Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đề cương ôn tập kinh tế các nước châu á thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.44 KB, 19 trang )

CHƯƠNG 1: Khái quát chung về Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản:
1.1. Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản:
1.1.1. Bối cảnh ra đời của Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản (AJCEP)
Từ những năm đầu của thập niên 1990, song song với quá trình toàn cầu hoá, chủ nghĩa
khu vực (regionalism) đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về lượng và về chất. Trước đó, chủ
nghĩa khu vực thường mang hình thái khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area) nhưng
kể từ thập niên 1990, hình thái FTA (Free Trade Agreement) song phương hoặc nhiều bên
trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác rộng hơn, không chỉ giới hạn trong việc thực
hiện tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ mà còn cả xúc tiến và tự do hoá đầu tư, hợp
tác chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và nhiều
nội dung mới khác như lao động, môi trường.
Chủ nghĩa khu vực đang tồn tại một cách khách quan bên cạnh hệ thống thương mại đa
phương của WTO. Theo thống kê của Ban Thư ký WTO, tính đến tháng 3 năm 2008 đã
có 209 hiệp định thương mại khu vực (RTAs) được thông báo cho WTO, trong đó có 119
hiệp định thương mại tự do (FTAs). Trong số 119 FTAs được thông báo cho WTO, có tới
96 FTAs (chiếm 81%) được ký kết và có hiệu lực trong giai đoạn 1995-2007. Đáng chú ý
là 69 FTAs (chiếm 72%) được hình thành trong giai đoạn 2001-2007, tức là trong thời
gian diễn ra Vòng đàm phán Đô-ha.
Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã tỏ ra khá tích cực trong việc ký kết và tham gia các
FTA. Ngay cả những nước trước đây tỏ ra thờ ơ với FTA mà dành nhiều quan tâm cho
WTO và hệ thống thương mại đa phương như Mỹ, Nhật và EU cũng đã có sự thay đổi.
Đối với Mỹ, sau nhiều năm chỉ có Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và FTA
song phương với Israel, gần đây Mỹ đã có thêm FTA song phương với Singapore và Chi-
lê (năm 2003) và đang đàm phán với một số đối tác khác ở Châu Á, Trung Mỹ… Nhật
Bản lần đầu tiên ký một FTA đầy đủ với Singapore vào năm 2002, sau đó là với một loạt
các nước ASEAN khác và hiện đang đàm phán FTA song phương với Việt Nam và Thụy
Sỹ.
Khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Nhật Bản đã được ký kết bởi các
nhà lãnh đạo tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Nhật Bản trên 08 Tháng 10 năm 2003
tại Bali, Indonesia , và nhằm mục đích thiết lập một thỏa thuận đối tác kinh tế toàn diện
giữa ASEAN và Nhật Bản.


Hiệp định thương mại tự do ASEAN – nhật bản (AJCEP) đã được ký kết trong tháng 11
năm 2007 tại Manila , và chữ ký đã được hoàn thành quảng cáo trưng bởi 14 tháng 4 năm
2008.
1.1.2. Mục tiêu của Hiệp định.
• Dần dần tự do hóa và thuận lợi cho thương mại hàng hoá và dịch vụ. Tiến tới thành lập
khu mậu dịch tự do với mục tiêu biến ASEAN thành khu sản xuất chung của Nhật Bản,
tạo chuỗi liên kết các khu vực sản xuất của Nhật Bản giữa các nước ASEAN.
1
• Cải thiện cơ hội đầu tư và đảm bảo bảo hộ đầu tư và hoạt động đầu tư trong các bên. Tạo
ra môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp trong và ngoài khối, môi trường tự do cạnh
tranh, vận động theo quy luật thị trường.
• Thiết lập một khuôn khổ cho việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa các bên nhằm hỗ trợ
hội nhập kinh tế ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên
ASEAN và tăng cường thương mại và đầu tư Quan hệ hợp tác cùng có lợi. Đưa
ASEAN thành khối kinh tế phát triển có thể cạnh tranh với các khối khác.
• Tiến hành đàm phán để có được lợi ích ở từng lĩnh vực cụ thể.
• Tự do hóa 90% kim ngạch trong vòng 10 năm.
• Nhật Bản loại bỏ các mặt hàng tập trung chủ yếu vào các sản phẩm nông nghiệp.
• Mức thuế suất áp dụng cho từng giai đoạn trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt
ASEAN – Nhật Bản được cắt giảm theo mô hình cắt giảm dần đều từ thuế suất hoặc mô
hình cắt giảm riêng đối với những dòng thuế thuộc danh mục nhạy cảm. Các khối trong
khu vực hợp tác sẽ hưởng mức lãi xuất ưu đãi.
1.1.3. Nội dung chính của Hiệp định
Hiệp định AJCEP sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các Tổng công ty của Nhật đầu tư vào
ASEAN theo xu thế chuyển các ngành sản xuất chế tạo thiếu lao động từ Nhật Bản sang
ASEAN. Trong khi đó, các quốc gia nhóm CLMV (Cambodia, Laos, Myanma, Việt
Nam) sẽ có nhiều cơ hội tiếp nhận nguồn đầu tư trực tiếp (FDI) từ Nhật Bản về đầu tư cơ
sở hạ tầng. Nhật là nước đứng thứ hai về đầu tư FDI vào các nước ASEAN. Đầu tư của
Nhật Bản và ASEAN cũng dẫn đầu (khoảng 11 tỷ USD hàng năm).
Hiệp định AJCEP chính thức có hiệu lực đối với Nhật Bản và một số nước ASEAN

