Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nghiên cứu tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng giảm thiểu fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.85 KB, 17 trang )

Nghiên cứu tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong
nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng
giảm thiểu fouling cho quá trình lọc tách thuốc
nhuộm qua màng

Cù Thị Vân Anh

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn Thạc sĩ ngành: Hóa môi trường; Mã số: 60 44 41
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Dung
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Tổng quan về nước thải dệt nhuộm, phương pháp xử lý, màng lọc, các quá
trình tách màng và biến tính bề mặt màng lọc. Trình bày phương pháp nghiên cứu:
Đánh giá khả năng tách thuốc nhuộm của màng; xác định độ giảm năng suất lọc theo
thời gian; đánh giá độ bền của màng trong các môi trường pH khác nhau; đánh giá khả
năng phục hồi năng suất lọc bằng phương pháp rửa; biến tính bề mặt màng lọc; xác
định lượng polyme được trùng hợp ghép lên bề mặt màng; xác định lượng thuốc
nhuộm hấp phụ lên màng trong quá trình lọc; nghiên cứu cấu trúc và tính chất bề mặt
màng. Đưa ra kết quả thực nghiệm và thảo luận: Xây dựng đường chuẩn xác định
nồng độ thuốc nhuộm; khả năng tách loại thuốc nhuộm của màng ở các điều kiện khác
nhau; Khả năng giảm fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng.

Keywords: Hóa môi trường; Kỹ thuật màng lọc; Thuốc nhuộm; Xử lý nước thải

Content
MỞ ĐẦU

Ngành dệt nhuộm đã có từ lâu đời vì nó gắn liền với một trong những nhu cầu cơ bản
của con người là may mặc. Sản lượng dệt trên thế giới ngày càng tăng, không chỉ về chất
lượng mà còn đa dạng về mẫu mã, màu sắc của sản phẩm. Ở Ấn Độ, hàng năm sản xuất


khoảng trên 4000 triệu mét

vải. Ở Việt nam, ngành công nghiệp dệt may đang trở thành một
trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hàng năm sản xuất khoảng trên 2000 triệu mét vải
và trong các năm tới sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, một vấn đề luôn đi kèm theo qui mô sản
xuất là vấn đề chất thải của ngành này, trong đó có nước thải. Nước thải phát sinh trong ngành
công nghiệp dệt nhuộm xuất phát từ các công đoạn hồ sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm Nếu
lượng nước thải này chỉ xử lý sơ bộ, sau đó xả ra môi trường sau mỗi chu trình thì không chỉ
gây thiệt hại cho nguồn tài nguyên nước mà còn làm ô nhiễm môi trường nước và không tận
dụng hết thuốc nhuộm còn tồn dư. Hiện nay, các phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm đòi

2
hỏi khá nhiều chi phí, kỹ thuật phức tạp mà hiệu quả không cao. Thành phần gây ô nhiễm
chính trong nước thải dệt nhuộm là lượng thuốc nhuộm tồn dư trong dòng thải sau công đoạn
nhuộm. Do đó, việc tách thu hồi thuốc nhuộm tồn dư ngay tại công đoạn phát sinh là một
trong những giải pháp hữu ích để xử lý và giảm thiểu ô nhiễm nước thải dệt nhuộm. So với
các phương pháp xử lý thông thường, ngoài mục đích tách thuốc nhuộm dư trong nước thải
nhuộm, kỹ thuật lọc màng còn cho phép tái sử dụng lại dung dịch nhuộm và nước sạch sau
khi đã tách thuốc nhuộm, đây là một phương pháp có nhiều ưu điểm và đã được áp dụng ở
một số nước. Ở nước ta, việc áp dụng kỹ thuật lọc màng trong xử lý nước thải dệt nhuộm là
vấn đề còn rất mới.
Phương pháp tách bằng màng là một trong những kỹ thuật tách hiện đại và được ứng
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, kỹ thuật lọc màng
đã có những bước tiến bộ vượt bậc và được áp dụng rộng rãi ở qui mô công nghiệp cho nhiều
mục đích khác nhau, như sản xuất nước sạch và siêu sạch, lọc hoá dầu, dược phẩm, thực
phẩm, hoá chất, y tế, môi trường … Ưu điểm của phương pháp lọc bằng màng là có thể tách
được các cấu tử có kích thước rất khác nhau, từ cỡ hạt tới cỡ ion mà không cần phải sử dụng
thêm các hoá chất khác, các cấu tử cần tách không phải chuyển pha, là phương pháp tách hiện
đại, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường.
Trong luận văn này, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu tách thu hồi thuốc

nhuộm dư trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng giảm thiểu fouling cho quá
trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng”
Trước hết xin trình bày một số giới thiệu về thuốc nhuộm và màng lọc.
1.1. Nước thải dệt nhuộm và các phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm
1.1.1. Công nghệ sản xuất và nguồn phát sinh nước thải
Thông thường công nghệ dệt nhuộm gồm ba quá trình cơ bản: Kéo sợi, dệt vải và xử
lý (nấu tẩy), nhuộm và hoàn thiện vải. Các công đoạn chính gồm:
- Làm sạch nguyên liệu.
- Kéo sợi, đánh ống, mắc sợi.
- Hồ sợi dọc.
- Dệt vải.
- Giũ hồ.
- Nấu vải.
- Làm bóng vải.
- Tẩy trắng.
- Nhuộm vải và hoàn thiện:

3
Nguồn nước thải phát sinh trong công nghệ dệt nhuộm là từ các công đoạn hồ
sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm và hoàn tất, trong đó lượng nước thải chủ yếu do quá trình giặt
sau mỗi công đoạn, và nước thải công đoạn giặt sau nhuộm chiếm từ 20 đến 60 % tổng lượng
nước thải.
1.1.2. Đặc trưng nước thải dệt nhuộm
Những đặc trưng nước thải dệt nhuộm theo bảng sau:
Bảng 1.1. Các chất gây ô nhiễm và đặc tính của nước thải ngành dệt-nhuộm [14 ]
Công đoạn
Chất ô nhiễm trong nước thải
Đặc tính của nước thải
Hồ sợi, giũ hồ
Tinh bột, glucose, carboxy metyl xenlulo,

polyvinyl alcol, nhựa, chất béo và sáp
BOD cao (34 đến 50 % tổng
BOD)
Nấu tẩy
NaOH, chất sáp và dầu mỡ, tro, soda, silicat
natri và xơ sợi vụn
Độ kiềm cao, màu tối, BOD
cao (30 % tổng BOD)
Tẩy trắng
Hypoclorit, hợp chất chứa clo, NaOH,
AOX, axit …
Độ kiềm cao, chiếm 5 %
BOD
Làm bóng
NaOH, tạp chất
Độ kiềm cao, BOD thấp
(dưới 1% tổng BOD)
Nhuộm
Các loại thuốc nhuộm, axit axetic và các
muối kim loại
Độ màu rất cao, BOD khá
cao, TS cao
In
Chất màu, tinh bột, dầu, đất sét, muối, kim
loại, axit …
Độ màu cao, BOD cao và dầu
mỡ
Hoàn thiện
Vết tinh bột, mỡ động vật, muối
Kiềm nhẹ, BOD thấp


