu hiện và cơ chế hoạt động của các quy luật hoạt
động của xã hội, của phát triển xã hội nói chung.
- Phục vụ cho công tác tổ chức, quản lý XH trực tiếp và gián tiếp.

II. Các hình thức biểu hiện cơ bản của cấu trúc XH:
1. Cấu trúc XH - GC:
Là kết cấu và mối liên hệ XH giữa các giai cấp và phân chia GC dựa trên các yếu
tố cơ bản như: quan hệ sở hữu về TLSX; vị trí XH của con người trong hệ thống sản
xuất và tổ chức lao động XH; phân phối lợi ích XH; nghĩa vụ và quyền lợi của mọi
người trong đời sống XH.
(Có thể xem cấu trúc này là hạt nhân của cấu trúc XH, bởi nó quy định bản chất
và tính chất của các mối quan hệ và cấu trúc xã hội khác).
2. Cấu trúc XH - lao động (nghề nghiệp):
Là kết cấu và mối liên hệ giữa các lực lượng lao động, các ngành nghề lao động
khác nhau trong xã hội, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công
lao động XH.

4
(Là biểu hiện cụ thể của quá trình phá triển kinh tế của XH. Nó quan tâm đặc biệt
tới mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các tập hợp lao động nghề nghiệp - lao động
chân tay, lao động trí óc, lao động quản lý; giữa lao động thủ công và lao đông kỹ
thuật; lao động thực hành và lao động lý thuyết; lao động công nghiệp - lao động nông
nghiệp - lao động dịch vụ) . 3. Cấu trúc xã hội - dân số:
Là kết cấu và mối liên hệ XH trong thực tại của tái sản xuất nhân khẩu (mức
sinh, mức tử) của tỷ lệ các mức tuổi, của chỉ số giới tính, của mật độ dân số, của biến
động dân cư - di dân, của quy mô gia đình và quan hệ thế hệ (họ tộc). (Nó bị chi phối
bởi bản chất, quy luật và thực trạng của tự nhiên, đồng thời nó bị chi phối và quy định
bởi con người và xã hội).
III. Đặc điểm của cấu trúc XH:
Cấu trúc xã hội có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Nó là một tập hợp các yếu tố tạo thành xã hội như (các nhóm xã hội, các tầng
lớp XH, các giai cấp, các dân tộc, các cộng đồng XH, v.v ) được liên kết với nhau tổ
chức một cách thống nhất. Sự liên kết này có tính bền vững tương đối phản ánh một
kiểu loại XH xác định.

Nhiệm vụ của XHH khi nghiên cứu cấu trúc xã hội là phải tìm ra các yếu tố cấu
thành xã hội. Các quy luật chi phối mối quan hệ giữa chúng và trật tự sắp xếp chúng
theo thứ bậc)theo đặc thù riêng của kết cấu - tổ chức xã hội.
2. Cấu trúc xã hội tồn tại trong sự vận động, thống nhất biện chứng của hai thành
phần chủ yếu tạo nên hệ thống XH, đó là các thành phần, tập hợp xã hội và các mối
liên hệ tồn tại giữa các thành phần, tập hợp xã hội đó. Các thành phần, tập hợp XH có
tính độc lập tương đối nhưng chỉ tồn tại nhờ các mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa
chúng và ngược lại, những mối liên hệ XH chỉ tồn tại nhờ sự có mặt của các thành
phần và tập hợp XH.
3. Cấu trúc xã hội với sự vận động biện chứng của hai thành tố nêu trên tạo nên
cơ sở cho sự hiện diện của một xã hội tương ứng bao gồm trong nó những con người
xã hội, vị thế và vai trò cua nó trong xã hội, những nhóm XH và địa vị của mỗi giai
cấp, các hành động và tương tác xã hội, các thiết chế XH, chuẩn mực XH, tổ chức XH,
biến đổi và phát triển XH, và ngay cả những lĩnh vực cụ thể của XH như kinh tế, văn
hoá, giáo dục, đạo đức, tôn giáo v.v Tất cả những yếu tố xã hội tồn tại trong một cấu
trúc XH cụ thể luôn vận động trong sự thống nhất và đôi khi có sự xung đột, tạo nên
quá trình phát triển của mỗi hình thái cấu trúc xã hội xác định.
- Cấu trúc xã hội là một tổng thể các yếu tố, các thành phần của hệ thống XH nhờ
sự liên kết có tính thống nhất bền vững tương đối, ổn định tạm thời. Các yếu tố, các
thành phần, tạo nên mặt nội dung của cấu trúc luôn biến đổi, còn các mối liên hệ giữa
chúng - cấu trúc XH có khuynh hướng chủ đạo là ổn định và bền vững tương đối. Tuy
nhiên, trong những chừng mực nhất định, khi nội dung xã hội biến đổi, đến một mức

5
độ nào đó, sẽ kéo theo sự biến đổi tương ứng của cấu trúc xã hội.
IV. Các hình thức biểu hiện cơ bản của cấu trúc xã hội:
1. Tập hợp xã hội:
Là một hình thức quan hệ XH giữa những con người XH theo nhu cầu, lợi ích và
mục đích XH nhất định. Nó được thể hiện dưới các dạng:
- Nhóm XH: là một tập hợp XH, trong đó các cá nhân XH liên hệ với nhau theo

những tính chất XH nhất định
+ Huyết thống, dòng họ: nhóm gia đình, nhóm họ tộc
+ Lứa tuổi hay giới tính: thanh niên, phụ nữ
+ Lao động nghề nghiệp: nông dân, kinh doanh
+ Chính trị hay tổ chức chính trị: giai cấp, chính trị
+ Văn hoá: NCKH, nghệ thuật
+ Chức năng XH: giáo dục, quản lý nhà nước
+ Vùng lãnh thổ: đô thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi
. Về mặt lượng: nhóm có thể rất rộng; có thể rất hẹp; về thời gian, tồn tại trong
thời gian dài: tạm thời
. Về chất: có nhóm phức tạp (dân tộc, quốc gia); có nhóm đơn giản: gia đình
. Khi nhu cầu, lợi ích của các thành viên trong nhóm không còn thống nhất, đã
biến đổi, lúc đố cấu trúc XH trở nên lỏng lẻo, biến đổi và tự giải thể → biến dạng và
biến mất của nhóm.
. Về hình thức: nhóm nhỏ (nhóm hẹp): là một tập hợp XH gồm ít người, trong đó
các thành viên quan hệ trực tiếp, ổn định tương đối với nhau trên cơ sở những chuẩn
mực, giá trị có tính sâu sắc, bền vững về tình cảm, về nhận thức, ý thức, hành động,
hành vi.
Nhóm lớn (nhóm rộng): là một tập hợp nhiều thành viên quan hệ gián tiếp với
nhau trên cơ sở những chuẩn mực phát triển giá trị XH chung có tính phổ quát về đời
sống vật chất và đời sống văn hoá (quốc gia, dân tộc, vùng dân cư) .
(Theo các tiêu chí nhất định, còn có thể phân thành các loại nhóm: cặp nhóm:
nhóm mẹ - nhóm con; nhóm chính - nhóm phụ; nhóm ổn định - nhóm biến động;
nhóm tích cực - nhóm tiêu cực; nhóm truyền thống - nhóm hiện đại) . . .
- Cộng đồng XH: là một tập hợp XH, trong đó các cá nhân XH liên hệ với nhau
theo những cơ sở, điều kiện tồn tại hoạt động nhất định, theo những quan niệm thống
nhất về văn hoá, giá trị XH.
(Trình độ lao động sản xuất, mức sống vật chất, tinh thần, dân trí, giáo dục,