(trong đó có Việt Nam) vào ngày 01/12/2008. Là hiệp định toàn diện, chứa đựng các quy
tắc căn bản về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hoạt động hợp tác
kinh tế khác. Trong đó, quan trọng nhất là cam kết về lộ trình giảm thuế nhập khẩu giữa
các nước ASEAN và Nhật Bản. Đến năm 2018, ASEAN và Nhật Bản cơ bản trở thành
một khu vực thương mại tự do về hàng hóa.
Theo hiệp định, Nhật Bản sẽ bãi bỏ các biểu thuế đánh vào 93% danh mục hàng hóa nhập
khẩu từ ASEAN trong vòng 10 năm kể từ khi FTA có hiệu lực.
Đổi lại, 6 nước ASEAN có tiềm lực kinh tế mạnh hơn là Brunei, Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan cũng sẽ bãi bỏ thuế trong vòng 10 năm đối với 90%
hàng hóa nhập khẩu từ Nhật Bản, trong khi 4 thành viên còn lại là Việt Nam, Lào,
Campuchia và Myanmar sẽ bãi bỏ thuế theo một lộ trình chậm hơn.
Hiệp định AJCEP không chỉ là hiệp định về hàng hóa, mà còn bao gồm cả các hoạt động
dịch vụ và đầu tư. Với hiệp định này, các công ty Nhật Bản đang mở rộng thị trường ở
Đông Nam Á có thể sẽ giảm được các chi phí kinh doanh. Đặc biệt, các nhà chế tạo điện
tử và ô tô Nhật Bản sẽ được hưởng lợi nhiều do các phụ tùng xuất khẩu sang nhiều nước
trong khu vực ASEAN để lắp ráp không bị đánh thuế.
2
1.2. So sánh mức cam kết của Hiệp định AJCEP với các Hiệp định thế giới và khu vực
khác Việt Nam tham gia.
Như ta đã biết, tham gia WTO, AFTA, khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc,
ASEAN- Hàn Quốc, ASEAN- Nhật Bản…., Việt Nam cam kết cắt giảm thuế quan ở các
mức độ khác nhau. Đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản có cách
tiếp cận hoàn toàn khác so với đàm với trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Hàn Quốc, đó là được kết hợp giữa đàm phán song
phương và đàm phán đa phương. Việt Nam cùng với các nước ASEAN 6 đã tiến hành
đàm phán với Nhật Bản trong cả hai khuôn khổ: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
ASEAN-Nhật Bản (AJCEP) và Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản
(VJEPA).Với Việt Nam, do Lộ trình cắt giảm thuế quan theo AJCEP chậm hơn lộ trình
cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA trong ASEAN nên về cơ bản AJCEP không làm
thay đổi nghĩa vụ của Việt Nam với các nước ASEAN. Theo CEPT/AFTA, Việt Nam sẽ

hoàn thành nghĩa vụ cắt giảm thuế xuống 0-5% vào năm 2007 đối với các mặt hàng nằm
trong danh mục thông thường, trong khi thời hạn này trong AJCEP là 2023, với một số
dòng thuế được linh hoạt đến năm 2025. Biểu cam kết của Việt Nam trong AJCEP bao
gồm 9.390 dòng thuế (dựa trên AHTN 2007), trong đó đưa vào lộ trình cắt giảm đối với
8.771 dòng. Số dòng còn lại là các dòng thuế CKD ô tô (57 dòng) và các dòng thuế
không cam kết cắt giảm (562 dòng). Trong khi danh mục xoá bỏ thuế của Việt Nam tại
Hiệp định thương mại tự do ASEAN - HQ gồm 8.909 mặt hàng (HS 10 số), chiếm
khoảng 90% số dòng thuế, được thực hiện giảm thuế từ năm 2007 và xoá bỏ thuế quan
vào 2016, một số sẽ được linh hoạt đến 2018. Đối với các Hiệp định khác, mức độ cam
kết khác nhau và do đó phạm vi ảnh hưởng đến quan hệ thương mại của Việt Nam cũng
khác nhau.
Trước mắt mức thuế trung bình áp dụng trong WTO ( của Việt Nam) thấp hơn mức thuế
cam kết và áp dụng từ năm 2007 trong khu vực thương mại tự do với Trung Quốc, Hàn
Quốc và Nhật Bản. Do đó những ưu đãi/lợi ích (mà các khu vực thương mại tự do này
mang lại cho Việt Nam) khá hạn chế hoặc chưa mang giá trị như mong muốn. Tuy nhiên,
về lâu dài, việc giảm thuế trong khuôn khổ Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN
– Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Nhật Bản được thực hiện đầy đủ, về tổng
thế mức thuế quan sẽ thấp hơn nhiều so với mức hiện đang áp dụng trong WTO.
1.3. Những cam kết thực hiện AJCEP của Việt Nam và Nhật Bản:
1.3.1. Danh mục cam kết
Biểu cam kết của Việt Nam trong AJCEP bao gồm 9.390 dòng thuế (dựa trên AHTN
2007), trong đó đưa vào lộ trình cắt giảm đối với 8.771 dòng. Số dòng còn lại là các dòng
thuế CKD ô tô (57 dòng) và các dòng thuế không cam kết cắt giảm (562 dòng), cụ thể:
3
- Danh mục xoá bỏ thuế quan: Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 62,2% số
dòng thuế trong vòng 10 năm, trong đó xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực
đối với 26,3% dòng thuế và xoá bỏ thuế quan sau 10 năm thực hiện Hiệp định (năm
2018) đối với 33,8% dòng thuế. Vào năm 2023 và 2024 (sau 15 năm và 16 năm thực hiện
Hiệp định) cam kết xoá bỏ 25,7% và 0,7% số dòng thuế tương ứng.
Như vậy, vào năm cuối lộ trình (năm 2025) số dòng thuế được xoá bỏ thuế quan chiếm

88,6% số dòng thuế trong toàn Biểu cam kết.
- Danh mục nhạy cảm thường (SL) chiếm 0,6% số dòng thuế, được duy trì ở mức thuế
suất cơ sở và xuống 5% vào năm 2025.
- Danh mục nhạy cảm cao (HSL) chiếm 0,8% số dòng thuế, được duy trì mức thuế suất
cao (giảm xuống 50% vào năm 2023).
- Danh mục không xoá bỏ thuế quan, thuế suất duy trì ở mức thuế suất cơ sở trong cả lộ
trình (C) chiếm 3,3% số dòng thuế.
- Danh mục loại trừ chiếm 6,0% số dòng thuế.
Phân loại Tỷ lệ dòng
thuế (%)
Tỷ lệ kim
ngạch (%)
Danh mục xóa bỏ
thuế quan
Trong vòng 10 năm 62,2 65,1
Trong vòng 15 năm 25,7 13,8
Trong vòng 16 năm 0,7 0,3
Tổng 88,6 79,2
Danh mục nhạy
cảm-không xóa bỏ
thuế quan
Thuế giảm xuống 5% vào năm 2025 0,6 2,1
Thuế giảm xuống 50% vào năm 2023 0,8 0,2
X giữ nguyên mức thuế suất cơ sở 3,3 5,3
Tổng 4,8 7,6
Danh mục loại trừ Không cam kết 6,0 13,3
Danh mục CKD ô