1.1.3. Các phương pháp ngăn ngừa, giảm thiểu và xử lý nước thải dệt nhuộm
Các phương pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm nước thải ngành dệt nhuộm có thể
thực hiện trong quá trình sản xuất như:
- Giảm nhu cầu sử dụng nước bằng cách thường xuyên kiểm tra hệ thống nước cấp,
tránh rò rỉ nước. Sử dụng công nghệ tẩy, nhuộm, giặt hợp lý. Tuần hoàn, sử dụng lại các dòng
nước giặt ít ô nhiễm và nước làm nguội.
- Hạn chế sử dụng các hóa chất trợ, thuốc nhuộm ở dạng độc hay khó phân hủy sinh
học. Giảm các chất gây ô nhiễm nước thải trong quá trình tẩy, giảm ô nhiễm kiềm trong nước
thải từ công đoạn làm bóng.

4
- Thu hồi và sử dụng lại dung dịch hồ từ công đoạn hồ sợi và giũ hồ, phương pháp lọc
màng dùng để thu hồi PVA được ứng dụng lần đầu tiên ở Mỹ năm 1974 và cho đến nay đã
được áp dụng ở nhiều nước châu Âu.
- Sử dụng nhiều lần dịch nhuộm vừa tiết kiệm hóa chất, thuốc nhuộm và giảm được ô
nhiễm môi trường. Các loại thuốc nhuộm cho phép sử dụng lại nhiều lần gồm: Thuốc nhuộm
axit dùng cho len và polyamit, thuốc nhuộm bazo dùng cho polyacrylonitril, thuốc nhuộm
trực tiếp cho mặt hàng bông, thuốc nhuộm phân tán cho sợi tổng hợp như polyester. Cho đến
nay, việc thu hồi thuốc nhuộm từ dịch nhuộm bằng phương pháp lọc màng đã được thực hiện
thành công ở một số nước để thu hồi thuốc nhuộm indigo từ quá trình nhuộm sợi bông. Sau
khi nhuộm thì phần thuốc nhuộm không gắn vào sợi sẽ đi vào nước giặt với nồng độ 0,1 ppm.
Để thu hồi thuốc nhuộm, dùng phương pháp lọc màng để nâng nồng độ thuốc nhuộm sau lọc
lên 60 đến 80 ppm và có thể đưa vào bể nhuộm để sử dụng lại.
Do đặc thù của công nghệ, nước thải ngành dệt nhuộm chứa tổng hàm lượng chất rắn, độ
màu, BOD, COD cao. Việc lựa chọn phương pháp xử lý cần phải dựa vào nhiều yếu tố như
lượng nước thải, đặc tính nước thải, tiêu chuẩn thải … Về nguyên lý, hiện có các phương
pháp sau được áp dụng để xử lý nước thải dệt nhuộm:
* Phương pháp đông keo tụ: Đây là phương pháp khá thông dụng trong xử lý nước thải dệt
nhuộm. Trong phương pháp này người ta dùng phèn nhôm hoặc phèn sắt cùng với sữa vôi

khử màu và một phần COD. Điều chỉnh pH thích hợp cho từng loại phèn và loại nước thải cần
xử lý.
* Phương pháp hấp phụ: Cơ sở của quá trình là hấp phụ chất tan lên bề mặt chất rắn xốp
(chất hấp phụ). Các chất hấp phụ thường là than hoạt tính, than nâu, đất sét, cacbonat, magie,
trong đó than hoạt tính có bề mặt riêng lớn từ 400 đến 500 m
2
/g.
* Phương pháp oxi hóa: Các chất nhuộm vải hầu hết đều là các chất bền hóa học nên phải
dùng các chất oxi hóa mạnh như clo, ozon, peroxit để oxy hóa thuốc nhuộm.
* Phương pháp sinh học: Dùng để xử lý các chất có thể phân hủy sinh học như hồ tinh bột
* Phương pháp màng lọc: Phương pháp này đã được ứng dụng trong xử lý nước thải ngành
dệt nhuộm với mục đích thu hồi các chất tái sử dụng lại như hồ tinh bột, PVA, thu hồi muối
và thuốc nhuộm. Một số kết quả nghiên cứu về việc áp dụng kỹ thuật lọc màng NF và RO đã
cho thấy phương pháp này khá hiệu quả, có thể giảm COD tới 99,5 %. Việc áp dụng công
nghệ màng có thể giảm lượng nước sạch tiêu tốn cho quá trình nhuộm vải tới 70%. Kỹ thuật
lọc màng có thể áp dụng để xử lý nước thải nhuộm tốt hơn rất nhiều so với các phương pháp
thông thường.

5
1.2. Giới thiệu về màng lọc và các quá trình phân tách màng
Màng lọc là một loại vật liệu được sử dụng trong quá trình tách một hỗn hợp đồng thể
hay dị thể (lỏng – lỏng, lỏng – rắn, khí – rắn, khí – khí). Một cách khái quát, có thể coi màng
là một lớp chắn có tính thấm chọn lọc đặt giữa hai pha – pha đi vào (feed) và pha thấm qua
(filtrate). Trong quá trình tách, màng có khả năng lưu giữ được một số cấu tử trong hỗn hợp
và cho các cấu tử khác đi qua. Quá trình vận chuyển chất qua màng được thực hiện một cách
tự nhiên hay cưỡng bức nhờ động lực giữa hai phía màng. Động lực của quá trình tách qua
màng là chênh lệch áp suất, chênh lệch nồng độ, chênh lệch nhiệt độ hay chênh lệch điện
trường.
Các quá trình màng động lực áp suất chủ yếu gồm: lọc thường, vi lọc, siêu lọc, lọc nano,
thẩm thấu ngược. Việc phân chia thành các quá trình màng dựa theo kích thước lỗ màng và

cũng chỉ mang tính tương đối. Ngoài ra còn một số quá trình khác như điện thẩm tách, thẩm
tách và bốc hơi qua màng.

