Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Đảng bộ huyện quảng xương (thanh hóa) lãnh đạo, tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 1991 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.05 KB, 23 trang )

Đảng Bộ Huyện Quảng Xương (Thanh Hóa)
lãnh đạo, tổ chức xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở từ năm 1991 đến năm 2010

Bùi Thị Thu

Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Kim Bình
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, truyền thống lịch sử - văn hóa,
kinh tế xã hội của huyện Quảng Xương, phác họa diện mạo các mặt của đời sống văn
hóa ở Quảng Xương trước năm 1991. Nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng làng
văn hóa của Đảng bộ huyện Quảng Xương trong 20 năm đổi mới (1991-2010). Tổng
kết thực trạng, những thành tựu và hạn chế khó khăn trong quá trình xây dựng, từ đó
đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, tổ chức xây
dựng các mặt của đời sống văn hóa cơ sở trong thời gian tới.

Keywords: Lịch sử Đảng; Đường lối lãnh đạo; Đảng bộ huyện; Đời sống văn hóa;
Quảng Xương; Giai đoạn 1991-2010

Content
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, hội nhập với các nền văn hóa thế giới, việc đổi mới nâng cao chất lượng đời
sống văn hóa ở cơ sở được Nhà nước ta hết sức quan tâm - Đây là vấn đề mang tính chiến
lược của sự nghiệp văn hóa cả nước nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà


nước ta đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982). Đây là một chủ trương quan
trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa, lối sống và con người phù hợp
với đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V
của Đảng cũng đã ghi rõ: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa
thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở, bảo đảm mỗi xã, phường ấp đều có đời sống văn hóa. Tổ chức hơn nữa đời sống
văn hóa mới”.
Xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa, thông tin ở cơ sở là một trong ba chương trình
công tác chính hàng năm của Bộ văn hóa thông tin. Vì cơ sở là nơi trực tiếp động viên, giáo
dục xã hội và phát triển cá nhân, điều này chứng tỏ việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở

2
cơ sở là một chủ trương mang tính chiến lược lâu dài, thực hiện suốt trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được coi là bước đi ban đầu
của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo định
hướng XHCN. Đó là công cuộc xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng văn hóa với mục tiêu chính là
giáo dục hoàn thiện nhân cách phát triển toàn diện: giáo dục đạo lý “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”, giáo dục ý thức lao động sáng tạo, giáo dục phẩm chất đạo đức trong sáng
tình cảm lành mạnh, giáo dục cách ứng xử văn hóa trong mỗi cá nhân, gia đình, xã hội.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà Nghị Quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VIII (16/7/1998) đã nêu là:
“Phải xây dựng môi trường văn hóa từ trong mỗi gia đình, làng bản, xã phường, khu tập
thể, cơ quan… xây đựng đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và
không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã,
phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong việc xây dựng nếp sống
văn minh”.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở chính là thực hiện một cách cụ thể, thiết thực và sinh
động chủ trương của Đảng là nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp
do cha ông để lại, khuyến khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp văn hóa trên cả hai mặt

sáng tạo và hưởng thụ.
Huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) là một huyện đồng bằng ven biển, được xem là
“vệ tinh” của toàn tỉnh, do đó mọi hoạt động kinh tế - xã hội, văn hóa của huyện có tác động
rất lớn đến các vùng lân cận. Là huyện có bề dày truyền thống cách mạng, nhiều phong tục
tập quán tốt đẹp được lưu giữ thông qua lễ hội truyền thống, các gia phả dòng họ, gia đình.
Đặc biệt được thể hiện trong quy ước, hương ước của làng, xã văn hóa. Thấm nhuần Nghị
quyết đại toàn quốc của Đảng khóa VII, khóa VIII, thực hiện chủ trương của UBND tỉnh
Thanh Hóa, trực tiếp là Sở Văn hóa - Thông tin, huyện ủy, UBND huyện Quảng Xương đã
tiến hành công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nhằm tạo ra môi trường văn hóa lành
mạnh, đời sống kinh tế phát triển, trật tự an ninh quốc phòng được đảm bảo. Quảng Xương là
một trong những huyện đi đầu trong việc xây dựng làng văn hóa của tỉnh Thanh Hóa.
Từ năm 1991 đến nay, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của huyện Quảng
Xương đã có những thành tích to lớn, góp phần tích cực vào việc hoàn thành thắng lợi các
mục tiêu chính trị, kinh tế- xã hội của huyện nhà. Với những thành tựu đạt được, ngành Văn
hóa thông tin huyện Quảng Xương luôn là một trong những đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua
toàn tỉnh.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, những đóng góp của công tác xây dựng đời sống văn
hóa đối với đời sống kinh tế xã hội, công tác xây dựng đời sống văn hóa còn bộc lộ một số
khó khăn, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng hoạt động của các phong trào văn hóa trong
thời kỳ đổi mới.
Vì vậy, việc tìm hiểu “Đảng bộ huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) lãnh đạo xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở từ năm 1991 đến năm 2010” có ý nghĩa về mặt khoa học, thực tiễn và
giáo dục.