Không cam kết 0,6 0,0
Tổng 100 100

Bảng 1: Thống kê danh mục cam kết của Việt nam trong AJFTA
Danh mục phân loại trên được phân tích theo số liệu trong Biểu cam kết của Việt Nam
dựa trên AHTN 2007 và theo kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản năm 2008.
1.3.2. Mức thuế suất cam kết
Lộ trình giảm thuế của Việt Nam trong Hiệp định AJCEP bắt đầu từ năm 2008 và kết thúc
vào năm 2025. Các mặt hàng được cắt giảm xuống 0% vào các thời điểm 2018, 2023 và
4
2024. Về diện mặt hàng, các mặt hàng được xoá bỏ thuế quan chủ yếu là các mặt hàng
công nghiệp.
Nhìn vào bảng phân tán số dòng thuế được xoá bỏ thuế quan theo ngành có thể thấy: vào
năm 2008 (ngay khi Hiệp định có hiệu lực) có khoảng 2.468 dòng thuế được xoá bỏ thuế
quan, trong đó các mặt hàng công nghiệp chiếm đến khoảng 94,6%, còn lại là các mặt
hàng nông. Sau 10 năm thực hiện Hiệp định (năm 2018) sẽ có khoảng 5.846 số dòng thuế
được xoá bỏ thuế quan, trong đó các mặt hàng công nghiệp chiếm khoảng 91,2%. Kết
thúc lộ trình giảm thuế (năm 2025), tổng số dòng thuế được xoá bỏ thuế quan sẽ lên đến
8.321 dòng, các mặt hàng công nghiệp chiếm 84,5% số dòng thuế. Số dòng thuế được
xoá bỏ thuế quan tập trung vào các ngành máy móc thiết bị điện, máy móc cơ khi, hoá
chất, kim loại, diệt may và sản phẩm nông nghiệp.
Bảng 2: Bảng phân tán số dòng thuế xoá bỏ thuế quan theo ngành của Việt Nam
theo Hiệp định AJCEP:

Ngành 2008 2018 2025
1. Nông nghiệp 127 505 1.129
2. Cá và sản phẩm cá 6 8 157
3. Dầu khí 0 1 9
4. Gỗ và sản phẩm gỗ 86 291 502
5. Dệt may 18 631 893
6. Da và cao su 23 153 238
7. Kim loại 273 640 845
8. Hoá chất 640 1.171 1.376

9. Thiết bị vận tải 85 186 235
10. Máy móc cơ khí 220 553 725
11. Máy và thiết bị điện 709 1.075 1.261
12. Khoáng sản 48 262 350
13. Hàng chế tạo khác 233 370 601
Tổng 2.468 5.846 8.321

Thuế suất áp dụng cho từng giai đoạn trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN-
Nhật Bản (Biểu AJCEP) hầu hết được cắt giảm theo mô hình cắt giảm dần đều từ thuế
suất cơ sở hoặc có mô hình cắt giảm riêng đối với những dòng thuế thuộc danh mục nhạy
cảm (áp dụng thuế suất cơ sở trong cả lộ trình, giảm từ thuế suất cơ sở xuống 5%/50%
vào năm 2025/2023…). Chính vì vậy, mức thuế suất bình quân áp dụng cho cả Biểu
AJFTA theo từng năm trong Lộ trình có chiều hướng giảm dần.
5
1.4. Tác động của Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản đến hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản:
Những năm gần đây, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đang ngày càng trở nên mật thiết trên
nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục … Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản vào Việt
Nam hiện đứng thứ 3 sau Singapore, Đài Loan và là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt
Nam.
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 9 THÁNG NĂM 2013 THEO
VÙNG (Tính từ 1/1/2013 đến 29/9/2013)
Quan hệ hai nước đã đi đến quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện. Việc tìm hiểu, nâng cao sự
hiểu biết về lộ trình cam kết thuế quan của Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Nhật
Bản, qua đó tận dụng các ưu đãi trong Hiệp định là thật sự cần thiết đối với doanh nghiệp
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Nhật Bản là nước nhập siêu lớn về nông sản và các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng như
dệt may, giày da, thực phẩm chế biến từ Việt Nam, và Việt nam lại là nước có nhiều lợi
thế xuất khẩu các sản phẩm này. Cơ hội lớn nhất của Việt Nam là khả năng khai thác tối
đa ưu thế xuất khẩu đối với những mặt hàng nông thủy sản như tôm, cá, cua đông lạnh và

chế biến, rau quả nhiệt đới, các sản phẩm gỗ…sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi thấp
hơn nhiều so với mức thuế suất hiện hành. Trong đó, 61 mặt hàng thủy sản (chiếm 70%
giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam) sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% ngay
khi Hiệp định có hiệu lực; 144 mặt hàng nói chung (chiếm 83% giá trị xuất khẩu) sẽ
không còn chịu thuế nhập khẩu trong vòng 10 năm; 95% số dòng thuế (chiếm 94,5% giá
trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp) xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản sẽ có mức
thuế 0%. Trong thời gian 10 năm, 98% số dòng thuế (chiếm 98% giá trị thương mại) các
6
sản phẩm công nghiệp của Việt Nam sẽ không bị áp thuế nhập khẩu. Hiệp định thương
mại tự do ASEAN- Nhật Bản tạo cơ hội nhiều nhất cho các mặt hàng của Việt Nam xuất
khẩu là giày dép, may mặc, thiết bị điện tử, dây dẫn điện, đồ sứ vệ sinh, đồ gỗ… Cùng
với lợi ích nhờ giảm thuế, hàng nông, thủy sản của Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận thị
trường Nhật Bản thuận lợi hơn, một khi chương trình hợp tác về vệ sinh, an toàn thực
phẩm được triển khai theo đúng mục tiêu.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức khi
xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật Bản do các tiêu chuẩn kĩ thuật rất đặc thù, đặc
biệt là rào cản kĩ thuật đối với hàng thực phẩm rất khắt khe của thị trường này. Ngoài ra,
chi phí xúc tiến thương mại, điều tra thị trường cao, các quy định về thủ tục hành chính
được xây dựng theo yêu cầu của Luật Vệ sinh thực phẩm cũng đang gây không ít khó
khăn cho các doanh nghiệp muốn xúc tiến xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản.
Theo các chuyên gia, Hiệp định thương mại tự do ASEAN- Nhật Bản (AJCEP) đã mang
lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó cơ hội lớn nhất là được hưởng
thuế suất ưu đãi khi xuất khẩu vào thị trường này đối với hầu hết các mặt hàng nông sản,
thủy sản và công nghiệp.
CHƯƠNG 2: Tác động của Hiệp định thương mại tự do ASEAN – nhật bản
(AJCEP) tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam – Nhật Bản
2.1. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam- Nhật Bản
2.1.1. Khái quát về hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam - nhật bản
Những năm qua kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Nhật Bản tăng trưởng trung
bình 18%/năm. Đến nay, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật chiếm 1,7% của nhu cầu