6

truyền thống lịch sử, lối sống; phong tục tập quán, tín ,ngưỡng, quan niệm chính trị
đạo đức, pháp quyền, thẩm mĩ, tôn giáo, văn hóa, giáo dục v v. )
. Về lượng: có thể rất rộng (khu vực châu lục); hẹp (làng xã, bộ tộc) Có cộng
đồng được thành lập do nhiều cơ sở, điều kiện xã hội (cộng đồng quốc gia, vùng lãnh
thổ). Có cộng đồng thành lập do một số cơ sở, điều kiện thống nhất (kinh tế, ngôn
ngữ)
. Có cộng đồng được xác lập từ truyền thống lịch sử (dân tộc - sắc tộc) Có cộng
đồng được xác lập theo nhu cầu lợi ích mới nảy sinh trong thực tại XH (cộng đồng
chính trị, hội nhập- giao lưu văn hoá).
. Phân loại: về phạm vi quy mô (lớn, nhỏ)
- Tính chất hoạt động (kinh tế, văn hoá, chính trị, tôn giáo)
- Cơ sở điều kiện cấu thành cộng đồng có cộng đồng tự nhiên - XH (dân tộc,
quốc gia, khu vực), cộng đồng văn hoá ý thức (văn hoá, ngôn ngữ).
- Tổ chức xã hội: là một tập hợp xã hội, trong đó các cá nhân XH liên hệ với
nhau theo một mục tiêu chung, một hệ thống thứ bậc các thành viên và các cáp độ
quản lý.
. Đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức XH là mục tiêu XH (kinh tế, chính trị, văn
hoá, đạo đức, khoa học, nghệ thuật).
* Liên hệ XH: là một yếu tố cơ bản của cấu trúc XH, trong đó các cá nhân tác
động lẫn nhau một cách chủ động, có ý thức. Liên hệ XH được biểu hiện dưới những
dạng cụ thể sau:
* Các địa vị (vị thế xã hội): địa vị theo cách hiểu thông thường đó là sự xác định
thứ bậc của một cá nhân trong cộng đồng dựa trên một số cơ sở tiền đề, chẳng hạn
như: cái có được về vật chất (tiền của), về ảnh hưởng và uy tín của họ với các cá nhân
khác. Địa vị không chỉ tồn tại trong nhóm hoặc trong một XH nói chung mà nó còn
được tồn tại trong những cấu trúc xã hội khác nhau, chẳng hạn như một cá nhân có thể
có địa vị của một người mẹ, một người bạn, một giáo sư, một khách hàng v.v tuỳ
theo mối quan hệ của họ trong quá trình hoạt động. Điều đó có nghĩa là một địa vị
không phải là một chiếm hữu cá nhân nhưng là một quan hệ với những người khác.
Một số địa vị được quy định bởi nhóm xã hội (lứa tuổi, giới tính tôn giáo, chủng tộc,

dòng dõi xuất thân v.v ) khiến cho cá nhân có các địa vị đương nhiên được xã hội
thừa nhận: tuổi kết hôn; con trai, con gái; đệ tử, co chiến, cha cố; người da mầu; tiểu
nhân, quân tử v.v Đây được coi là địa vị gán cho (các mối quan hệ XH gửi gắm cho
mỗi cá nhân). Một số địa vị mà cá nhân đạt được nhờ sự nỗ lực của chính bản thân họ,
đó chính là những địa vị đạt được (các chức vụ trong hệ thống quản lý; các chức danh
trên con đường học vấn v.v ). Như vậy, mỗi cá nhân có thể chiếm giữ nhiều địa vị
khác nhau vì mối địa vị có một sự phù hợp với những mối quan hệ xã hội mà cá nhân

7
đó tham gia. Tuy nhiên, một khi cá nhân chiếm giữ một tập hợp địa vị, thì địa vị nào
có tác dụng quan trọng hơn cả, có khả năng làm lu mờ những địa vị khác của cá nhân,
khi đó, địa vị quan trọng này được coi là địa vị chủ chốt.
2. Vai trò XH: Trên mỗi địa vị xác định, con người được xã hội trao cho các
quyền, các nghĩa vụ và mong đợi ở họ thể hiện đúng địa vị mà họ có được. Tập hợp
các mong đợi, các quyền, và những nghĩa vụ được gắn cho một địa vị cụ thể nhằm xác
định hành vi của mỗi cá nhân được gọi là vai trò. Những hoạt động thực tiễn của mỗi
người nhằm khẳng định địa vị của mình trong các mối quan hệ XH được coi là quá
trình thực hiện vai trò. Trong quá trình thực hiện này, cá nhân có thể đạt tới sự phù
hợp giữa địa vị và vai tròm, xong cũng có thể xảy ra trường hợp ngược lại (xuất hiện
khoảng cách giữa sự mong đợi của XH và kết quả mà cá nhân đạt tới). Đây là điều
thường thấy khi con người thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi mà XH mong đợi ở họ.
Một địa vị có thể bao gồm nhiều vai trò, tạo nên một tập hợp vai trò (địa vị của
một đứa con trong gia đình trong quan hệ với cha mẹ, là người anh, người chị trong
quan hệ với các em, là người chú, người bác trong quan hệ với họ tộc v.v ).
Sự tồn tại vai trò của cá nhân luôn luôn gắn bó và được quy định bởi hành động
của người khác (không có nhân viên thì không có vai trò thủ trưởng, không có vợ thì
không có vai trò của người chồng, không có người mua thì không có vai trò của người
bán v.v ).
Sự tồn tại của vai trò còn liên quan tới những chuẩn mực xã hội, đó là những
nghĩa vụ (là những hoạt động của cá nhân mà người khác có quyền đòi hỏi), đó là

những quyền lợi (là những hoạt động mà cá nhân đòi hỏi người khác phải thực hiện).
Như vậy, mỗi vai trò đều tồn tại trong nó một vai trò của người đáp ứng (nghĩa vụ đối
với người khác) và tiếp nhận (quyền lợi mà người khác phải đáp ứng).
Trong thực tế, cá nhân ít khi chỉ đóng một vai trò duy nhất mà thường tham gia
thực hiện một số vai trò nào đó. Khi thực hiện những vai trò này có thể xuất hiện
những xung đột giữa việc tiếp nhận trong vai trò của quan hệ này với nghĩa vụ trong
vai trò của một quan hệ khác (sự mong đợi tình cảm của người vợ trong mối quan hệ
vợ chồng, với nghĩa vụ của người lính trong quan hệ của mình với đất nước), hoặc đôi
khi vì thực hiện những vai trò được nhiều người mong đợi và bị đòi hỏi quá nhiều, cá
nhân sẽ luôn ở trong trạng thái căng thẳng, đòi hỏi có sự nỗ lực vượt bậc mới có thể
đảm bảo được vai trò mà mình đang đóng.
3. Các nhóm XH: Khi các cá nhân liên kết với nhau (ít nhất từ hai người trở lên)
trên cơ sở của những tình cảm, những suy nghĩ tương đối thống nhất, có những hoạt
động tương tác xã hội tương đồng nhằm đạt tới cùng một mục tiêu nào đó, khi đó sợi
dây liên kết giữa cá nhân tạo nên một nhóm xã hội. Những nhóm XH này có các thuộc
tính sau:
+ Các quan hệ giữa các vai trò được diễn ra trong những quy chuẩn phản ánh

8
quyền lợi và nghĩa vị chung nhất của mọi thành viên thuộc nhóm (nhóm gồm những
sinh viên có quyền lợi học tập nghề nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện những quy định của
nhà nước về đào tạo).
+ Mỗi nhóm có những giá trị và các chuẩn mực riêng về văn hoá mà mỗi cá nhân
thuộc nhóm có trách nhiệm gìn giữ, hoàn thiện và phát triển.
Căn cứ vào các thuộc tính trên, các nhóm XH không phải là tập hợp tạm thời của
một số cá nhân (cho dù tập hợp đó có cùng mục đích - chẳng hạn như xếp hàng mua xé
xem phim; rủ nhau đi lễ hội ), nhóm XH cùng không phải là một loại (bao gồm tuổi,
giới tính, chủng tộc, nghề nghiệp, học vấn). Những thành viê thuộc nhóm có thể khác
nhau về loại như tuổi tác, giới tính, chủng tộc v.v nhưng giữa họ vẫn tạo thành một
liên kết nhờ ở họ có những thuộc tính chung như đã biết.

Mỗi cá nhân có thể thuộc về nhiều nhóm và ở trong mỗi nhóm, họ có những vai
trò khác nhau. Tập hợp những người thực hiện những vai trò giống nhau ở nhiều nhóm
tạo nên mạng lưới xã hội. Các mạng lưới XH bao gồm các vai trò trong gia đình, trong
quan hệ bè bạn và láng giềng v.v Nói cách khác, mạng lưới XH thu nạp những cá
nhân có cùng chức năng, rất có lợi cho mỗi cá nhân và XH, bởi thông qua mạng lưới
XH này, nguồn lực XH, kinh nghiệm XH, tri thức, thông tin được lan toả mỗi cá nhân
này, từ nhóm này đến cá nhân và nhóm XH khác.
4. Các thiết chế xã hội: Thiết chế XH là các hình mẫu tương đối bền vững của
tập hợp các vai trò, các nhóm và những hoạt động xã hội đáp ứng những nhu cầu cơ
bản của xã hội, ứng với 5 nhu cầu cơ bản của XH: nòi giống, sinh tồn, tâm linh, quyền
lực, phát triển sẽ là 5 thiết chế XH: gia đình; kinh tế; tôn giáo, chính trị; giáo dục.
Một thiết chế có thể thực hiện nhiều chức năng và một chức nài thể do nhiều thiết
chế cùng thực hiện. Chẳng hạn chức năng phát triển con người có thể được thực hiện
bởi thiết chế gia đình và thiết chế giáo dục, hoặc chỉ riêng thiết chế chính trị đã chi
phối cả chức năng kinh tế và giáo dục _
Mỗi thiết chế đều chứa đựng trong nó một tập hợp các chuẩn mực, các giá trị và
các biểu tượng (còn được gọi là các mẫu hình văn hoá) quy định các hành vi của mỗi
cá nhân trong các mối quan hệ với những cá nhân cụ thể khác).
5. Giá trị xã hội: Giá trị XH là một hình thức liên hệ XH, trong đó cá nhân, tập
hợp XH, được cả động đồng XH xem xét, định giá, xác định tác dụng của đối tượng -
khách thể tồn tại trong XH đối với con người.
(Các giá trị XH là các đặc điểm, tính chất, các yếu tố cấu thành và biểu hiện của
bản thân hiện tượng XH (đối tượng - khách thể XH).
Đối với chủ thể XH, các giá trị là những cái mang tính định giá, tính hiệu quả, tác
dụng nhất định. (Bản thân đối tượng chưa phải là giá trị, song nó tiềm ẩn một nội dung
định giá ngoài ý thức của chủ thể. Khi nào có sự gắn kết giữa ý thức của chủ thể với