1.3 Biến tính bề mặt màng lọc
Để nâng cao tính năng tách của màng, giảm mức độ tắc màng nói chung, đặc biệt là
trong quá trình tách các chất hữu cơ, ngoài các phương pháp rửa cơ học và lựa chọn chế độ
thủy động thích hợp, gần đây việc nghiên cứu biến tính bề mặt màng là một giải pháp rất được
quan tâm nghiên cứu.
Phương pháp biến tính bề mặt có nhiều ưu điểm: Cải thiện được tính chất bề mặt vật
liệu mà không gây ảnh hưởng đến tính chất bên trong vật liệu như khả năng bám dính, độ
thấm nước, tính thích ứng sinh học, chống fouling mà không cần phải chế tạo lại toàn bộ
khối vật liệu, nhưng vẫn có được bề mặt vật liệu với các tính chất mong muốn; hơn nữa
phương pháp này sẽ giảm bớt chi phí chế tạo vật liệu vì chỉ cần tác động lên bề mặt mà không
cần phải chế tạo toàn bộ khối vật liệu [36].
Hiện nay có rất nhiều phương pháp biến tính bề mặt vật liệu đang được nghiên cứu và
phát triển, có thể chia thành ba nhóm chính là: Phương pháp vật lý – hóa học; Phương pháp
cơ học và phương pháp sinh học. Trong đó, đa dạng và phổ biến nhất là phương pháp vật lý –
hóa học, phương pháp này được chia thành ba nhóm nhỏ: thứ nhất là các phương pháp pha
khí – vật liệu được xử lý trong các môi trường khí chứa các phần tử hoạt động (gốc tự do,
electron, các phân tử bị kích thích) hay dưới các bức xạ điện từ (tia UV, tia γ, điện quang);
thứ hai là các phương pháp pha lỏng và khối – bao gồm các kỹ thuật tạo lớp phủ vật lý hoặc
thực hiện các phản ứng hóa học trên bề mặt vật liệu; thứ ba là kết hợp hai phương pháp thứ
nhất và thứ hai tạo ra các lớp polyme trùng hợp ghép trên bề mặt vật liệu, ngoài ra người ta

6
còn có thể biến tính bề mặt vật liệu trong những môi trường khí được phóng điện với tần số
cao – môi trường plasma, kỹ thuật này có tác dụng chủ yếu là ăn mòn bề mặt, tạo các liên kết
ngang trên bề mặt và phủ một lớp polyme mới lên trên bề mặt của vật liệu nền. Phương pháp
cơ học chủ yếu là làm nhám bề mặt vật liệu (roughing). Phương pháp biến tính sinh học gồm
có: hấp phụ vật lý các phân tử sinh học (protein, lipid, receptor, ) lên bề mặt vật liệu, tạo liên

kết hóa học của các phân tử sinh học với các nhóm bề mặt hay nuôi cấy tế bào trên bề mặt vật
liệu [11].
Hiện nay, việc nghiên cứu biến tính bề mặt màng lọc polyme là một vấn đề thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực chế tạo màng do những ưu thế đặc
biệt của phương pháp này. Một số kỹ thuật đã và đang được nghiên cứu là: kỹ thuật trùng hợp
bề mặt, kỹ thuật phủ bề mặt, kỹ thuật plasma, kỹ thuật xử lý ozon, kỹ thuật trùng hợp ghép
quang dùng tia UV
1.4 . Mục tiêu nghiên cứu
Nội dung của luận văn tập trung vào việc nghiên cứu khả năng tách loại thuốc nhuộm
trong dung dịch nước bằng phương pháp lọc màng và đánh giá khả năng giảm fouling cho quá
trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng.
Các kỹ thuật thực nghiệm được trình bày như sau:
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá khả năng tách thuốc nhuộm của màng
Tính chất tách của màng được đánh giá qua màu của dịch lọc (hoặc độ lưu giữ hoặc hiệu
suất lọc) và năng suất lọc với các nồng độ khác nhau của dung dịch thuốc nhuộm cũng như
mức độ cô đặc dung dịch so với dung dịch ban đầu. Độ lưu giữ của màng được xác định bởi
công thức:
Với thuốc nhuộm phân tán, khả năng tách của màng được đánh giá qua độ trong và màu
của dịch lọc.
Năng suất lọc của màng được xác định bằng cách đo thể tích dịch lọc vận chuyển qua
màng trong một khoảng thời gian tại áp suất xác định, sau đó áp dụng công thức:
2.2.2. Xác định độ giảm năng suất lọc theo thời gian
Độ giảm năng suất lọc theo thời gian là một chỉ tiêu khá quan trọng trong các quá trình
lọc màng, cho phép đánh giá mức độ cũng như khả năng tắc màng sau một thời gian lọc. Độ
giảm năng suất lọc càng nhỏ, màng càng sử dụng được lâu (ít bị tắc hơn), lọc được nhiều

7
dung dịch hơn, chu kỳ rửa màng dài hơn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho quá trình lọc.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành xác định độ giảm năng suất lọc bằng phương pháp