nhập khẩu của Nhật Bản hàng năm. Về góc độ khai thác thị trường thì hàng hóa Việt
Nam vẫn chưa tiếp cận hết nhu cầu, tiềm năng của thị trường Nhật Bản. Nhìn chung,
chủng loại hàng hóa xuất vào Nhật có hàm lượng chất xám cao còn nhiều hạn chế khiến
hàng hóa Việt Nam không khai thác hết các cơ hội thị trường. Trong hoạt động hợp tác
dầu tư, nhiều lĩnh vực 2 nước có khả năng hợp tác cũng chưa được khai thác.
7
Kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản trong các năm 2008-2012 tăng dầu đều
qua từng năm. Kết quả xuất nhập khẩu song phương giữa 2 nước tăng cao hơn so với
giao thương của Nhật Bản với các nước khác trong khu vực ASEAN. Cán cân thương
mại giữa Việt Nam – Nhật Bản những năm qua luôn cân bằng, đặc biệt Việt Nam luôn
xuất siêu sang thị trường này, trừ năm 2009 và 2010. Các mặt hàng xuất nhập khẩu của 2
nước có tính chất bổ sung cho nhau. Việt Nam chủ yếu xuất sang Nhật các mặt hàng thế
mạnh như sản phẩm nông, lâm, thủy sản, dệt may, đồ gỗ, sản phẩm chất dẻo, gốm sứ…
Các mặt hàng chính xuất khẩu sang thị trường này trong thời gian này là hàng dệt may,
dầu thô, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị, hàng thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, giày
dép các loại…. trong đó hàng dệt may chiếm tỷ trọng lớn. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Nhật Bản được thống kê trong bảng:

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
Các doanh nghiệp Nhật Bản cho hay, họ sẵn sàng hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam
để cải thiện vấn đề chất lượng sản phẩm xuất khẩu vào Nhật Bản. Đồng thời, bản thân
mỗi doanh nghiệp cần nỗ lực, cố gắng nâng cao chất lượng hàng hóa và tận dụng lộ trình
giảm thuế để tăng tính cạnh tranh. Theo lộ trình giảm thuế, có 2.350 dòng thuế hàng hóa
8
của Việt Nam xuất sang Nhật sẽ giảm về 0% và đã có 847 dòng thuế về 0% kể từ năm
2009 nhờ hưởng ưu đãi từ hiệp định thương mại. Đến năm 2016, mức thuế về 0% sẽ áp
dụng đối với các mặt hàng như hồ tiêu, rau chân vịt, ngô. Tiếp đó 14 dòng thuế của các
mặt hàng nông, lâm sản khác sẽ về 0% như gừng, chuối, xoài, đậu tương.
2.1.2. Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu giữa hai nước.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật bản nói chung gồm hàng may

mặc, thủy sản, dầu thô, than đá, nông sản (hạt điều, gạo, …), …đa chủng loại, cơ
cấu thay đổi rõ rệt qua từng năm. Ta có thể thấy cơ cấu hàng hóa thay đổi cụ thể
qua từng năm dưới đây:
* Năm 2011, mặc dù Nhật Bản phải chịu thảm họa của động đất, sóng thần… nhưng
quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, công nghiệp và đầu tư giữa hai nước vẫn phát triển
mạnh mẽ.
Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, kim ngạch thương mại song
phương Việt Nam - Nhật Bản năm 2011 đạt 21,1 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2010;
trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 10,7 tỷ USD, tăng 39%
so với năm 2010. Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã thâm nhập và có chỗ đứng tại thị
trường Nhật Bản như thủy sản, may mặc, đồ gỗ, cà phê, sản
Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng như dệt may, dầu thô, hàng thủy sản,
máy móc thiết bị, dây điện và dây cáp điện, thủy sản… trong đó hàng dệt may đạt kim
ngạch cao nhất 1,6 tỷ USD, chiếm 15,6% thị phần, tăng 46,41% so với năm 2010. Tính
9
riêng tháng cuối năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu 155,6 triệu USD hàng dệt may sang
Nhật, giảm 0,2% so với tháng liền kề trước đó nhưng tăng 29,61% so với tháng 12/2010.
Đứng thứ hai là dầu thô với kim ngạch đạt 1,5 tỷ USD, tăng 637,72% so với năm 2010.
Nhìn chung, năm 2011 xuất khẩu sang Nhật Bản tăng trưởng ở hầu khắp các mặt hàng,
chỉ có một số thị trường giảm như: giấy và sản phẩm từ giấy (giảm 17,39%); thủy tinh và
các sản phẩm từ thủy tinh (giảm 17,76%); máy ảnh, máy quay phim và linh kiện (giảm
95,75%); chất dẻo nguyên liệu (giảm 40,72%); xăng dầu các loại (giảm 78,87%).
* Năm 2012, mặc dù kinh tế Nhật Bản vẫn còn nhiều khó khăn nhưng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa sang thị trường này tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao khi tăng tới gần
21,14% so với năm 2011, đạt 13,05 tỷ USD.
Trong năm 2012, có 5 mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt kim ngạch trên 1
tỷ USD là: dầu thô, dệt may, phương tiện vận tải phụ tùng, Máy móc, thiết bị, dụng cụ
phụ tùng khác và hàng thủy sản tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của những mặt hàng này
đều duy trì ở mức khá cao so với cùng kỳ năm 2011. Theo đó, dẫn đầu là mặt hàng dầu
thô, với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,51 tỷ USD, tăng mạnh 59,31% so với năm 2011,

chiếm tỷ trọng 19% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang nước này; tiếp đến là mặt
hàng dệt may đạt kim ngạch 1,97 tỷ USD, tăng 16,82%; phương tiện vận tải tăng 35,93%,
đạt 1,69 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cũng tăng 10,14%, đạt 1,23 tỷ
USD; kế đến xuất khẩu thủy sản đạt 1,08 tỷ USD, tăng nhẹ 6,8%.
(Nguồn: Bộ Công thương;website: />thuong-mai-viet-nam.gplist.1.gpopen.35088.gpside.1.asmx)
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã cải thiện, duy trì ở mức tăng trưởng khá cao ở hầu hết
các mặt hàng. Đàng chú ý ở đây là mặt hàng xăng dầu tăng trưởng 824, 27% so với năm
2011.
2.1.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam – Nhật Bản
2.1.3.1. Các nhân tố vĩ mô
a. Môi trường chính trị - pháp luật:
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và luật pháp chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội
thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Sự ổn định của
môi trường chính trị đã được xác định là một trong những điều kiện tiền đề quan trọng
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chính Phủ tạo cơ hội, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản. Hỗ
trợ các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Nhật.
10
- Việt Nam có nền chính trị ổn định, được bạn bè quốc tế khen ngợi và được xem là điểm
đến đầu tư ổn định, an toàn trong khu vực và trên thế giới, khoa học công nghệ và chất
lượng sản phẩm ngày càng tăng cao, điều đó giúp các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn
với thị trường Nhật Bản mở rộng thị trường.
- Việc nghiên cứu và tuân thủ pháp luật của cả Nhật Bản lẫn Việt Nam giúp các doanh
nghiệp giảm thiểu được rủi ro trong kinh doanh, vượt qua được các rào cản thương mại.
- Việc vượt qua các rào cản kỹ thuật , các tiêu chuẩn môi trường, chất lượng sản phẩm cản
trở doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường tiềm năng này, điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải tuân thủ đúng các tiêu chuẩn khắt khe từ thị trường này.
b. Môi trường kinh tế:
Các yếu tố thuộc môi trường này quy định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế
trong việc sử dụng tiềm năng của mình và qua đó cũng tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng

doanh nghiệp.
- Chi phí đầu vào của Việt Nam rẻ, đặc biệt là chi phí nhân công. Đó là lợi thế để doanh
nghiêp tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm, tăng lượng xuất khẩu.
- GDP của Nhật Bản cao, điều đó đồng nghĩa với việc Nhật Bản có khả năng chi trả nhiều
hơn cho hàng hóa của Việt Nam khiến cho giá trị xuất khẩu tăng lên. Bên cạnh đó, Nhật
Bản là nước phát triển, khoa học công nghệ cao, họ có thể đáp ứng đủ nhu cầu ở trong
nước và sản xuất được hàng hóa thay thê nên càng gây nhiều khó khăn cho việc xâm
nhập thị trường của nhiều loại hàng hóa.
c. Môi trường văn hóa - xã hội:
- Mỗi nước đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành theo
truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dung của
khách hàng nước đó.
- Với tâm lý yêu thích những đồ tinh xảo, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gốm sứ của
Việt Nam vẫn chiếm được cảm tình của người tiêu dùng Nhật Bản vốn có gu thẩm mỹ
cao. Tuy sự tương đồng văn hóa có thể giảm bớt những xung đột văn hóa, nhưng chính
sự khác biệt trong văn hóa 2 nước mới là động lực chính để thúc đẩy quan hệ hợp tác
kinh tế thương mại theo hướng bổ sung và hoàn thiện cho nhau.
- Do kết cấu xã hội của Nhật là dân số già, và có xu hướng tăng lên đã làm thay đổi mạnh
mẽ cách thức tiêu dùng hàng hóa . Nhật Bản là thị trường tiềm năng lớn, dân số đông với
hơn 120 triệu dân song Nhật Bản lại có cơ cấu dân số già làm ảnh hưởng đến sức mua và
nhu cầu tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó, giá nhân công Nhật Bản lại đắt, đây là cơ hội
để hàng hóa Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường này.
d. Môi trường tự nhiên:
Sự khắc nhiệt của thiên nhiên Nhật Bản, địa hình bị chia cắt, diện tích đồng bằng ít đặt
Nhật Bản vào thế khó khăn trong vấn đề đảm bảo nền lương thực cho quốc gia cũng như
11
thiếu nguyên, nhiên vật liệu phục vụ công nghiệp. Điều này bắt buộc Nhật Bản phải nhập
khẩu để đảm bảo cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt của toàn bộ nền kinh tế.
Trong khi đó, Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và
nên nông nghiệp phong phú. Bên cạnh, có nguồn lao động dồi dào cho phép sản xuất các

mặt hàng với chi phí nhân công rẻ. Mỗi quốc gia sẽ tập trung sản xuất những mặt hàng
lợi thế của mình. Và Nhật Bản sẽ nhập khẩu những mặt hàng nông, lâm, thủy sản, nguyên
nhiên liệu.
Khoảng cách địa lý giữa các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, tới thới gian thực
hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn
hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu… Vận tải đường biển có thể bị trì trệ thời
gian bởi Biển Đông Việt Nam phải gánh chịu rất nhiều những cơn bão. Các sản phẩm khó
bảo quản vận tải xa thì mắc phải các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng khi xuất khẩu đi
Nhật Bản, do đó ảnh hưởng tới việc tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
e. Yếu tố khoa học, công nghệ:
- Sự phát triển của khoa hóc công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà
kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc theo dõi, điều khiển hàng hoá xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả
hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia
công chế biến hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng.
- Sự hạn chế yếu kém về công nghệ sản xuất do thiếu vốn đầu tư đổi mới máy móc ít
nhiều cũng làm khó khăn trong việc tạo ra sản phẩm có chất lượng và có độ bền cao làm
hạn chế khả năng cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại của đối thủ cạnh tranh như
Trung Quốc, Đài Loan Trong khi đó, thị trường Nhật Bản nổi tiếng với các tiêu chuẩn
khắt khe về chất lượng, yêu cầu mẫu mã sản phẩm đa dạng. Điều này ảnh hưởng lớn tới
việc tăng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
2.1.3.2. Các nhân tố bên trong:
Bên cạnh những nhân tố bên ngoài thì nhân tố bên trong cũng ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp
tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như tới hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp sang thị trường ngoài.
a. Tiềm lực tài chính: Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông
qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng
phân phối (đầu tư) có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn
vốn trong kinh doanh.

b. Tiềm năng con người: con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công.
Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các
12
sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: Vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ một cách có hiệu
quả để khai thác và vượt qua nhiệm vụ ưu tiên mang tính chiến lược trong kinh doanh.
Lực lượng lao động có năng suất, có khả năng phân tích và sáng tạo liên quan đến khả
năng tập hợp và đào tạo một đội ngũ những người lao động có khả năng đáp ứng cao yêu
cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Phát triển sức mạnh con người của doanh nghiệp nhằm
đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và đổi mới thường xuyên, cạnh tranh và thích nghi của kinh
tế thị trường.
c. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp: Ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi
phí, giá thành và chất lượng hàng hoá được đưa ra đáp ứng khách hàng. Liên quan đến
mức độ (chất lượng) thoả mãn nhu cầu, khả năng cạnh tranh, lựa chọn cơ hội và các tác
nghiệp khác của doanh nghiệp trên thị trường.
d. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp: Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ngoại
thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh
doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để các doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động như tạo nguồn hàng, vận chuyển , làm đại lý xuất khẩu
một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu.
e. Yếu tố cạnh tranh: Cạnh tranh, một mặt thúc đẩy cho doanh nghiệp đầu tư máy móc
thiết bị, nâng cấp chất lượng và hạ giá thành sản phẩm… Nhưng một mặt nó dễ dàng đẩy
lùi các doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc chậm phản ứng với sự thay đổi
của môi trường kinh doanh. Đặc biệt là nắm được các yếu tố cạnh tranh thì doanh nghiệp
mới có thể xác định chính xác nên xuất khẩu hàng hóa nào, với phương thức nào để kinh
doanh có hiệu quả và đạt được lợi nhuận nhiều nhất.Thị trường Nhật Bản là một thị
trường khó tính cũng đồng nghĩa với việc có rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh. Nếu
doanh nghiệp không nghiên cứu kĩ lưỡng để tìm ra cơ hội cũng như xác định thách thức
cần vượt qua thì khó có thể đứng vững và lâu dài được.
2.2. Tác động của Hiệp định thương mại tự do AJCEP đến xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam -Nhật Bản:

2.2.1. Những tác động tích cực.
- Tham gia vào AJCEP, với những thỏa thuận về ưu đãi thuế quan và dỡ bỏ hàng rào
cản phi thuế quan là cơ hội để Việt Nam tăng cường xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Đặc biệt trong điều kiện năng lực canh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt nam chưa cao, các ưu đãi này là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tranh thủ thâm
nhập và tạo dựng vị trí của mình trên thị trường Nhật bản.
- Cắt giảm thuế quan đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu theo các cam kết AJCEP đã
giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhập khẩu nguyên phụ liệu, máy móc, thiết bị…
với chi phí thấp hơn để phát triển trong nước.
- Thực hiện các thỏa thuận theo AJCEP sẽ tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam có
thể tiếp cận với các đối tác nhằm tăng cường trao đổi thương mại trong khu vực.
13
2.2.2. Những tác động tiêu cực
Ngoài những lợi ích rõ ràng mang lại thì nó cũng làm nảy sinh một số rủi ro.
- Khi tham gia ký kết AJCEP, Việt Nam và các nước đối tác phải cùng nhau thực
hiện cam kết giảm thuế đối với những hàng hóa nằm trong danh mục giảm thuế theo lộ
trình. Khi đó cơ hội xuất khẩu hàng hóa vào các nước thành viên của Việt Nam sẽ thuận
lợi hơn do được hưởng các ưu đãi thương mại, dẫn đến chi phí đầu vào thấp hơn so với
những nước khác không phải là thành viên của AJCEP. Tuy nhiên, một tác động ngược
lại của AJFTA là làm tăng nguy cơ nhập siêu do Việt Nam cũng phải thực hiện nghĩa vụ
giảm thuế theo lộ trình. Điều này sẽ khiến hàng hóa trong nước phải chịu nhiều áp lực
canh tranh hơn bởi hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên trong AJFTA được hưởng
mức thuế ưu đãi thấp.
- Việc tham gia nhiều hiệp định khác nhau sẽ dẫn tới gánh nặng về thủ tục hải quan,
quy tắc xuất xứ, thành lập các nhóm công tác khác nhau, làm suy giảm nguồn lực và làm
tăng gánh nặng chi phí giao dịch.
Một vấn đề chính nảy sinh từ những khu vực thương mại tự do là cần đảm bảo hàng hóa
xuất khẩu từ khu vực này được sản xuất bởi một hoặc nhiều nước thành viên chứ không
phải được sản xuất và nhập khẩu từ một nước thứ 3 rồi kê khống rằng được sản xuất
trong khu vực. Để đề phòng trường hợp này, quy tắc về xuất xứ đã được xây dựng, trong

đó yêu cầu cụ thể hàm lượng giá trị được sản xuất cung cấp bởi một thành viên. Yêu cầu
và thủ tục hành chính liên quan đến quy tắc về xuất xứ khác nhau tùy thuộc vào từng hiệp
định thỏa thuận, và chính những quy tắc về xuất xứ mang tính hạn chế, đôi khi không
nhất quán này gây tác động đối với việc thực thi ưu đãi cho các thành viên trong khối.
- Một vấn đề có thể nảy sinh trong việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do là
khả năng mâu thuẫn về chính sách. Trong FTA, một thành viên có thể áp đặt thuế bổ sung
đối với hàng hóa nhập khẩu vì bất kỳ lý do nào đó, mặc dù việc này có thể dẫn tới hành
động trả đũa cảu những thành viên bị ảnh hưởng trong khi theo WTO, các thành viên
phải tuân thủ cam kết về mức thuế rang buộc và không được phép nâng mức thuế này cao
hơn mức cam kết. khi mức thuế áp dụng thấp hơn nhiều so với mức rang buộc, một thành
viên có thể nâng mức thuế này lên đáng kể ( tiến tới mức rang buộc) và tạo nên sự không
chắc chắn trong chính sách thương mại.
CHƯƠNG 3: Cơ hội, Thách thức và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh thực hiện AJCEP
3.1. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại
tự do ASEAN – Nhật Bản (AJCEP).
3.1.1. Cơ hội của Việt Nam trong quá trình thực hiện AJCEP
14
Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Nhật Bản đặt ra rất nhiều thánh thức
cũng như mở ra nhiều cơ hội kinh doanh đầy tiềm năng đối với hoạt động kinh tế Việt
Nam nói chung và các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
- Theo hiệp định này, ta cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị nhập khẩu từ
Nhật Bản trong 16 năm và 69% giá trị nhập khẩu trong vòng 10 năm. Đổi lại, Nhật Bản
loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị nhập khẩu từ Việt Nam trong vòng 10 năm nay.
Tạo cơ hội thâm nhập vào thị trường Nhật Bản nhưng mặt khác cũng đặt ra những thách
thức cạnh tranh rất lớn đối với nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các
mặt hàng tương đồng với Nhật Bản sản xuất với trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên,
nếu Việt Nam có những chính sách khuyến khích đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu các mặt
hàng có lợi thế, như nhóm mặt hàng nông sản và thuỷ sản thì Việt Nam hoàn toàn có khả
năng thu hẹp mức thâm hụt cán cân thương mại với nước này.