9
nội dung tiềm ẩn này của đối tượng, giá trị mới xuất hiện).
Về cơ cấu giá trị XH thường có hai thành tố chủ yếu:

"Đối tượng giá trị" là các hiện tượng XH, bao gồm các hoạt động XH của cá
nhân, nhóm XH, giai cấp, cộng đồng XH trong thực tại XH. Các hoạt động trên được
thể hiện dưới các dạng vật thể và tinh thần. Các dạng trên chỉ trở thành đối tượng giá
trị khi chúng được thu hút vào quỹ đạo quan hệ XH, vào sự xem xét, định giá, xác định
tác dụng XH của chính con người và XH.
Chủ thể giá trị: là con người và XH nhận thức hiện tượng XH, định giá, nêu rõ
tác dụng tích cực hay tiêu cực về mặt XH của hiện tượng đó theo những chuẩn mực,
khuôn mẫu, quan niệm về nhu cầu, lợi ích, mục tiêu XH của mình .
Về phân loại giá trị XH, người ta thường dựa vào tác dụng đối với từng lĩnh vực
riêng biệt của đời sống XH để chia ra các giá trị XH khác nhau: giá trị kinh tế; giá trị
chính trị; giá trị giáo dục; giá trị văn hoá; giá trị khoa học; giá trị pháp luật; giá trị tôn
giáo.
Dựa vào hiệu quả của giá trị vì phương diện lợi ích có thể chia bằng hai loại giá
trị: giá trị vật chất; giá trị tinh thần.
Căn cứ vào sự phân chia các loại giá trị và căn cứ vào những tiêu chí về chức
năng; về mức độ phổ biến hoặc về mức độ tác dụng, ý nghĩa XH, người ta có thể xác
định chúng bằng những "Hệ thống giá trữ, hay "thang giá trị " .
Hệ thống giá trị là một hình thức của hệ thống XH (nói chung) của cấu trúc XH
(nói riêng), trong đó thể hiện các cấp độ và mối liên hệ giữa các cấp độ đó của giá trị
XH.
(Trong XH truyền thống Việt Nam: hệ thống giá trị: nhân - nghĩa - lễ - trí - tín).
Việc xác định thang giá trị XH không chỉ phụ thuộc vào "đối tượng giá trị" mà còn
chịu sự quy định của quan niệm, ý thức XH của cá nhân, của nhóm XH, của giai cấp
của cộng đồng XH (cái chung của dân tộc)
(PK: nhất sĩ - nhì nông;
Người lao động: nhất nông - nhì sĩ)
* Giá trị XH có những đặc điểm sau:
Cơ sở của mọi giá trị XH là cơ sở kinh tế - xã hôi, là "tất yếu kinh tế". Mọi giá trị
Xh chỉ là phản ánh điều kiện kinh tế, quan hệ sản xuất, tức là quan hệ XH vật chất cơ
bản (nếu xem giá trị XH là biểu hiện quan hệ XH, thì nó không thể nằm ngoài sự quy

định của quan hệ sản xuất với tình cảnh là "quan hệ cơ bản đầu tiên và quyết định tất
cả mọi quan hệ khác”)
Giá trị XH gắn liền với nhu cầu XH, lơi ích XH và mục đích XH.
(Một hiện tượng, quá trình, hoạt động XH chỉ được xem là "có giá trị”, khi nó

10
được ra đời và đáp ứng làm thoả mãn những nhu cầu, lợi ích và mục đích của con
người và XH).
Tính nhiều vẻ, nhiều chiều, nhiều nội dung của nhu cầu, lợi ích và mục đích XH
đã làm cho các giá trị trở nên phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, nhiều tính chất khác
nhau, đồng thời sự có mặt của các giá trị còn phụ thuộc trực tiếp vào sự khác biệt của
các chủ thể giá trị như cá nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng XH.
Thông qua nhu cầu, lợi ích và mục đích của mình, các chủ thể giá trị, định giá,
xác định tác dụng XH của đối tượng không hoàn toàn đồng nhất, thậm chí đối lập, mâu
thuẫn với nhau.
Một giá trị tích cực là giá trị cá nhân hài hoà với giá trị XH.
Giá trị đích thực là giá trị biểu hiện sự phát triển xã hội, phù hợp, đáp ứng được
tiến bộ XH và mang tính nhân văn (với cách hiểu như vậy, giá trị XH có tính cách như
là văn hoá).
Nói tới giá trị XH là nói tới mối quan hệ giữa giá trị XH - truyền thống và giá trị
XH - tương lai. Mọi giá trị hiện hành đều hàm chứa dưới hình thức này hay hình thức
khác “giá trị đã có" thông qua sự "lọc bỏ" cũng như tiềm ẩn trong nó "giá trị sẽ có" với
tính cách là “mầm mống”, “dự báo", “mong đợi".
6. Biến đổi XH: là một yếu tố cơ bản của cấu trúc XH, trong đó diễn ra quá trình
thay đổi, chuyển hoá các chuẩn mực XH, khuôn mẫu XH, giá trị XH, liên hệ XH, hoạt
động XH v.v của các tập hợp XH và của cả một cộng đồng XH rộng lớn.
+ Bất cứ XH nào, cấu trúc XH nào đều luôn luôn ở trạng thái biến đổi
+ Biến đối cấu trúc XH thường được thể hiện trong các thay đổi, chuyển hoá về
liên hệ XH, trong mọi lĩnh vực của đời sống XH.
Chủ thể (và cũng là sán phẩm) của biến đổi XH, của biến đổi cấu trúc XH là con

người XH, là các nhóm XH, các giai cấp XH, cộng đồng XH (quốc gia, khu vực, cộng
đồng thế giới).
Biến đổi cấu trúc XH có những loại sau:
+ Biến đổi tập hợp: là biến đổi XH được diễn ra trong các tập hợp XH
nhất định. Đó là những thay đổi chỉ diễn ra trong phạm vi một nhóm XH nào đó;
một cộng đồng, một tổ chức XH nào đó (khoán 10- nông dân; miễn đóng học phí SV
sư phạm; giữ gìn bản sắc dân tộc trong hội nhập - cộng đồng các nước châu á; xoá đói
giám nghèo - hội nông dân Việt Nam ).
+ Biến đổi - liên hệ XH: là biến đổi được diễn ra trong các mối liên hệ XH nhất
định (khách hàng là thượng đế); thầy và trò trong giáo dục v.v
+ Dựa vào sự tương ứng giữa các biến đổi XH đối với nhau, có thể nêu ra các
"cặp biến đổi XH " như: biến đổi lớn - biến đổi nhỏ; biến đổi lâu dài- biến đổi tạm