đo thể tích dịch lọc theo thời gian, cứ sau mỗi 5 phút lại ghi thể tích dịch lọc một lần. Sau đó
áp dụng công thức (2.2) để tính năng suất lọc tại thời điểm tương ứng.
2.2.3. Đánh giá độ bền của màng trong các môi trường pH khác nhau
Màng được ngâm trong các dung dịch có pH khác nhau (từ 2 đến 10) trong 30 phút, sau đó
tiến hành đánh giá các thông số năng suất lọc và độ lưu giữ của màng sau khi ngâm so với
năng suất lọc và độ lưu giữ của màng ban đầu.
2.2.4. Đánh giá khả năng phục hồi năng suất lọc bằng phương pháp rửa
Màng sau khi lọc được rửa lần lượt bằng nước cất và các dung dịch rửa Na
5
P
3
O
10
2%, axit
xitric 2%, sau mỗi lần rửa đo độ thấm nước của màng. Khả năng phục hồi năng suất lọc của
màng được xác định bằng cách so sánh độ thấm nước của màng trước và sau khi rửa.
2.2.5. Biến tính bề mặt màng lọc
Bề mặt màng được biến tính bằng phương pháp trùng hợp ghép dưới bức xạ tử ngoại. Các
dung dịch monome được sử dụng trong quá trình trùng hợp bao gồm axit acrylic và axit
maleic. Ảnh hưởng của thời gian và phương thức tiến hành trùng hợp đến tính năng tách của
màng được đánh giá qua các thông số: Khả năng lưu giữ (tách) thuốc nhuộm, năng suất lọc và
độ giảm năng suất lọc của màng trong quá trình tách.
 Chiếu bức xạ tử ngoại
Màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại trực tiếp trong những khoảng thời gian xác định, để
màng ở nhiệt độ phòng sau khoảng 24 tiếng đồng hồ và tiến hành đánh giá khả năng tách của
màng.
 Trùng hợp ghép song song:
Màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại trong điều kiện xác định, sau đó ngâm trong các
dung dịch monome đồng thời chiếu bức xạ tử ngoại trong những khoảng thời gian khác nhau,
sấy khô màng và giữ màng ở nhiệt độ phòng sau khoảng 24 tiếng đồng hồ tiến hành đánh giá

khả năng tách của màng.
 Trùng hợp ghép nối tiếp:
Màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại trong điều kiện xác định, sau đó ngâm màng trong
các dung dịch monome ở các khoảng thời gian khác nhau, sấy khô màng và giữ màng ở nhiệt
độ phòng, sau khoảng 24 tiếng đồng hồ tiến hành đánh giá khả năng tách của màng.
Các thí nghiệm thử màng thực hiện ở áp suất 25bar, diện tích màng lọc là 1.32×10
–3
m
2
,
nồng độ dung dịch thuốc nhuộm Red 3BF 30ppm.

8
2.2.6. Xác định lượng polyme được trùng hợp ghép lên bề mặt màng
Lượng polyme trùng hợp ghép lên màng ảnh hưởng đến mức độ chặt khít của bề mặt
màng sau khi biến tính. Lượng polyme ghép càng nhiều, bề mặt màng sẽ càng chặt khít.
Lượng polyme trùng hợp ghép được xác định bằng chênh lệch khối lượng màng trước và sau
khi trùng hợp trên một đơn vị diện tích bề mặt màng:
2.2.7. Xác định lượng thuốc nhuộm hấp phụ lên màng trong quá trình lọc
Lượng thuốc nhuộm bị hấp phụ lên màng là nguyên nhân gây ra độ giảm năng suất lọc
của màng theo thời gian. Màng hấp phụ ít thuốc nhuộm hơn sẽ có tốc độ giảm năng suất lọc
chậm hơn. Do đó, đây cũng là một thông số quan trọng để đánh giá tính chất lọc của màng.
Lượng thuốc nhuộm hấp phụ lên màng được xác định bằng cách so sánh khối lượng của
màng trước và sau khi lọc (màng được rửa sạch bằng nước cất và sấy nhẹ đến khô hoàn toàn
rồi đem cân khối lượng trên cân phân tích) :
2.2.8. Nghiên cứu cấu trúc và tính chất bề mặt màng
Cấu trúc hình thái của bề mặt màng được quan sát qua các ảnh chụp hiển vi điện tử quét
(SEM) và ảnh chụp hiển vi lực nguyên tử (AFM) với các độ khuếch đại khác nhau.
Để xác định các nhóm chức mới xuất hiện trên bề mặt màng sau khi trùng hợp bề mặt, sử
dụng thiết bị đo phổ hồng ngoại phản xạ ngoài FTIR-ATR, với độ phân giải 4 cm

-1
, góc quét
phổ 30
0
.
Các kết quả và thảo luận được tóm tắt trong phần sau:
3. Khảo sát điều kiện tách loại thuốc nhuộm
3.1 Ảnh hưởng của nồng độ thuốc nhuộm trong dung dịch
Kết quả thực nghiệm cho thấy, năng suất lọc qua màng khá ổn định và có xu hướng
giảm dần khi nồng độ thuốc nhuộm trong dung dịch ban đầu tăng. Ở cùng điều kiện, trong 3
loại thuốc nhuộm, dung dịch Blue MERF cho năng suất lọc thấp nhất, dung dịch Yellow 3GF
cho năng suất lọc cao nhất. Sự giảm năng suất lọc khi nồng độ thuốc nhuộm trong dung dịch
tăng lên là do sự phân cực nồng độ giữa hai phía màng và một phần do sự hấp phụ của thuốc
nhuộm lên màng trong quá trình tách, làm tăng trở lực chuyển khối qua màng. Kết quả thực
nghiệm cũng cho thấy, trong tất cả các thí nghiệm, dịch lọc thu được đều không có màu. Điều
đó có nghĩa là trong vùng nồng độ khảo sát, màng có khả năng lưu giữ được gần như hoàn
toàn thuốc nhuộm trong dung dịch.
3.2. Ảnh hưởng của mức độ cô đặc dung dịch
Kết quả xác định năng suất lọc và độ giảm năng suất lọc theo thời gian cho thấy, trong
vùng nồng độ khảo sát, năng suất lọc giảm dần khi mức độ cô đặc tăng, tuy nhiên độ giảm
năng suất lọc nói chung không lớn lắm.

9
3.3. Ảnh hưởng của áp suất dòng qua module màng
Kết quả thực nghiệm cho thấy, năng suất lọc của màng tăng khá mạnh theo áp suất dòng
qua module, ví dụ, khi áp suất dòng qua module tăng từ 0.5 atm đến 2.5 atm thì năng suất lọc
tăng khoảng 2.5 lần, trong khi màng vẫn có thể lưu giữ được gần như hoàn toàn thuốc nhuộm
trong dung dịch. Trên thiết bị lọc màng tự lắp đặt, do công suất của máy bơm nhỏ nên chúng
tôi không khảo sát được ở các áp suất dòng vào cao hơn.
Thực tế, các loại màng lọc thương mại chế tạo dùng cho lọc nano và thẩm thấu ngược có