- Phía Nhật Bản dựa trên ưu thế về kinh nghiệm, công nghệ sẽ hỗ trợ các nước
ASEAN trong lĩnh vực hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hoạch định chính sách.
- Nguồn vốn đầu tư ODA mà Nhật Bản dành cho Việt Nam ngày càng tăng, tính đến
cuối năm 2008, Nhật Bản vẫn là nhà đầu tư lớn thứ ba tại Việt Nam với 105 dự án và số
vốn đăng kí đạt trên 7,2 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2009, NHật Bản đã đầu tư vào
Việt Nam 35 dự án và tổng số vốn đăng kí đầu tư gần 94 USD. Tính đến 2012, Nhật bản
có 1113 dự dán đầu tư với tổng số vốn đăng kí hơn 17ty USD, chiếm 10,675 trong tổng
số vốn đầu tư trự tiếp nước ngoài. Như trong đợt I tài khóa 2012, Chính phủ Nhật Bản đã
quyết định dành 1,2 tỷ USD vốn ODA cho Việt Nam. Như vậy, các doanh nghiệp VN
ngày càng được tiếp cận với nguồn vốn ODA một cách dễ dàng hơn, góp phần phát triển
kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả.
- Việc tham gia AJCEP sẽ giúp Việt Nam tiếp cận được với các ngành công nghệ
cao để ứng dụng và phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu suất và
năng lực cạnh tranh của các mặt hàng nông sản trong thời gian tới. Về phía Việt Nam,
AJFTA cũng tạo ra một thị trường đáng kể cho một số mặt hàng công nghiệp, nhất là máy
móc nhỏ phục vụ nông nghiệp của thị trường của Nhật Bản.
- AJCEP cũng mở ra tiềm năng thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam dưới
nhiều hình thức, đặc biệt là thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp khai thác và chế
biến khoáng sản như đồng, niken, than, gang, bôxít, dầu, năng lượng và công nghiệp hoá
chất như nhựa, cao su, chất tẩy rửa nhằm tạo nguyên liệu đầu vào cho các ngành công
nghiệp của Trung Quốc.
3.1.2. Thách thức của Việt Nam trong quá trình thực hiện AJCEP
• Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) thì thuế suất hàng hóa
của những đối tác cạnh tranh của DN Việt Nam cũng sẽ được giảm mạnh. Như vậy, hàng
hóa Việt Nam sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn cả ở thị trường trong nước lẫn nước
ngoài dặc biệt là với cá nước trong cùng hiệp định. Ðó là chưa kể những sân chơi mới
15
mà Việt Nam đang chuẩn bị tham gia như Hiệp định thương mại tự do với EU, Hàn
Quốc; Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) "Liệu thời gian còn lại
có đủ để DN nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng cho những cơ hội và thách thức mới

không?".
• Theo nội dung Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản, thuế suất
bình quân đối với hàng Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản sẽ giảm dần xuống 2,8% vào
năm 2018. Khi Hiệp định có hiệu lực, ít nhất 86% hàng nông - lâm - thủy sản và 97%
hàng công nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế. Nhưng không
chỉ có Việt Nam là được áp thuế này mà hầu hết các nước khác trong khu vực đều được
áp thuế này,điều này gây ra áp lực cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của
VN.Nếu sản phẩm của ta có chất lượng không tốt thì không thể canh tranh nổi với sản
phẩm tiên tiến của các nước trong khu vực,khi đó sản phẩm của ta khó có thể đứng vững
trên thị trường đực biệt là các sản phẩm hàng đông lạnh của nước ta thường gặp những
rào cản rất lớn từ phía nước nhập khẩu do không đảm bảo các quy định về an toàn thực
phẩm.
• Hiệp định AJCEP được kí kết bên cạnh việc mang tới nhiều cơ hội cho các doanh
ngiệp thì nó cũng đem lại không ít những khó khăn ,khiến các doanh nghiệp không khỏi
đau đầu.Hiệp định AJFTA được thực hiện,đồng nghĩa với việc các quy định về thuế quan
và phi thuế quan được xóa bỏ hoàn toàn,việc xuất khẩu hàng hóa của ta không còn lo
lắng về các quy định thuế quan tuy nhiên họ phải đối mặt với sự kiểm soát rất chặt chẽ từ
phía Nhật Bản đó là những khó khăn liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật đặc thù của Nhật
Bản, ở cả tiêu chuẩn công nghiệp và tiêu chuẩn nông nghiệp. Những rào cản kỹ thuật với
hàng thực phẩm theo yêu cầu của Luật VSTP, các quy định hàm lượng nội địạ,rào cản về
các chất cấm trong hàng hoá thực phẩm ,lưu lượng của các chất bảo quản trong hàng thực
phẩm Gây ra những khó khăn không hề nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
• Hơn thế nữa khi các mức thuế về hàng xuất khẩu bị xóa bỏ,thì hàng hóa nhập khẩu
sẽ có giá thực .Đôi khi gía bán này lại rẻ hơn do đó khiến các doanh nghiệp thu được ít
lãi .Bởi nếu bán giá cao thì không thể cạnh tranh được với các đối thủ từ các quốc gia
khác cũng trong hiệp định,nếu bán giá rẻ thì không đảm bảo lợi nhuận cho doanh
nghiệp.Đây cũng là bài toán khiến các nhà quản trị phải suy nghĩ để đảm bào vừa thu
được nhiều lợi nhuận mà vẫn bán chạy được hàng hóa tại thì trường nước bạn.
3.13 Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam – Nhật Bản trong bối cảnh thực hiện AJCEP

+ Việt Nam cần chủ động xây dựng chiến lược phát triển toàn diện dài hạn với Nhật,
trong đó đặc biệt coi trọng đến các quan hệ hợp tác kinh tế. Việt Nam cần tích cực tổ
chức các sự kiện giao lưu hay các chương trình hoạt động cụ thể để chào đón và khyến
khích các doanh nghiệp Nhật sang tìm hiểu cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp Việt
16
Nam. Qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn các phong tục tập quán cũng như
thị hiếu của người Nhật. Trong thời buổi cạnh tranh cao việc chủ động tìm đến với thị
trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành
công cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tạo mối quan hệ tốt với các nhà
xuất khẩu trung gian thông qua các hiệp hội, ngành hàng để có nhiều cơ hội xuất khẩu
hơn các nước khác.
+ Để được hưởng lợi tối đa từ Hiệp định AJCEP các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ và
chặt chẽ các cơ chế cam kết của Hiệp định đồng thời nắm rõ các quy tắc xuất sứ hàng
hóa. Các doanh nghiệp cần sản xuất các hàng hóa đạt yều cầu về chất lượng, tiêu chuẩn
về quy trình sản xuất của Nhật bản. Doanh nghiệp Việt Nam tích cực đưa vào sử dụng
các công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, có thể nhập máy móc tiên tiến của
Nhật Bản. Như thế vừa nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu vừa thúc đẩy
trao đổi thương mại quốc tế Việt – Nhật. Bên cạnh đó, các DN Việt Nam cần tìm hiểu kỹ
thông tin về các hội chợ để thu được hiệu quả cao trong việc tìm bạn hàng và tìm hiểu
phong tục người Nhật và tìm hiểu đối thủ cạnh tranh. Việt Nam nên hợp tác với các nước
trong khu vực cũng xuất khẩu sang Nhật cùng mặt hàng giống nhau để tăng sức cạnh
tranh trên thị trường cũng như giảm đối thủ cạnh tranh.
+ Việc xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Nhật Bản gặp nhiều thách thức do yêu cầu
khắt khe về chất lượng, thời gian giao hàng, giá cả và thông tin nhất quan, trong đó chất
lượng là tiêu chuẩn số 1 và không thay đổi. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần tranh
thủ hợp tác với các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia chuỗi cung ứng hàng hóa Nhật Bản,
nhất là các doanh nghiệp nhỏ có quy mô vốn phù hợp để hợp tác, nâng cấp sản phẩm, tiếp
cận thị trường và công nghệ, nâng cao quy trình sản xuất lẫn kỹ năng kinh doanh. Bên
cạnh đó, các DN cần hiểu đúng chế độ quản lý vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản để nắm
rõ lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh được sử dụng. Các thực phẩm tươi