11
thời; biến đổi chi phối- biến đổi phụ thuộc; biến đổi tích cực- biến đổi tiêu cực.
+ Những biến đổi diễn ra trong các hình thức biểu hiện của cấu trúc XH (loại
hình cơ cấu - phân hệ cơ cấu XH) thường được nhắc đến là: biến đổi cơ cấu giai cấp;
biến đổi cơ cấu lao động; biến đổi cơ cấu dân số; biến đổi cộng đồng lãnh thổ.
+ Đặc điểm của biến đổi XH:
Các biến đổi của cấu trúc XH đều bị chi phối bởi tính chất, trình độ và cơ cấu của
nền kinh tế.
Các biến đổi XH được diễn ra trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố
khách quan (điều kiện vật chất kinh tế, yếu tố văn hoá truyền thống, những tác động
nhiều mặt từ các XH bên ngoài, thực trạng môi trường sinh thái) và những nhân tố chủ
quan (ý thức XH, tư tưởng- hệ tư tưởng; vốn văn hoá và trình độ dân trí, trình độ khoa
học- kỹ thuật; năng lực hoạt động thực tiễn, tính năng động và tiềm năng sáng tạo
v.v ).
(Quá trình biến đổi XH là quá trình chủ thể XH - con người bằng nhân tố chủ
quan của mình tác động vào nhân tố khách quan của XH trong sự quy định của những
quan hệ kinh tế vật chất. Sự biến đổi của cấu trúc XH nói riêng, của XH nói chung đều

do con người; mọi biến đổi và phát triển XH đều được thực hiện bởi con người, nhân
tố khách quan của XH tác động thông qua hoạt động con người. Ngày nay, do sự phát
triển của chính bản thân con người, cùng với sự sáng tạo của nó trước hiện thực, vai
trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển XH ngày càng tăng).
Các biến đổi XH diễn ra rất đa dạng, phức tạp.
Tính đa dạng biểu hiện ở chỗ nó diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, theo
các cách khác nhau và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống XH. Các biến đổi XH diễn ra
trong những điều kiện hoàn cảnh, thời gian cụ thể, khác biệt, tuỳ thuộc vào tính riêng
biệt của chủ thể XH nhất định.
Tính phức tạp của biến đổi XH xuất phát từ chính quy luật phổ biến của tồn tại
XH: đấu tranh XH là quy luật phổ biến trong mọi cộng đồng XH, là biểu hiện mâu
thuẫn biện chứng của tồn tại XH.
Sự phân tích các yếu tố cấu thành cấu trúc XH giúp chúng ta đi tới những đặc
trưng sau của cấu trúc XH.
Các yếu tố tạo thành chíu trúc XH luôn phụ thuộc vào nhau. Sự biến đổi của một
yếu tố này dẫn tới sự thay đổi tương ứng của một yếu tố khác. Chẳng hạn tổ chức
Đảng cộng sản là một nhóm XH mang tính quyết định tới vận mệnh chính trị của một
số nước. Sự tan vỡ của nhóm XH này đã kéo theo sự sụp đổ của địa vị, của vai trò cá
nhân, của các thiết chế XH, hay nói cách khác, nó kéo theo sự biến dạng của toàn XH.
- Các yếu tố thuộc cấu trúc XH liên kết với nhau tạo nên thế ổn định, cân bằng
động cho hệ thống. Một khi có sự xáo trộn trong hệ thống, các yếu tố sẽ "biến đổi theo

12
xu hướng" lập lại một trạng thái ổn định khác. Cũng với ví dụ trên, sự xáo trộn của hệ
thống chính trị xã hội XHCN đã kéo theo nó một sự biến đổi tương ứng đối với tất cả
các yếu tố tạo thành hệ thống XHCN và chúng liên kết với nhau theo một trật tự mới,
tạo cho XH có sự ổn định trở lại.
V. Con người xã hội
1. Quan niệm XHH về “con người XH" .
* Một số quan niệm về “con người XH"

- Các nhà XHH "duy tự nhiên" quan niệm rằng, sự phát triển của con người chịu
sự quy định, quyết định của những yếu tố bản năng sinh học - tự nhiên vốn có ở con
người (là những yếu tố thuộc cá thể động vật: cấu tạo cơ thể, gien di truyền, tính sinh
hoá, tính dục và các điều kiện môi trường tự nhiên).
→ Tuyệt đối hoá cái sinh vật với cái XH trong con người
→ Chỉ thừa nhận cái sinh vật mới là "cái có thật" ở con
→ Cái sinh vật tạo ra, chi phối “cái XH” của con người
- Các nhà XHH "duy XH” lại cho rằng sự phát triển của con người chịu sự quy
của các yếu tố XH (mối quan hệ giữa con người với con người; giữa nhân cách với
môi trường XH).
+ Đó là những yếu tố: thực trạng XH; cơ cấu XH; chuẩn mức; thiết chế; giá trị
XH và quá trình nhân cách được xã hội hoá.
→ Tuyệt đối hoá cái XH trong con người
→ Chỉ thừa nhận vai trò xã hội hoá con người - con người như là sản phẩm thuần
tuý của XH.
- Các nhà triết học XH, tư tưởng văn hoá cổ điển phương đông quan niệm con
người là hạt nhân của XH, quan hệ hoà hợp với thần linh, trời, đất; xem con người là
vốn có phẩm chất XH (phẩm chất linh hồn, chính trị và đạo đức XH).
XH theo luồng tư tưởng này là cái quy định nhân cách con người (nhân cách
được tạo bởi thần linh, đạo lý và sự giáo huấn XH). Quan niệm này đề cao vai trò tư
tưởng chính trị, đạo đức, lý tưởng (luân lý), thiết chế thống trị hoặc đức tin tôn giáo
được áp đặt toàn XH → con người là con người của xã tắc: làng xóm, tộc họ (có nghĩa
là sản phẩm cá thể của một tập hợp người cố kết khá chặt chẽ với nhau).
* Khái niệm “con người xã hội" theo quan điểm Mác-xít
- "Con người xã hội" là chủ thể của XH, đồng thời là sản phẩm của XH, sản
phẩm của tự nhiên.
+ Tính chủ thể XH của con người là tính chủ thể của các mối quan hệ XH với
những hoạt động XH, tương tác XH trong điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội,

13

cấu trúc XH nhất định.
. Con người với tư cách là chủ thể XH đã tạo ra đời sống XH (kinh tế,
chính trị , đạo đức . . . )
. Con người với tư cách là chủ thể XH là điểm xuất phát, đầu mối, nội dung,
động lực và mục đích của XH.
. Con người với tư cách là chủ thể XH đã xây dựng nên những tổ chức XH, thiết
chế XH, chuẩn mực XH, kiểu loại - hình thái XH với những tầng lớp (nhóm, cộng
đồng giai cấp trong XH).
. Con người với tư cách là chủ thể XH đã tạo ra mọi biến đổi XH
(Nói con người là chủ thể XH tức là xem con người từ những quan hệ XH và
bằng những hoạt động thực tiễn tạo nên XH, qua đó con người trở thành con người
XH).
- Con người XH là sản phẩm XH:
+ "Tính sản phẩm XH” của con người là tính sản phẩm của những quan hệ XH
do chính con người tạo nên với những hoạt động XH, tương tác XH trong điều kiện
của một hình thái kinh tế - xã hội, cấu trúc XH nhất định.
+ Tính chủ thể XH và tính sản phẩm của con người XH có mối quan hệ biện
chứng. (Con người tạo ra XH bằng hoạt động XH, tương tác XH, tổ chức XH, thiết
chế XH vừa chịu sự quy định, chi phối của chính những cái do mình tạo nên).
+ Đối với XHH, con người XH là "tế bào” hạt nhân - trung tâm của toàn bộ XH
nói riêng.
+ Con người XH là đơn vị nhỏ nhất trong quan hệ XH, hệ thống XH và cấu trúc
XH. Đó chính là mỗi cá nhân - nhân cách mang tính XH nhất định.
+ Cá nhân là một con người XH riêng biệt tồn tại trong XH. Mỗi cá nhân là một
chỉnh thể người đơn nhất bao gồm cả một hệ thống những yếu tố, đặc điểm cụ thể,
riêng biệt khác biệt với những cá nhân khác về cơ thể sinh vật, tâm lý, tư tướng, văn
hoá, hoàn cảnh sống.
Mỗi cá nhân tự xác định bản thân trong quan hệ với những cá nhân khác, với XH
nói chung nhờ những yếu tố, đặc điểm riêng của mình.
+ Nhân cách là thế giới bên trong, chiều sâu bản chất của cá nhân với toàn bộ

hoạt động sống của nó.
. Nhân cách là cốt lõi, hạt nhân, là đặc điểm về chất của con người XH, của cá
nhân.
. Nhân cách là cá nhân đã có sự phát triển ở mức độ nhất định về mặt XH, là kết
quả của quá trình XH hoá cá nhân và cá nhân mang tính "con người XH " .