3
Xuất phát từ lý do trên tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ huyện Quảng Xương (Thanh Hóa)
lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 1991 đến năm 2010” làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Văn hoá và công tác xây dựng nền văn hoá là một vấn đề được nhiều tác giả, cơ quan của

Đảng và Nhà nước quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa đã ra mắt
bạn đọc. Đầu tiên phải kể đến các công trình như: Văn hóa đổi mới (1994) của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng nêu lên một số luận điểm về mối quan hệ giữa văn hóa và sự nghiệp đổi
mới; Cơ sở văn hóa Việt Nam và Bản sắc văn hóa Việt Nam (1998) của GS Trần Quốc Vượng
và Cơ sở văn hóa Việt Nam và Bản sắc văn hóa Việt Nam của PGS.TS Trần Ngọc Thêm; Văn
hoá và văn minh (1998) của Hồ Sỹ Quý; Văn hoá và cách tiếp cận mới (1991) của Phan
Ngọc; Văn hoá và văn hoá thế kỷ mới cuả Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, đã đưa ra nhiều
cách hiểu, nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá và các cách tiếp cận nghiên cứu về văn hoá
phong phú, đa dạng. Đó là những tài liệu tác giả tham khảo định hình cho mình một quan
niệm đúng về văn hoá được sử dụng trong luận văn.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của văn hoá trong thời kỳ đổi mới đất nước, đồng
thời khắc phục loại bỏ những quan niệm sai lầm về văn hoá đã có các công trình nghiên cứu
như: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta (1999) của GS
Hoàng Vinh; Những vấn đề vê xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay (1985) của Nguyễn
Văn Hy; Văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa của TS Nguyễn Hữu Thức; Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đã bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm trên Tạp chí Tư tưởng
văn hoá - 2001; Những điểm mới về văn hoá trong văn kiện Đại hội X của Bùi Đình Phong trên
tạp chí Tư tưởng Văn hoá - 2006.
Cùng với công trình nghiên cứu về lĩnh vực văn hoá nói chung, cũng xuất hiện những
công trình nghiên cứu về đời sống văn hoá ở cơ sở, góp phần làm rõ hơn những vấn đề mang
tính lý luận và thực tiễn đối với đời sống văn hoá tinh thần của mỗi người dân như: Một số giá
trị văn hóa truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay (1998) của Phạm
Việt Long và Nguyễn Đạo Toàn; Các vùng văn hóa Việt Nam của Đinh Gia Khánh và Cù Huy
Cận;Văn hóa các vùng truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ của hội văn nghệ dân gian Nghệ
An; Nhiều công trình đã tổng kết thực tiễn cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, xây dựng
môi trường văn hóa cơ sở có giá trị như: Xây dựng môi trường văn hóa một số vấn đề lý luận
và thực tiễn (2006) do Ban văn hóa Tư tưởng Trung ương ấn hành; Về xây dựng môi trường
văn hoá cơ sở (2004) của Tiến sĩ Văn Đức Thanh.
Trên cơ sở thực tiễn, tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện đề tài khoa học “Làng văn hóa Thanh
Hóa” và trở thành một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về công tác nghiên cứu

vấn đề này. Những năm 90 trở lại đây, có các công trình nghiên cứu về làng văn hóa Thanh
Hóa được công bố rộng rãi như: Văn hóa làng và làng văn hóa Xứ Thanh (1995); Những làng
văn hóa tiêu biểu tỉnh Thanh (1998); Xây dựng làng văn hóa Thanh Hóa (2003) do Sở Văn
hóa Thông tin Thanh Hóa xuất bản, đã giới thiệu khái quát về truyền thống văn hóa tiêu biểu
ở một số làng điển hình ở Thanh Hóa. Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử của Bùi Thị Oanh
với nội dung “Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hóa”
(2006).