thể làm việc được ở áp suất khá cao. Màng thương mại Filmtech TW30 dùng cho lọc nano có
thể làm việc được ở áp lực nén qua màng tối đa khoảng 20 bar. Do đó, trong các hệ thống
dùng cho lọc công nghiệp, thường sử dụng các loại bơm cao áp để bơm và nén dung dịch qua
màng ở áp lực cao để thu được lưu lượng dòng dịch lọc qua màng lớn.
3.4. Ảnh hưởng của loại thuốc nhuộm
Kết quả đo và so sánh năng suất lọc của màng với các loại dung dịch thuốc nhuộm
trực tiếp và phân tán được đưa ra ở Hình 3.10 cho thấy, với các dung dịch thuốc nhuộm có
nồng độ thấp (50 ppm) năng suất lọc của màng đối với hai loại dung dịch thuốc nhuộm không
khác nhau nhiều, nhưng với các dung dịch nồng độ cao năng suất lọc của màng đối với dung
dịch thuốc nhuộm phân tán thấp hơn khá nhiều so với dung dịch thuốc nhuộm trực tiếp ở cùng
nồng độ (200ppm, 300ppm). Độ giảm năng suất lọc đối với dung dịch thuốc nhuộm phân tán
cũng lớn hơn so với dung dịch thuốc nhuộm tan.
Khi dung dịch được cô đặc đến 90%, năng suất lọc của màng đối với dung dịch thuốc
nhuộm trực tiếp giảm nhẹ, trong khi với dung dịch thuốc nhuộm phân tán, năng suất lọc giảm
khá mạnh. Điều đó có nghĩa là khả năng gây tắc màng (fouling) của thuốc nhuộm phân tán cao
hơn so với thuốc nhuộm trực tiếp ở cùng nồng độ và cùng các điều kiện thực hiện quá trình
tách.
3.5. So sánh khả năng lọc thuốc nhuộm của một số loại màng khác nhau
Hiện nay trên thị trường có một số loại màng lọc thương mại của các hãng khác nhau.
Chúng tôi đã tiến hành so sánh khả năng lọc tách thuốc nhuộm của hai loại màng Filmtech
TW-30 (Mỹ) và Saehan CSM (Hàn Quốc) trong cùng các điều kiện tách như nhau. Dung
dịch thuốc nhuộm trực tiếp Yellow 3GF ở các nồng độ 50ppm, 100ppm được tách qua màng
trên thiết bị lọc liên tục tại áp lực dòng qua module xác định.

10
Kết quả thực nghiệm cho thấy khả năng lọc tách thuốc nhuộm của các loại màng này là
tương đương nhau, năng suất lọc của màng Saehan CSM cao hơn một chút so với màng
Filmtech TW30, trong khi khả năng lưu giữ thuốc nhuộm của hai loại màng là như nhau (dịch
lọc trong và không màu).
3.6. Đánh giá độ bền của màng trong các môi trường có pH khác nhau

Để đánh giá ảnh hưởng của pH, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm như sau: màng
Filmtech TW30 được cắt thành các tấm vừa với kích thước của thiết bị lọc gián đoạn và được
ngâm 30 phút trong các dung dịch có pH từ 2 đến 10, sau đó màng được rửa sạch và dùng để
lọc dung dịch thuốc nhuộm Red 3BF nồng độ 30ppm trên thiết bị lọc gián đoạn. Kết quả thực
nghiệm đánh giá ảnh hưởng của pH đến tính năng tách của màng sau khi ngâm trong các dung
dịch có pH khác nhau được đưa ra ở Hình 3.1 cho thấy, trong khoảng pH từ 5 đến 8, tính
năng tách của màng không bị ảnh hưởng nhiều. Trong khoảng pH nhỏ hơn 5 và lớn hơn 8,
năng suất lọc của màng tăng lên nhưng khả năng lưu giữ thuốc nhuộm của màng suy giảm so
với màng ban đầu. Ảnh chụp SEM cho thấy bề mặt màng đã bị ảnh hưởng bởi các môi
trường quá axit hoặc quá kiềm, trong đó môi trường axit có tác động mạnh hơn so với môi
trường kiềm.
3.7. Kết quả tách thuốc nhuộm trên một số mẫu nước thải nhuộm thực tế
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát khả năng tách thuốc nhuộm dư trong một số mẫu nước
thải nhuộm thực tế bằng phương pháp lọc màng, sử dụng màng lọc Filmtech TW30. Các mẫu
nước thải nhuộm được lấy ở xưởng nhuộm tư nhân tại Hoài Đức, Hà nội.
Khi kiểm tra pH của các mẫu nước thải thực tế, các kết quả đo đều cho giá trị pH ban
đầu lớn hơn 9 và có mùi rất khó chịu. Trước khi lọc qua màng, các mẫu dung dịch được điều
chỉnh về pH trung tính. Hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng (TSS) trong các mẫu dung dịch nước
thải nhuộm ban đầu nằm trong trong khoảng 70 -100, sau khi lọc giá trị TSS đạt gần về 0.
Kết quả so sánh trực quan màu của các dung dịch nước thải nhuộm trước và sau khi lọc
qua màng được đưa ra ở Hình 3.16. Tính chất các mẫu nước thải trước và sau xử lý đưa ra ở
Bảng 3.4 cho thấy, các mẫu nước thải nhuộm sau khi lọc qua màng đều đạt chất lượng tốt về
tiêu chuẩn dòng thải đối với các chỉ tiêu về màu sắc và các thông số COD, BOD, chất rắn lơ
lửng. Mặt khác, dịch lọc thu được có thể được quay vòng lại dùng làm nước cấp cho quá trình
nhuộm, dịch thuốc nhuộm lưu giữ được thu gom và xử lý tập trung hoặc tái sử dụng lại.
4. Khả năng giảm fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng
4.1. Làm sạch màng bằng phương pháp rửa

11
Trong quá trình lọc dung dịch thuốc nhuộm qua màng, năng suất lọc của màng thường

giảm dần theo thời gian lọc. Hiện tượng giảm năng suất lọc của màng theo thời gian (fouling)
là do sự tích tụ hoặc sự hấp phụ của chất bị lưu giữ ở trên bề mặt và bên trong các lỗ xốp của
màng. Để phục hồi năng suất lọc cho màng có thể dùng phương pháp rửa màng định kỳ.
Chúng tôi đã khảo sát khả năng làm sạch màng bằng phương pháp rửa với một số tác
nhân rửa khác nhau. Thí nghiệm được tiến hành như sau: Màng ban đầu được kiểm tra lưu
lượng dòng nước tinh khiết qua màng (J
w0
) ở áp suất xác định. Tiếp theo tiến hành lọc tách
dung dịch thuốc nhuộm qua màng. Sau khi thực hiện quá trình tách dung dịch thuốc nhuộm,
rửa màng bằng nước tinh khiết trong 1 giờ đồng hồ ở áp lực dòng vào xác định, đo lưu lượng
nước qua màng sau khi rửa (J
w1
). Tiếp tục rửa màng với các tác nhân rửa là dung dịch
Na
5
P
3
O
10
nồng độ 2 % và dung dịch axit xitric nồng độ 2 % ở điều kiện áp suất tương tự, đo
lưu lượng dòng nước qua màng sau khi rửa, thu được các giá trị lưu lượng dòng tương ứng
(J
w2
và J
w3
).
Kết quả thực nghiệm cho thấy, năng suất lọc của màng được phục hồi khoảng 94.6 % so với
màng ban đầu sau khi rửa bằng nước tinh khiết, phục hồi 96.6 % sau khi rửa bằng Na
5
P