14
. Nhân cách là một cá nhân có năng lực tự ý thức, có đặc điểm sinh lý, tâm lý, có
phẩm chất XH (với nội dung, tính chất, trạng thái, biểu hiện và xu hướng thuộc bên
trong con người mang tính riêng biệt nhất định của cá nhân; như vậy, ngoài yếu tố cơ
sở sinh lý, thể chất cơ thể, nhân cách chính là chủ thể của các mối quan hệ XH và cũng
chính là sản phẩm của xã hội hóa cá nhân).
. Nhân cách mang "cái chung của con người XH", đại diện cho những quan hệ
XH, thông qua liên hệ nhóm, tầng, giai cấp, cộng đồng, hệ thống XH, cơ cấu XH, thực
tại XH nói chung. Cái chung này của nhân cách thuộc cá nhân, trở thành "nhân cách
XH" vì thế cá nhân xã hội và cá nhân nhân cách là một thể thống nhất. Sự thống nhất
biện chứng này đã tạo cho con người XH trở thành "cá nhân - nhân cách" tồn tại trong
thực tại XH nhất định.
+ Nói tới cá nhân - nhân cách tức cũng là nói tới cái "tôi". XHH xem cái tôi là
nhân tố cốt lõi, trung tâm tinh thần của nhân cách - cá nhân, là cái đã được cá nhân
hoá, cá tính hoá nằm ở bên trong nhân cách - cá nhân.
+ Cái tôi là yếu tố bản chất, hạt nhân có tính quy định đối với nhân cách, thuộc
thế giới bên trong của nhân cách.
+ Cái tôi quy định tính chất và mức độ của nhân cách - cá nhân; xác định mục
đích XH, hoạt động XH, xu hướng và nội dung, phương hướng tự ý thức của nhân
cách - cá nhân; xây dựng định hướng giá trị xã hội, chuẩn mực XH của nhân cách - cá
nhân trong quan hệ với XH.
+ Cái tôi là cơ sở của sự tự định giá bên trong của sự xác định tính riêng biệt của
nhân cách - cá nhân.
+ Về mặt khách quan, cái tôi được tạo nên do những tác động tổng hợp của các

nhân tố sinh học - cơ thể và điều kiện xã hội. Quan hệ XH hết sức riêng biệt đối với cá
nhân.
+ Về mặt chủ quan, sự hình thành cái tôi liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh sống,
hoạt động sống và vốn văn hoá, tri thức của cá nhân.
(Cái Tôi chính là biểu hiện đậm nét nhất cái XH được chuyển thành cái riêng, cái
cá nhân, cái đơn nhất. Cái Tôi nằm trong mối liên hệ giữa xã hội hóa cá nhân và cá
nhân hoá XH. Thông qua hoạt động thực tiễn XH, con người xác định được cá nhân -
nhân cách - cái tôi).
- XH bao giờ cũng là một tập hợp những cá thể người, một tổng thể, hệ thống và
cấu trúc gồm những con người cụ thể riêng biệt với tư cách là những cá nhân - nhân
cách nhất định.
(Từ nhân cách của mình, mỗi cá nhân có năng lực tự ý thức, tự định hướng mục
tiêu nhất định. Cũng chính từ nhân cách, những nhu cầu, lợi ích và mục đích của XH
mới tìm thấy chỗ đứng trong nhu cầu, lợi ích và mục đích của cá nhân. Sự thống nhất,

15
hài hoà giữa cái XH và cái cá nhân sẽ tạo ra động lực nội tâm và mục tiêu tư tưởng để
cá nhân vươn tới thực hiện những cái cần có cho cả cá nhân cũng như cho cả XH.
Chính cá nhân - nhân cách có khả năng lựa chọn, điều chỉnh, chủ động tích cực
và tự chịu trách nhiệm trước những hành động, tương tác XH của mình khi thực thi
những nhu cầu, lợi ích và mục đích nói trên. Như thế, để có được một XH tiến bộ, phát
triển, con người cần phải xây dựng những nhân cách, những cá nhân phát triển thế giới
bên trong với tình cảm, tư tưởng, trí tuệ sâu sắc, sáng tạo).
- Việc xem xét "con người XH" gắn liền với việc xem xét "cá nhân - nhân cách".
Nếu "con người xã hội” là cái chung và cá nhân - nhân cách là cái riêng thì cái chung
chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. XH tồn tại ở những cá nhân, đồng thời
cá nhân tồn tại trong mối liên hệ XH.
2. Các yếu tố cơ bản của "con người xã hội.".
. Ý thức XH:
+ Ý thức XH là một thuộc tính, một đặc điểm của con người XH (mọi quan hệ

XH, hành động XH, tương tác, giao tiếp XH đều chịu sự điều khiển, định hướng trực
tiếp của ý thức XH).
+ Ý thức XH là nội dung của tự ý thức.
+ Sự tồn tại của ý thức XH gắn liền với hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự chi
phối của điều kiện, quy luật sinh học và đặc biệt là các điều kiện, quy luật XH, do nhu
cầu, lợi ích XH và hoàn cảnh, sinh hoạt thực tại của con người quy định. Có thể nói: ý
thức của con người luôn luôn mang bản chất XH, tính chất XH. Con người XH là con
người có ý thức XH.
+ Ý thức XH là một thuộc tính của con người XH, bao gồm thế giới quan, quan
niệm, hệ tư tương, tri thức, ý chí, tình cảm tương ứng với một thực tại XH nhất định.
+ Thế giới quan, quan niệm, hệ tư tưởng là cơ sở hạt nhân của ý thức XH, đóng
vai trò quyết định và chi phối các thành phần khác.
+ Tri thức vừa là nội dung cơ bản, vừa là thước đo trình độ, mức độ của ý thức
XH.
+ Ý chí thể hiện xu hướng, mong muốn tự giác nhằm thực hiện một hoạt động
nhất định trong XH và nó được coi như động lực bên trong của ý thức .
+ Tình cảm giúp con người có được những cảm xúc khi tìm tòi tri thức. Mỗi
thành phần khác nhau của ý thức XH chỉ trở thành thành phần của ý thức hoạt động
khi chúng được chuyển vào tình cảm.
- Về cấp độ và kiểu dạng của ý thức XH có thể phân chia thành 3 dạng:
+ Dạng chung: chủ thể mang ý thức XH là mọi con người XH, tồn tại và phát
triển thông qua ý thức XH của các cá nhân, các nhóm, các tập đoàn, các tầng lớp, các

16
giai cấp trong XH.
+ Dạng riêng: là ý thức XH của cá nhân, trong đó nó vừa mang những nội dung
nhất định của ý thức XH chung, vừa chứa đựng những yếu tố riêng lẻ vốn chỉ thuộc về
ý thức của cá nhân không được lặp lại ở bất cứ cá nhân nào khác.
(Như thế, không thể đồng nhất ý thức XH chung và ý thức XH riêng; không thể
xem ý thức của cá nhân là một bộ phận của ý thức chung XH).

+ Dạng trung gian: là ý thức XH của nhóm XH, của giai cấp, của mỗi thành phần
XH trong hệ thống XH nhất định, trong đó ý thức XH của nhóm, giai cáp v.v vừa
mang ý thức chung của XH, vừa mang ý thức XH của riêng nhóm, giai cấp.
Ý thức XH chung chỉ tồn tại và thông qua ý thức XH cá nhân, nhóm, giai cấp
Ý thức nhóm, giai cấp là sự nhất trí, là tinh hoa của ý thức các thành viên trong
nhóm, giai cấp.
Năng lực lao đông khả năng hoạt đông thực tiễn được xem là đặc trưng cơ bản.
quyết định của con người XH
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, cảm tính có mục đích, có tính lịch
sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
+ Hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của XH, của loài người.
+ Hoạt động thực tiễn là nhân tố xác định có tính chất quyết định đối với phẩm
chất XH, địa vị XH, vai trò XH và giá trị XH của cá nhân.
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động sáng tạo của con người, vì thế nó phụ thuộc
vào năng lực tham gia lao động XH và hiệu quả của nó đối với sự phát triển XH.
+ Bản thân hoạt động thực tiễn mang tính XH, vì thế sự tham gia hoạt động thực
tiễn của mỗi cá nhân trở thành cơ sở, thước đo tính chất Xh trong nhân cách của họ.
+ Từ hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo bản thân mình, sáng tạo XH, tạo
lập giá trị cho mình và cho XH.
(Các quan hệ XH, cấu trúc XH, hệ thống XH cũng được xem xét, định giá trên cơ
sở của thực tiễn)
+ Thực tiễn là một hệ thống phức tạp, hoàn chỉnh, bao gồm trong nó các yếu tố
như nhu cầu, lợi ích, mục đích, hành vi, phương thức, hình thức hoạt động sáng tạo, do
đó, hoạt động thực tiền của cá nhân liên quan chặt chẽ đến tính chất, mức độ phát triển
của cá nhân - nhân cách.
Quan hệ XH của con người XH là yếu tố cơ sở quy định XH và nội dung con
người XH.
(K.Marx viết: “XH không phải là những cá thể người, mà là biểu hiện của tổng
số những lối liên hệ và quan hệ của chúng, trong đó những cá thể đó tồn tại với nhau”;