sống, ướp đá được phân phối qua nhà bán buôn cần chú ý việc giao hàng sớm.
+ Các doanh nghiệp có thể lựa chọn cách bỏ qua nhà bán buôn mà thỏa thuận trực tiếp
với các nhà phân phối và bán lẻ để giảm chi phí, giảm giá thành. Thiếu thông tin, thụ
đọng chờ các đơn hàng cũng là nguyên nhân dẫn đến giá thành cao nên các doanh nghiệp
cần tìm hiểu các thông tin cần thiết để xuất khẩu hàng hóa sang Nhật. Hơn một nửa các
doanh nghiệp Nhật Bản có văn phòng đại diện tại Việt Nam, đây cũng là việc các doanh
nghiệp Việt Nam nên học tập để nghiên cứu thị trường Nhật, thường xuyên theo dõi tình
hình thị trường Nhật, chủ động tiếp xúc khách hàng.
3.2 Bài học, kinh nghiệm rút ra để phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam – Nhật Bản
17
Nhật Bản vốn là thị trường tiềm năng với các doanh nghiệp Việt Nam. Hàng hóa của
nước ta xuất sang Nhật Bản chưa nhiều là do các doanh nghiệp chưa tận dụng hết cơ hội
mà các Hiệp định thương mại mang lại. Và vấn đề cốt lõi là muốn xuất khẩu vào thị
trường Nhật Bản thì các doanh nghiệp cần biết nhập gia tùy tục.
Năm 2011, mặc dù Nhật Bản phải chịu thảm họa của động đất, sóng thần… nhưng quan
hệ hợp tác kinh tế thương mại, công nghiệp và đầu tư giữa hai nước vẫn phát triển mạnh
mẽ. Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, kim ngạch thương mại song
phương Việt Nam - Nhật Bản năm 2011 đạt 21,1 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2010;
trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 10,7 tỷ USD, tăng 39%
so với năm 2010. Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã thâm nhập và có chỗ đứng tại thị
trường Nhật Bản như thủy sản, may mặc, đồ gỗ, cà phê, sản phẩm nhựa, đồ da, giày
dép Đối với thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp của Việt Nam còn rất nhiều cơ hội. Tuy
nhiên, để thâm nhập được vào thị trường này, doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp phải
không ít khó khăn, thách thức. Theo Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Sài
Gòn Đào Xuân Đức, đối với thị trường Nhật Bản, chi phí cho các doanh nghiệp xâm
nhập được thì rất cao, bởi vì chi phí ăn ở, đi lại ở Nhật khá cao so với Việt Nam. Về mặt
kỹ thuật, Nhật Bản có quy định rất chặt chẽ, vì thế mà các mặt hàng của Việt Nam xuất
sang Nhật Bản phải bảo đảm về mặt chất lượng, làm sao ổn định được chất lượng thì mới
có khả năng xâm nhập.

Theo nội dung Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản, thuế suất bình quân
đối với hàng Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản sẽ giảm dần xuống 2,8% vào năm 2018.
Khi Hiệp định có hiệu lực, ít nhất 86% hàng nông - lâm - thủy sản và 97% hàng công
nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế. Đổi lại, thuế suất bình
quân đối với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ giảm dần, xuống còn 7% vào
năm 2018. Các mặt hàng thủy sản, nông sản, dệt may, sắt thép, hóa chất, linh kiện điện tử
có mức cam kết tự do hóa mạnh mẽ nhất. Trong vòng 10 năm, theo thỏa thuận, Việt Nam
và Nhật Bản sẽ cơ bản hoàn tất lộ trình giảm thuế để xây dựng một khu vực thương mại
tự do song phương hoàn chỉnh. Theo đó, 94,5% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và
87,6% kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản sẽ được miễn thuế nhập khẩu. Với vai trò là
những người “nằm vùng”, đội ngũ tham tán cần chú trọng hơn đến các thông tin về hội
chợ, triển lãm lớn có uy tín tại địa bàn để định hướng cho các doanh nghiệp, hiệp hội
ngành hàng trong việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại hiệu quả.
Tham tán Thương mại của Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Văn Trung cho rằng, cần tăng
cường trao đổi thông tin về nhu cầu xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam và nước
ngoài cũng như tổ chức đoàn giao thương cho các doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu
tìm kiếm bạn hàng, đối tác, nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ của Nhật Bản khi tới Việt
Nam. Đồng thời, thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp về những dòng thuế giảm theo
18
lộ trình để doanh nghiệp kịp thời ứng phó, xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh tại
thị trường Nhật Bản.
Theo Phó cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương Lê Hoàng Oanh, để
thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt thông tin và
hiểu biết về tập quán kinh doanh của người Nhật. Các hiệp hội ngành hàng, các doanh
nghiệp cần tận dụng tốt các kênh hỗ trợ của Việt Nam và Nhật Bản, cũng như khai thác
triệt để những ưu đãi do các Hiệp định song phương và đa phương mang lại. Bên cạnh
đó, việc hiểu biết các quy định tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và thực tế kiểm dịch
tại Nhật Bản cũng sẽ giúp các doanh nghiệp cung cấp được sản phẩm ổn định chất lượng,
hạn chế bị trả lại hàng và rút ngắn thời gian kiểm dịch.
Theo Bộ Công thương, để tăng tốc vào thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam sẽ

phải cạnh tranh với các nước khác tại thị trường Nhật Bản. Hạn chế của doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay là còn yếu ở khâu tiếp cận thị trường nên trong thời gian tới, cần thiết
lập hệ thống bán sản phẩm tại chính thị trường Nhật Bản. Bộ Công thương cũng khuyến
nghị, doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ quy định trong Hiệp định để tận dụng tối đa lợi thế về
ưu đãi thuế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới.
19

×