3
O
10

và đạt 98.7 % sau khi tiếp tục rửa bằng axit citric. Điều đó chứng tỏ, màng có khả năng được
làm sạch và tái sử dụng tốt bằng phương pháp rửa với các tác nhân rửa trên.
4.2. Biến tính bề mặt màng
4.2.1. Tác động bức xạ tử ngoại lên bề mặt màng
Trong thí nghiệm này, bề mặt màng FilmtechTW30 được chiếu bức xạ tử ngoại với
cường độ 30W và 60W trong các khoảng thời gian khác nhau, khoảng cách từ nguồn bức xạ
đến bề mặt màng là 20 cm. Sau đó, màng được kiểm tra tính năng tách với dung dịch thuốc
nhuộm Red 3BF nồng độ 30 ppm trên thiết bị lọc gián đoạn ở áp suất xác định. Kết quả thực
nghiệm cho thấy, sau khi tác động bức xạ tử ngoại lên bề mặt màng, khả năng lưu giữ thuốc
nhuộm của màng được duy trì tốt trong khi năng suất lọc của màng tăng mạnh so với màng
nền ban đầu. Tốc độ giảm năng suất lọc của màng chậm hơn và có xu hướng trở nên ổn định
khi thời gian lọc kéo dài.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, độ giảm năng suất lọc của các màng sau khi chiếu bức xạ tử
ngoại thấp hơn nhiều so với màng không có tác động bức xạ tử ngoại (giảm từ 47% đối với
màng ban đầu xuống 15% sau khi được chiếu bức xạ). Trong các điều kiện đã khảo sát, màng
được tác động bức xạ cường độ 60W trong thời gian 3 phút cho năng suất lọc ban đầu cao

12
nhất, nhưng tốc độ giảm năng suất lọc của màng này lớn hơn so với các màng được chiếu bức
xạ cường độ 30W trong thời gian 1 phút và 2 phút. Màng được chiếu bức xạ cường độ 60W
trong 1 phút có năng suất lọc thấp hơn so với các màng khác, tuy nhiên năng suất lọc của
màng này vẫn cao gấp 2 lần so với màng nền ban đầu. Sự tăng năng suất lọc có thể do hai
nguyên nhân: (1) Sự mở rộng nhẹ kích thước lỗ bề mặt màng và (2) sự tăng tính ưa nước của
bề mặt sau khi chiếu bức xạ.
Trong những điều kiện đã khảo sát, có thể thấy màng được tác động bởi bức xạ cường
độ 60W trong thời gian 1 phút cho kết quả tốt nhất, sau khi chiếu bức xạ ở điều kiện này,

năng suất lọc tăng lên rõ rệt so với màng nền trong khi độ lưu giữ của màng vẫn được duy trì
tốt. Do đó, chúng tôi đã chọn điều kiện này để thực hiện những khảo sát tiếp theo, nhằm nâng
cao hơn nữa năng suất lọc và khả năng chống fouling của màng.
4.2.2 Trùng hợp ghép axit maleic lên bề mặt màng
Axit maleic là một axit hữu cơ không no có nối đôi trong phân tử, sự có mặt của liên
kết kép và nhóm chức cacboxylic trong axit maleic là những yếu tố thuận lợi để thực hiện quá
trình trùng hợp ghép bề mặt nhằm nâng cao tính ưa nước và giảm mức độ fouling cho quá
trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng. Chúng tôi đã thực hiện quá trình trùng hợp ghép axit
maleic lên bề mặt màng bằng hai phương pháp khác nhau: Song song và nối tiếp.
*. Phương pháp song song: Kích thích bức xạ tử ngoại lên bề mặt màng, sau đó ngâm màng
vào dung dịch monome đồng thời chiếu bức xạ tử ngoại.
Trong thí nghiệm này, bề mặt màng được kích thích dưới bức xạ tử ngoại 60W trong 1
phút, sau đó ngâm màng vào dung dịch monome axit maleic nồng độ 5% và tiếp tục chiếu bức
xạ (60W) trong những khoảng thời gian khác nhau, màng được rửa sạch, sấy khô và tiến hành
đánh giá khả năng tách với dung dịch thuốc nhuộm Red 3BF có nồng độ 30ppm trên thiết bị
lọc gián đoạn
Kết quả thí nghiệm được đưa ra ở Hình 4.3. cho thấy, trong khoảng thời gian trùng hợp từ 1
đến 5 phút, tính năng tách của màng tăng lên rõ rệt so với màng nền ban đầu với sự tăng mạnh
của năng suất lọc, trong đó thời gian trùng hợp 2 phút cho hiệu quả tốt nhất: Năng suất lọc của
màng sau khi trùng hợp ghép tăng gấp hơn 3 lần so với màng nền trong khi độ lưu giữ vẫn
được duy trì tốt (99.9 %). Mặt khác, độ giảm năng suất lọc của các màng được trùng hợp ghép
đều chậm hơn so với màng nền. Có thể giải thích như sau: Sự trùng hợp ghép các monome
axit maleic tạo thành một lớp polyme ghép trên bề mặt làm tăng khả năng lưu giữ đồng thời

13
làm cho bề mặt màng trở nên ưa nước hơn, do đó năng suất lọc của màng tăng, đồng thời lớp
polyme trùng hợp ghép cũng làm giảm sự hấp phụ thuốc nhuộm lên trên bề mặt và bên trong
các lỗ xốp của màng, do đó, tốc độ giảm năng suất của màng sẽ chậm hơn.
*. Phương pháp nối tiếp: Sau khi chiếu bức xạ tử ngoại lên bề mặt, màng được ngâm (không
chiếu bức xạ) trong dung dịch monome.