17
"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ
XH").
+ Chính quan hệ XH của toàn Xh và quan hệ của mỗi cá nhân tạo ra đặc trưng
của XH và xác định đặc điểm của mỗi cá nhân.
+ Mỗi cá nhân - nhân cách - cái tôi cũng chỉ thông qua quan hệ XH mới tiếp
nhận "xã hội hoá" và tác động trở lại XH bằng "cá nhân hoá".
+ Một XH tiến bộ, phát triển là XH mà trong đó các quan hệ Xh được hình thành
một cách hợp lý, hài hoà và nhân văn trong mọi lĩnh vực. Vì thế chất lượng các quan
hệ XH cần được đặt ra trong sự phát triển chung của mọi chế độ XH.
3 . Con người và xã hội
* Con người và quan hệ XH:
- Bản chất XH của con người, trước hết được thể hiện trong mối quan hệ hữu cơ
với đồng loại - cộng đồng. Đó là: môi trường sống- xã hội, những giá trị XH về sinh
hoạt, lối sống, lập trường công dân, thế giới quan, tri thức khoa học đều là những điều
kiện khách quan, tất yếu tạo nên con người - nhân cách.
Hoạt động thực tiễn của cá nhân trong XH là điều kiện cơ bản nhất để ,cá nhân
hoá", "tôi hoá" cá thể người để trở thành một con người cụ thể trong mối quan hệ với
đồng loại.
- Quan hệ XH trong cộng đồng người mà trong đó cá nhân tồn tại gồm: cộng
đồng giai cấp, cộng đồng dân tộc, cộng đồng quốc gia, cộng đồng nhân loại. Chính
quan hệ giữa các cộng đồng đã ra đời và tồn tại cùng với quá trình sản sinh và tái sản
xuất những con người.
(Con người vừa là một thành viên, vừa là chủ thể của một cộng đồng giai cấp,
của một cộng đồng dân tộc, của một cộng đồng quốc gia, của một cộng đồng nhân
loại).
+ Bản chất hiện thực của một con người là dung hoà những quan hệ XH: cái XH
được hoá thân thành "cái cá nhân"; các quan hệ XH, các giá trị XH được chuyển thành
nhân cách, thành cái tôi bằng hoạt động thực tiễn và các quan hệ khác với XH của mỗi
cá nhân. Mỗi cá nhân mang một nhân cách riêng, có khả năng tự ý thức, có mục đích

nhất định, có năng lực và trách nhiệm hoạt động XH. Cá nhân khẳng định mình là
khẳng định trong quan hệ XH, trong sự tác động chủ động, tích cực vào XH.
(Mục đích XH chỉ có thể thực hiện được với sự nỗ lực của mỗi cá nhân, của mỗi
con người XH. Sự phát triển XH, tiến bộ XH bắt nguồn từ sự phát triển, tiến bộ của
từng cá nhân trong những quan hệ xã hội của nó). ,
“Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người" (K.Marx, F.Engels)

18
+ Tồn tại người là tồn tại vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại, vì vậy
con người cũng mang tính lịch sử, tính thời đại.
- Cấu trúcXH và con người cụ thể
Con người trong một cấu trúc XH nhất định là một tế bào, một mắt xích trong hệ
thống XH, trong cấu trúc và quan hệ XH.
Con người giữ vị trí, vai trò quyết định trong cấu trúc XH, đồng thời cấu trúc XH
được biểu hiện như một tổng hoà các quan hệ XH và tác động tích cực đến con người,
đến cá nhân - nhân cách cụ thể.
Con người là chủ thể của bất cứ hệ thống, cấu trúc XH nào.
Con người, cá nhân cụ thể tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ với hệ thống XH, cơ
cấu XH. Nó vừa là hạt nhân, nhân tố trung tâm, tế bào của hệ thống- cơ cấu XH, lại
vừa là sản phẩm, nhân vật bị phụ thuộc vào chính cái hệ thống - cơ cấu XH đó.
Cá nhân là một thực thể XH, vì vậy, bất cứ một sự biểu hiện nào của đời sống
anh ta cũng là sự biểu hiện và khẳng định đời sống XH) ngay dù cho nó không xuất
hiện dưới hình thức trực tiếp của cái tập thể được thực hiện cùng với các cá nhân
khác" (K.Marx)
Tính giai cấp trong con người cụ thể
- Trong XH có giai cấp, con người tồn tại trong quan hệ giai cấp, trong mối quan
hệ chỉnh thể giữa tính giai cấp và nhân cách - cái "tôi" của con người cụ thể, nhất định.
- Điều cơ bản, chủ yếu của mối quan hệ giữa giai cấp và con người cụ thể là lợi
ích.

- Nếu không có con người trừu tượng, không có nhân cách - cá nhân, ở bên ngoài
XH, thì tính giai cấp trong từng con người cụ thể cũng không phải là tính trừu tượng.
Tính giai cấp là cái đã trở thành nhân tố, cái thể hiện nội tại của con người - nhân
cách, nó không bị gán ép từ bên ngoài mà tồn tại trong mỗi con người cụ thể.
4. Xã hội hoá
* Một số quan niệm XHH về "xã hôi hoá".
- Một số nhà XHH hiện đại dựa vào vai trò, tác động, quy định của XH đối với
con người, đã xem XHH như là một quá trình XH "áp đặt" cho các cá nhân những
khuôn mẫu chuẩn mực, giá trị đã được XH xây dựng, thừa nhận.
(Cá nhân chỉ có thể chấp nhận chứ không được lựa chọn, nhờ đó mà họ thích
nghi, tồn tại được trong XH).
- Một số nhà XHH khác dựa trên vai trò của cá nhân trong quan hệ XH, đã xem
quá trình XHH như là sự phát huy tính tích cực của cá nhân trong tương tác giữa các
cá nhân để dẫn đến chuẩn mực, khuôn mẫu, hành động mà con người cần phải chấp

19
thuận.
- Các nhà triết học phương đông cổ đại thường xem con người là do “thiên
mệnh" và con người phải tuân theo "thiên mệnh" đó bằng cách chấp thuận vô điều kiện
những chuẩn mực, trật tự, khuôn mẫu được ấn định sẵn cho mọi người, cho từng loại
người trong XH.
* Dựa vào các quan niệm nêu trên, chắt lọc lấy những tinh hoa ở đó, chúng ta có
thể coi XHH là quá trình hai mặt: một mặt cá nhân chấp nhận kinh nghiệm XH bằng
cách thâm nhập vào môi trường XH, vào hệ thống các quan hệ XH. Mặt khác, cá nhân
tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ XH thông qua chính việc nó
tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ XH.
(Như vậy, có thể xem XHH là một quá trình kép và cả chủ thể - xã hội, cả chủ
thể - cá nhân tác động lẫn nhau để XHH con người).
- XHH là một quá trình xã hội, trong đó XH và cá nhân tác động lẫn nhau để con
người có tính XH thông qua việc xây dựng và chấp nhận, thực thi những chuẩn mực

XH, khuôn mẫu và giá trị XH trong quan hệ XH, hệ thống XH.
- XHH bao gồm hai mặt của một quá trình thống nhất:
+ XH, quan hệ giữa các chủ thể XH đã tác động đến cá nhân hiện thực để nó trở
thành con người XH.
+ Cá nhân hiện thực tham gia vào quá trình XH để học cách sống và chủ động
tích cực tác động vào qua trình xây dựng, phát triển quan hệ XH, hệ thống - cơ cấu
XH.
Đó là một quá trình liên hệ biện chứng giữa cá nhân trong xã hội trên cơ sở của
mục tiêu: con người trở thành con người XH. Đó chính là quá trình XHH cá nhân và
quá trình cá nhân hoá XH.
Xã hội hoá cá nhân
- XHH cá nhân là một quá trình XH, trong đó các chủ thể XH thông qua các
QHXH, HTXH, cơ cấu XH làm cho cá nhân thừa nhận, tiếp nhận, thực thi các kinh
nghiệm XH, giá trị XH, khuôn mẫu XH.
- Chủ thể của XHH cá nhân là chủ thể của các tập hợp XH (nhóm XH, gia đình,
nhà trường, giai cấp, cộng đồng dân tộc, quốc gia và cộng đồng một loại). Đối tượng
của XHH cá nhân là con người cụ thể, cá nhân - nhân cách và cả cái tôi.
- Nội dung chủ yếu, cơ bản của XHH cá nhân là làm cho cá nhân mang tính XH,
xác định được những quan hệ XH theo các chuẩn mực, khuôn mẫu XH, giá trị XH,
kinh nghiệm XH đã được các tập hợp XH thừa nhận, nhờ đó cá nhân mới có thể tiếp
nhận, thực thi theo đúng chuẩn XH.
(Con người cụ thể chỉ có thể xác lập được địa vị, vai trò XH, chức năng XH,

20
cuộc sống cá nhân trong XH của mình khi chấp nhận sự tác động XHH của XH).
- XHH cá nhân là một quá trình phức tạp, nhiều vẻ, lâu dài. Chất lượng và hiệu
quả của quá trình này không chỉ phụ thuộc vào thời gian, hoàn cảnh, điều kiện XH nói
chung mà còn chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động XHH của các chủ thể XH cũng như
năng lực tiếp nhận của đối tượng - con người cụ thể.
- Phương thức, hình thức XHH cá nhân là đa dạng: XHH thông qua hoạt động

kinh tế, chính trị, giáo dục, giao tiếp, lao động;
Hình thức XHH có thể là được tổ chức, ý thức, nhưng cũng có thể không có tổ
chức, ngẫu nhiên, hoặc giả là áp chế, trừng phạt, ngăn ngừa. - XHH cá nhân làm cho
người phát triển không phải chỉ theo xu hướng tích cực mà đôi khi cả những phương
hướng tiêu cực. Điều này phụ thuộc vào tính chất, trình độ của các chủ thể XHH cũng
như nội dung tính chất, định hướng, phương thức giáo dục nhất định.
- Quá trình và nội dung XHH liên quan chặt chẽ đến tính chất, trình độ của XH,
của các giai cấp XH của thời đại, củảtruyền thống văn hoá dân tộc v .v…
Cá nhân hoá XH
Cá nhân hoá XH là một quá trình XH trong đó cá nhân XH thông qua các quan
hệ XH, hệ thống XH, cải cách XH và hoạt động cụ thể của chính cá nhân đó làm cho
XH thừa nhận, chấp nhận, tiếp nhận cá nhân đó với tính cách là một chủ thể XH tham
gia tái sản xuất, các quan hệ XH, hệ thống XH, cải cách XH thông qua các hoạt động
XH mang tính chủ động, tích cực, sáng tạo của chính cá nhân đó.
- Chủ thể của cá nhân hoá XH là chủ thể - cá nhân, thành viên của các quan hệ
XH, tập hợp XH, hệ thống - cơ cấu XH, cộng đồng XH.
- Đối tượng của cá nhân hoá XH là con người XH trong các quan hệ XH, hệ
thống - cải cách XH thông qua việc con người cụ thể chủ thể CNHXH tác động vào
XH, tham gia tái sản xuất XH bằng hoạt động thực tiễn và các hình thức hoạt động
khác của chính cá nhân chủ thể đó. ,
- Nội dung chủ yếu, cơ bản của cá nhân hoá là làm cho XH thừa nhận cá nhân
tham gia vào quá trình XH, quan hệ XH, hệ thống cải cách XH; đồng thời cũng làm
cho cá nhân thâm nhập vào XH để tái sản xuất XH.
- Nhờ cá nhân hoá XH, XH với tính cách là tổng hoà những quan hệ giữa con
người với con người, mới tồn tại và phát triển, tiến bộ.
(Nếu XH là tổng số của các con người quan hệ với nhau, thì sự tham gia, thâm
nhập vào quan hệ đó của từng cá nhân hiện thực là điều kiện để hình thành phát triển
những khuôn mẫu, giá trị XH, những cấu trúc và HTXH
- Có thể nói, con người là chủ thể XH, vừa là sản phẩm XH. Đó là một quá trình
thống nhất biện chứng. "Bản thân XH sản xuất ra con người với tính cách là con người

như thế nào thì nó cũng sản xuất ra XH như thế" (K.Marx).

21
Phần II: Xã hội học giáo dục
I. Quan niệm của xã hội học về giáo dục
- Giáo dục (GD) là một hiện tượng XH, trong đó một tập hợp XH (nhóm) đã tích
luỹ được một vốn kình nghiệm XH nhất định truyền đạt lại cho một nhóm XH khác
nhằm giúp họ tham gia vào đời sống XH, giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn
mẫu, giá trị XH để trở thành những nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của lợi ích XH.
Đây chính chính là nét đặc trưng cơ bản của GD với tư cách là một hiện tượng XH.
Kinh nghiệm XH được hiểu là những tri thức về các quy luật vận động và phát
triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, những kỹ năng, kỹ xảo hoạt động thực tiễn, các
chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hoá, truyền thống v. v…
Trên cơ sở của sự lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, mỗi cá nhân sẽ nhào nặn lại theo
cách riêng của mình để trở thành một nhân cách, tương ứng với những đòi hỏi của
cộng đồng XH của mỗi hình thái phát triển kinh tế - XH nhất định
- Trong hệ thống XH, GD là một trong năm thiết chế đáp ứng nhu cầu cơ bản của
XH về mặt phát triển. Thế hệ trẻ mới sinh ra, một mặt kế thừa những đặc điểm sinh
học của loài (di truyền) vốn đã tồn tại ngay trong quá trình hình thành và phát triển bào
thai, mặt khác, và mặt này, chỉ khi đứa trẻ ra đời nó mới được tạo lập, đó là sự thế thừa
các di sản XH mà thế hệ trước để lại. Con người về bản chất khác với thế giới loại vật
chính là ở đặc trưng kế thừa XH. Quá trình kế thừa XH được thực hiện trong hoạt
động GD (tự phát hoặc tự giác), nhờ đó mà mỗi cá nhân có thể tiếp thu những kinh
nghiệm sống nhằm thích ứng với sự biến đổi của môi trường xung quanh, đặc biệt là
môi trường XH. Những mối quan hệ giữa con người với con người nảy sinh trong hoạt
động sống của mỗi cá nhân đặt trước họ phải có khả năng nhận biết, nắm vững, cải
biến những quan hệ có tính quy luật này để bản thân có thể tồn tại và phát triển.
Hướng dẫn thế hệ trẻ có được khả năng hội nhập một cách chủ động với những quy
luật xã hội được thực hiện trong quá trình GD, và chính những sản phẩm do GD tạo
nên (những nhân cách sống) lại đến lượt mình phục vụ cho sự tồn vong và phát triển.

Jacques Delors (l996) đã viết "ý kiến ngày càng phổ biến cho rằng sự đóng góp của
GD cho XH loài người là thiết yếu và CD cũng là một trong những công cụ mạnh nhất
mà ó trong tay để nhào nặn nên tương lai" (Giáo dục cho ngày mai- tài liệu tổng kết
nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập UNESKO- người đưa tin UNESKO, Tháng
4/1996).
- Theo quan niệm của XHH, XHH giáo dục là một chuyên ngành trong XHH, có
mục đích tìm hiểu ảnh hưởng và những mối quan hệ qua lại mang tính quy luật giữa
hoạt động GD với những lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống XH như chính trị,
kinh tế, văn hoá, khoa học v.v Tuy nhiên với đặc thù riêng của mình, XHH GD đãi
nhiệm vụ trọng tâm vào việc nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa con người với con
người trong phạm vi hoạt động GD, theo nghĩa là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh

22
nghiệm XH lịch sử đã được tích tụ trong tiến trình lịch sử chứa đựng trong các lĩnh
vực của đời sống XH thể hiện trong các giá trị văn hoá của loài người, với các dạng
thức hình loại và bộ phận khác nhau của nền văn hoá đó.
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng XH đặc thù với ba chức năng thống nhất:
chức năng lý luận, chức năng xây dựng - cải tạo, chức năng dự báo, trong đó, chức
năng xây dựng - cải tạo được thể hiện như một chức năng chính yếu của hoạt động
GD, còn các chức năng khác là những chức năng kèm theo và là sự chuyển hoá từ hoạt
động thực tiễn của GD sang hoạt động tư duy lý luận.
Hoạt động GD thực hiện chức năng xây dựng và cải tạo thông qua cơ chế XH
đặc biệt, đó là quá trình XH hình thành và phát triển cá nhân con người (thường được
coi như là quá trình xã hội hoá cá nhân). Quá trình này diễn ra trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống XH như cơ sở vật chất - kỹ thuật - công nghệ, các mối quan hệ XH, sự
tác động của hoàn cảnh môi trường tự nhiên.
Để "tái sản xuất" những phẩm chất và năng lực của con người nhằm tạo nên các
nguồn lực đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của tiến bộ XH, không một giai đoạn
nào của sự phát triển lịch sử XH lại không dựa vào GD, không thực hiện chức năng
xây dựng- cải tạo của mình nhờ hoạt động GD.