Bề mặt màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại cường độ 60W trong 1 phút, sau đó
ngâm màng trong dung dịch monome axit maleic 5% với các khoảng thời gian khác nhau, rửa
sạch, sấy khô và tiến hành đánh giá khả năng tách của màng với dung dịch thuốc nhuộm Red
3BF nồng độ 30ppm trên thiết bị lọc gián đoạn. Các kết quả thực nghiệm được trình bày trong
cho thấy, năng suất lọc của màng sau khi trùng hợp đều cao hơn, độ giảm năng suất lọc chậm
hơn và ổn định hơn so với màng nền. Khoảng thời gian trùng hợp trong 3 phút cho kết quả tốt
nhất, năng suất lọc tăng gấp khoảng 3-4 lần so với màng nền. Độ lưu giữ của màng sau khi
trùng hợp ghép bằng phương pháp nối tiếp trong các điều kiện này là tương đương so với
phương pháp song song.
Kết quả so sánh cho thấy, trong cùng điều kiện trùng hợp, lượng polyme trùng hợp ghép
lên màng bằng phương pháp song song lớn hơn so với lượng polyme trùng hợp ghép bằng
phương pháp nối tiếp. Điều đó chứng tỏ tốc độ trùng hợp ghép bằng phương pháp song song
lớn hơn tốc độ trùng hợp trong phương pháp nối tiếp.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, trong quá trình lọc lượng thuốc nhuộm bị hấp phụ lên màng
trùng hợp ghép theo phương pháp song song nhỏ hơn lượng thuốc nhuộm bị hấp phụ lên
màng trùng hợp ghép theo phương pháp nối tiếp. Sự giảm lượng thuốc nhuộm bị hấp phụ lên
màng không chỉ làm tăng năng suất lọc mà còn làm cho độ giảm năng suất lọc của màng theo
thời gian chậm hơn.
Bên cạnh đó chúng tôi còn tiến hành trùng hợp ghép với axit acrylic và so sánh cùng axit
maleic, theo cả phương pháp nối tiếp và song song, kết quả thực nghiệm cho thấy, năng suất
lọc của màng trùng hợp ghép với MA cao hơn so với màng trùng hợp ghép AA, khả năng lưu
giữ của các màng tương đương nhau và đều cao hơn màng nền.
5. Kết luận
a. Phương pháp lọc màng tỏ ra rất hiệu quả trong việc tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong
dòng thải nhuộm. Các loại màng lọc Filmtech TW30 và Saehan có khả năng lưu giữ
gần như hoàn toàn thuốc nhuộm trong dung dịch. Dung dịch sau khi lọc qua màng
trong và không có màu, các giá trị COD và BOD đều giảm mạnh (từ 95 đến 97%) so

14
với dung dịch ban đầu. Hiệu suất của quá trình tách phụ thuộc vào loại thuốc nhuộm,

nồng độ thuốc nhuộm, pH và áp lực dòng trượt qua màng.
b. Việc biến tính bề mặt màng bằng phương pháp trùng hợp ghép dưới bức xạ tử ngoại
sử dụng các monome là axit maleic và axit acrylic trong điều kiện thích hợp đã nâng
cao rõ rệt tính năng tách cho màng. Năng suất lọc của màng tăng từ 2 đến 4 lần, mức
độ tắc màng giảm mạnh trong khi khả năng lưu giữ thuốc nhuộm của màng vẫn được
duy trì tốt. Ngoài ra, khi sử dụng các tác nhân rửa là dung dịch natri triphotphat và
dung dịch axit xitric, năng suất lọc của màng có thể được phục hồi từ 94 đến 98 % .

References
Tiếng Việt
1. Lê Viết Kim Ba, Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Hiền (2002), “Nghiên cứu chế tạo và sản
xuất màng lọc dịch tiêm truyền”, Tuyển tập các công trình khoa học, Hội nghị khoa học
lần thứ 3 – Ngành hoá học, Hà Nội.
2. Lê Viết Kim Ba, Nguyễn Trọng Uyển, Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Hiền (2001), “Khả
năng làm sạch nước bằng màng thẩm thấu ngược”, Tạp chí hoá học và công nghiệp hoá
chất, T.5 (70), 30-32.
3. Lê Viết Kim Ba (1990), Báo cáo nghiệm thu đề tài cấp Nhà nước Nghiên cứu chế thử
màng siêu lọc máu, 48E.03.04, Hà Nội.
4. Bộ môn Công nghệ hóa học (2000), Thực tập hoá kỹ thuật, Hà Nội.
5. Lê Văn Cát (1999), Cơ sở hoá học và kỹ thuật xử lý nước, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà
Nội.
6. Vũ Thị Hoàng Cúc (2010), Nghiên cứu chế tạo thử màng lọc nano, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội.
7. Trần Thị Dung (2004), Bài giảng công nghệ màng lọc và các quá trình tách
bằng màng, Khoa Hóa, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
8. Trần Thị Dung, Lê Viết Kim Ba, Đào Thị Hạnh (2009), “Nghiên cứu ảnh hưởng của một
số điều kiện chế tạo đến khả năng loại bỏ vi khuẩn trong nước của màng xenlulozo
axetat”, Tạp chí hoá học, T.47 (4A), 661-664.
9. Phạm Thị Thu Hà (2010), ”Nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện chế tạo đến tính
chất và cấu trúc màng lọc làm từ vật liệu polyme”, Luận văn thạc sỹ Hóa học, khoa Hóa

học, Trường ĐHKHTN- ĐHQGHN.
10. Trịnh Lê Hùng (2007), Kỹ thuật xử lý nước thải, Nhà xuất bản Giáo Dục

15
11. Trần Tứ Hiếu, Từ Vọng Nghi, Nguyễn Văn Ri, Nguyễn Xuân Trung (2007), Hóa học
phân tích phần II: Các phương pháp phân tích công cụ, Nhà xuất bản Khoa học kỹ
thuật.
12. Phạm Luận (2003), Phương pháp phân tích phổ nguyên tử, Nhà xuất bản Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
13. Đặng Văn Nghiêm (2006), Nghiên cứu chế tạo màng lọc nano từ vật liệu xenlulo
axetat và khả năng tách kim loại nặng của màng, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, Hà Nội.
14. Trịnh Văn Nhân, Ngô Thị Nga (1999), Giáo trình công nghệ sử lý nước thải, Nhà xuất
bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
15. Nguyễn Hữu Phú (2001), Cơ sở lý thuyết và công nghệ xử lý nước tự nhiên, Nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
16. Quy chuâ
̉
n ky
̃
thuâ
̣
t quốc gia: QCVN 01:2009/BYT, QCVN 02:2009/BYT
17. Tiêu chuâ
̉
n Viê
̣
t Nam: TCVN 4574-88, TCVN-4578-88.
18. Nguyễn Hoa Thịnh, Nguyễn Đình Đức (2002), Vật liệu composite cơ học và công nghệ,
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

19. Trung tâm Khoa học và Công nghệ Môi trường, Kết quả nghiên cứu khảo sát thuộc
chương trình điều tra cơ bản và môi trường, Đại học bách khoa Hà Nội 1997.
20. Lê Minh Triết (1975), Plasma – trạng thái thứ tư của vật chất, Nhà xuất bản Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
21. Vũ Quỳnh Thương (2008), Nghiên cứu chế tạo màng lọc composite từ
Cellulose nitrate và cellulose acetate, Luận văn Thạc sỹ khoa học, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, Hà Nội.
Tiếng Anh
22. A. J. Abrahamse, A. van der Padt, and R. M. Boom (2004), “Possibility for dye removal
from dyeing effluents by membrane filtration method’’ Journal of Membrane Science,
230, 149-159.
23. Ahmad Rahimpour, Sayed Siavash Madaeni, Mohsen Jahanshahi, Yaghoub
Mansourpanah and Narmin Mortazavian (2009), “Development of high
performance nano – porous polyethersulfone ultrafiltration membranes with
hydrophilic surface and superior antifouling properties”, Applied Surface
Science, Vol. 255, pp. 9166–9173.

16
24. Allan S. Hoffman (1995), “Surface modification of polymes”, Chinese Journal of
Polyme Science, Vol. 13, No. 3, pp. 195–203.
25. Baker (2004), Membrane Technology and Applications, John Wiley & Sons, Ltd,
Chicheste.
26. Bozena Kaeselevl, John Pieracci, Georges Belfort (2001), “Photoinduced grafting of
ultrafiltration membranes: comparison of poly(ethersulfone) and poly(sulfone)”,
Journal of Membrane Science, Vol. 194, pp. 245–261.
27. BÖ. Böhnke and K. Pöppinghaus, W. Fresenius and W. Schneider (1989) “Wastewater
Technology”. Origin, Collection, Trebarent and Analysis of Wastewater, Springer
Verlag, Berlin.
28. B. R. Gutman (1987), Membrane Filtration, Adam Hilger, Bristol.
29. Breslau B. R., Larsen P. H., Milnes B. A. and Waugh S. L. (1988), “The Application of

Ultrafiltration Technology in the Food Processing Industry”, The Sixth Annual
Membrane Technology/Planning Conference, Cambridge.
30. C. Visvathan (1994), Waste Minimization Opporturnities in Textile Dyeing Industry,
AIT, Publication, First Edition.
31. Dattatray S. Wavhal, Ellen R. Fisher (2004), “Modification of polysulfone ultrafiltration
membranes by CO2 plasma trebarent”, Desalination, Vol.172, pp. 189–205.
32. E. Drioli, L. Giorno (1987), Membrane Operation, Wiley-VCH, Weinheim
33. Figoli A., De Luca G., Lamerata F., and Drioli E. (2006), “Preparation and
characterization of novel PEEKWC capsules by phase inversion technique”,
Desalination, Vol. 199, pp. 115–117.
34. Figoli A., De Luca G., Longavita E., and Drioli E. (2007), “PEEKWC Capsules
Prepared by Phase Inversion Technique: A Morphological and Dimensional
Study”, Separation Science and Technology, Vol. 42, pp. 2809 – 2827.
35. Gijsbertsen A. J. Abrahamse, van der Padt A., and Boom R. M. (2004), “Status of
cross-flow membrane emulsification and outlook for industrial application”,
Journal of Membrane Science, Vol. 230, pp. 149–159.
36. Hyun-Ah Kim, Jae-Hoon Choi, Satoshi Takizawa (2007), “Comparison of initial
filtration resistance by pretrebarent processes in the nanofiltration for drinking water
trebarent”, Separation and Purification Technology, 56, 354–362.

17
37. J. P.van’ Hul, I G Rascz and T Reith (1997), The application of membrane technology
for reuse of process water and minimisatation of waste water in a textile washing range,
p 287 – 294. JSDC volume 113, OCTOBER .
38. LIU Feini, ZHANG Guoliang, MENG Qin and ZHANG Hongzi (2008), “Performance
of Nanofiltration and Reverse Osmosis Membranes in Metal Effluent Trebarent”,
Chinese Journal of Chemical Engineering, 16 (3), 441-445.
39. M. Muder (1998), Basic Principles of Membrane Technology, Kluwer Academic
Publisher, Dordrecht
40. M. Gholi, S. Nasseri, M. R. Alizadeh Fard, A. Mesdaghina, F Vaeri, A. Mahvil, K

Naddaffi (2001), “Dye removal from Effuents of textile Industries by ISO9888 Method
and Membrane Technology”, p 73- 80, Iranian J Publ. Heath, Vol. 30, Nos. 1-2.
41. P. Mimikulasek and Jiris Curhora (2001), “Nafiltration used for desalination and
concentration in the manufacre of liquid dyes production”, pp. 379 – 394, Iranian J
Publ. Heath, Vol. 30, Nos. 1-2.
42. R. W. Baker (2004), Membrane Technology and Applications, John Wiley & Sons, Ltd,
Chichester.
43. R. Rautenbach and R. Albrecht (1989), Membrane Processes, John Wiley & Sons Inc.,
Chichester.
44. S.S. Madaeni (1999), “The application of membrane technology for water disinfection”,
Review paper, Wat. Res., Vol. 33, (2), 301-308.
45. Sylwia Mozia, Antoni W.Mozrawiski, Masahiro Toyada, Mochio Inagaki (2008),
“Effectiveness of photodecomposition of an azo dye on novel anatase – phase TiO
2
and
two commerical photocatalysts in a photocatalytic membrane reactor (PMR)”,
Separation and Purification Technology, Vol.63, pp. 386-391
46. T. H. Seltzer (1987), Filtration in the Pharmaceutical Industry, New York
47. T. Wakashima, M. Shimizu, M. Kukizaki (2000), Advanced Drug Delivery Reviews, 45,
47-56, Tokyo Japan.

×