Trong XH hiện đại, những vấn đề trọng yếu mà GD phải tham gia giải quyết,
theo UNESSKO đó là:
- Phải thực hiện ba chức năng then chốt phù hợp với đặc thù của hoạt động GD:
chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- XH; chức năng tư tưởng và văn hoá.
Những chức năng này, ngay từ những năm giữa thế kỷ XX, trong Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ 3 năm 1960 đã ghi rõ: "GD là công cụ của chuyên chính vô sản là một bộ
phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhà trường là pháo đài của
CNXH "
- GD phải ngày càng có khả năng thích ứng với những chiều hướng mới của sự
phát triển XH ;
- GD phải được phát triển cân đối và đa dạng;
- GD phải truyền bá các giá trị tạo nên sự hội nhập, sự chung sống, sự hiểu biết
lẫn nhau giữa con người và con người.
Hoạt động GD chỉ là một bộ phận hợp thành của quá trình XH, song nó được coi
là bộ phận quan trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc tạo nên con người XH, bởi đặc
trưng tự giác có tổ chức, kế hoạch và mục đích trong quá trình vận động của hoạt động
GD.
- Hệ thống GD là một chỉnh thể thống nhất của những tiểu hệ thống bao gồm từ
giáo dục mầm non; GD phổ thông; GD chuyên nghiệp- đại học; GD chính quy, GD tại
chức; GD bán công và dân lập; GD sau đại học; GD từ xa; GD nhà trường và XH v.v

23
Cơ cấu của hệ thống GD trong sự tồn tại của mình là sự liên kết hữu cơ, có hệ
thống và đồng bộ các cấp học, bậc học, từ thấp đến cao để hình thành những nhân cách
ở các cấp độ. Quá trình đào tạo lại bao gồm nhiều giai đoạn có mục tiêu và kế hoạch
cụ thể ứng với một trình độ nhất định về kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành,
những phẩm chất và hiểu biết nghề nghiệp. Mỗi giai đoạn đào tạo, giáo dục vừa chuẩn
bị cho các cá nhân có đủ điều kiện thâm nhập vào các mối quan hệ XH, vừa giúp họ
bằng sự chủ động sáng tạo của chính họ có thể cải biến thực tại phát triển hơn những.
gì mà thế hệ trước đã truyền đạt lại cho họ. Để làm được điều đó, bản thân hoạt động

giáo dục không thể thoát ly khỏi những tiền đề của mục tiêu phát triển kinh tế - XH,
những khả năng cụ thể của đất nước, những quan điểm và mục tiêu chiến lược về phát
triển kinh tế - văn hoá XH và những đòi hỏi được thường xuyên nâng cao dân trí của
toàn dân. Chỉ dựa trên những cơ sở phát' triển của các thiết chế khác nhau trong cấu
trúc XH, GD mới xác định được cho mình phương thức thực hiện các quy luật khách
quan tồn tại trong bản thân hoạt động giáo dục giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp
đào tạo, quản lý giáo dục v.v
II. Đối tượng nghiên cứu của XHHGD.
Đối tượng nghiên cứu của XHHGD là quá trình hình thành và phát triển của con
người dưới tác động của giáo dục với tư cách là một trong những thiết chế XH cơ bản
nhất trong những điều kiện phát triển của lịch sử XH cụ thể.
Như vậy, đối tượng của XHHGD chính là mối quan hệ mang tính quy luật giữa
quá trình hình thành nhân cách cá nhân với các yếu tố vốn có của sự phát triển. Hiện
tượng GD xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người và cũng từ đó, GD chịu sự
quy định của các lĩnh vực khác trong đời sống XH, như kinh tế, chính trị, văn hoá v.v
Mỗi sự thay đổi về quan hệ sản xuất của lực lượng sản xuất, của chế độ chính trị, của
hệ tư tưởng, của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn hoá đều kéo theo nó sự biến đổi
của mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động GD.
Mối quan hệ gắn bó và phụ thuộc này giữa GD và những quá trình Xã khác biểu hiện
như một quy luật về sự phù hợp tất yếu của GD tương ứng với sự biến đổi của lịch sử
XH, mà trước hết là sự biến đổi của phương thức sản xuất, của chính trị và văn hoá.
Mặt khác, với tư cách là một trong những thiết chế cơ bản của XH, GD thực hiện
những chức năng GD của mình trong việc "tái sản xuất" những con người tham gia
vào hoạt động XH, trở thành chủ thể của những thiết chế XH khác. Gơ không chỉ phụ
thuộc một chiều vào Xh, mà trong khi thực hiện những chức năng cụ thể (kinh tế - sản
xuất; chính trị- xã hội, tư tưởng- văn hoá) nó luôn luôn có sự đóng góp của mình vào
sự phát triển XH. Nói cách khác, cùng với quá trình tái sản xuất sức lao động XH, cải
biến cấu trúc XH, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hoá của xã hội, giáo dục đã đáp
ứng những đòi hỏi của sự phát triển XH. Có thể nói rằng, chính những mối quan hệ
phụ thuộc, chi phối lẫn nhau giữa hoạt động GD và những quá trình XH khác là đối

tượng nghiên cứu của XHGD.

24
GD là một hiện tượng XH đặc thù, song mối quan hệ qua lại của nó với những
hiện tượng khác nhau của Xh không thuần nhất mà ở những chuẩn mức khác biệt cả về
đối tượng tương tác đến mục đích, nội dung, phương pháp và hệ thống tổ chức khi
thực hiện những quan hệ Xh này. Vì thế XHHGD cần xem xét GD ở các cấp độ khác
nhau: cấp độ đại trà (phổ biến) nghiên cứu giáo dục như là một hiện tượng ngẫu nhiên,
có mặt ở mọi nơi, mọi lúc và trên mọi đối tượng (miễn là có sự truyền thụ và lĩnh hội
kinh nghiệm XH); cấp độ có định hướng khu biệt, khi hoạt động giáo dục được diễn ra
nhằm thực hiện những chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị XH, nhờ các hoạt động như tín
ngưỡng, lễ hội, truyền thống v.v cấp độ chuẩn mực XHHGD nghiên cứu hệ thống
GD trong tính chỉnh thể của nó với sự có mặt của một hoạt động GD có mục đích, có
kế hoạch, có các phương thức hoạt động phù hợp với những đối tượng cụ thể, đó là hệ
thống giáo dục quốc dân, là GD của nhà trường ứng với mỗi thời đại, mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc, mà thể chế chính trị xác định. Nhờ cách tiếp cận này trong khi nghiên cứu
XHHGD, chúng ta có thể phát hiện những quy luật, phát triển, thích ứng của các dạng,
các kiểu GD trong các giai đoạn phát triển của lịch sử - xã hội. Tuy nhiên, với sự biến
động không ngừng của thực tại XH và trong bản thân hoạt động GD, chúng ta chỉ có
thể nhìn thấy tính quy luật trong một tập hợp phổ biến nhất, còn trong đời sống XH, sẽ
xuất hiện không ít những trường hợp ngoại lệ, cá biệt đòi hỏi chúng ta phải có sự quan
tâm, xem xét cặn kẽ.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu của XHHGD.
- Là một bộ phận đặc thù của XHH, XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu mối quan
hệ qua lại giữa con người với con người trong quá trình phát triển và tiến bộ XH, bao
gồm những tác động GD ngẫu nhiên của cộng đồng XH đối với mỗi cá nhân; những
tác động có định hướng của các nhóm và tổ chức XH; những tác động mang tính
chuẩn mực trong các thể chế GD (hệ thống GD quốc dân và những thành phần thuộc
cấu trúc của hệ thống
- XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu mối quan hệ gắn bó giữa hoạt động GD với

tư cách là một thiết chế XH, với những thiết chế cơ bản khác nhau của hệ thống XH.
Điều đó cũng có nghĩa là XHHGD cần làm sáng tỏ các tính quy luật quan trọng của
GD như: tính quy luật về sự phù hợp tất yếu của GD với trình độ phát triển sức sản
xuất XH và với tính chất của quan hệ sản xuất XH; tính đồng bộ, liên tục về không
gian và thời gian của những tác động GD do những tổ chức, các nhóm XH khác ngoài
nhà trường mang lại (XHHGD).
- XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu vai trò của hoạt động GD với tư cách là một
lĩnh vực XH đảm bảo việc kế thừa, duy trì và phát triển nền văn hoá XH một cách liên
tục, thúc đẩy sự phát triển của XH. Mặc dù chịu ảnh hưởng của các thiết chế Xh khác,
song giáo dục luôn tồn tại một cách khách quan, vừa vận động theo quy luật của XH,
vừa vận động theo quy luật của bản thân hoạt động HD, vừa phát triển song song với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa là động lực và điều kiện duy trì sự tồn tại và

25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×