4
Những công trình nghiên cứu trên bước đầu đưa ra những kết quả, giải pháp trong việc
xây dựng môi trường văn hoá ở cơ sở (làng văn hoá). Tuy nhiên cho đến nay có rất ít công
trình nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về sự lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa của
Đảng bộ cơ sở, cũng như đánh giá vai trò của đời sống văn hóa ở cơ sở đối với sự phát triển
của kinh tế, chính trị ở địa phương. Đây cũng là một trong những lý do tôi chọn vấn đề này
làm nội dung nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cho luận văn của mình.
Tuy nhiên, các công trình trên là những tài liệu quý mà tôi có thể tham khảo để thực hiện
luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát những vấn đề tư duy lý luận về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở,
luận văn làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo trong xây dựng đời sống
văn hóa của huyện và những tác động của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội của huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, truyền thống lịch sử- văn hóa, kinh tế - xã
hội của huyện Quảng Xương; phác họa diện mạo các mặt của đời sống văn hóa ở Quảng
Xương trước năm 1991.
- Phác họa quá trình lành đạo xây dựng làng văn hóa của Đảng bộ huyên Quảng Xương
trong 20 năm đổi mới (1991-2010).
- Tổng kết thực trạng, những thành tựu và hạn chế khó khăn trong quá trình xây dựng. Từ
đó đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, tổ chức xây dựng

các mặt của đời sống văn hóa cơ sở trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Những tác động của việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở đối với đời sống kinh tế, xã hội, chính
trị của huyện Quảng Xương từ năm 1991 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn không gian: Địa bàn huyện Quảng Xương gồm 41 xã, 1 thị trấn, 400 làng.
Giới hạn thời gian: Từ năm 1991 đến năm 2010. Năm 1991 là năm đầu tiên huyện Quảng
Xương thực hiện xây dựng làng văn hóa theo chủ trương của tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, để
có cơ sở so sánh, trong quá trình thực hiện luận văn tôi có đề cập đến tình hình kinh tế xã hội
của huyện trước năm 1991.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến vấn đề văn hóa.
- Kế thừa kết quả nghiên cứu về văn hóa từ trước đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic và chú trọng
phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu

5
Luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp liên ngành để tìm ra mối liên
hệ, tác động qua lại giữa đời sống văn hóa đối với tình hình kinh tế xã hội trong hoàn cảnh
lịch sử nhất định.
6. Đóng góp của luận văn
Từ quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ huyện Quảng
Xương, dựa vào nguồn tư liệu phong phú, luận văn khôi phục lại bức tranh về sự thay đổi
diện mạo của đời sống văn hóa trước đổi mới cũng như sự giao thoa những yếu tố giữa truyền
thống và hiện đại trong đời sống văn hóa từ 1991 đến năm 2010.

Từ thực tiễn nghiên cứu, nêu lên những điểm nổi bật, những điểm mạnh, những hạn chế,
những khó khăn trong quá trình đảng bộ huyện lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Trên cơ sở đó, đưa ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm, mong góp phần nào việc nâng
cao chất lượng hoạt động của các phong trào văn hóa, hoàn thiện những bước đi trong quá
trình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Luận văn cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền vận động xây dựng
nếp sống mới văn hóa ở cơ sở địa phương, cho việc nghiên cứu giảng dạy, học tập lịch sử địa
phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo. Luận văn gồm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở từ
năm 1991 đến năm 2000.
Chƣơng 2: Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở từ
năm 2001 đến năm 2010.
Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm.

6
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN QUẢNG XƢƠNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000

1.1. Cơ sở của việc xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện Quảng Xƣơng
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1.1.2. Quan niệm về đời sống văn hóa
* Khái niệm
* Vai trò của công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
* Các hoạt động của văn hóa ở cơ sở

Thứ nhất: Hoạt động thông tin, tuyên truyền. Đây là hình thức giáo dục nhẹ nhàng mà sâu
sắc.
Thứ hai: Hoạt động văn nghệ quần chúng. Đây là dạng hoạt động văn nghệ không
chuyên, khá hấp dẫn tại đơn vị ở cơ sở. Có thể nói hoạt động văn nghệ quần chúng là diện
mạo khởi sắc làm nên sức sống của một đơn vị văn hóa cơ sở.
Thứ ba: Hoạt động của thư viện ở cơ sở. Sách báo là nguồn tri thức vô tận, góp phần trực
tiếp vào việc nâng cao hiểu biết cho mọi người. Vì vậy hoạt động thư viện, phòng đọc chiếm
một vị trí quan trọng trong hoạt động khai trí văn hóa cho nhân dân của cơ quan văn hóa.
Thứ tư: Hoạt động giáo dục truyền thống và bảo vệ, phát huy giá trị của các di tích lịch
sử, văn hoá, lễ hội.
Thứ năm: Hoạt động xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, đơn vị văn hoá, nếp sống
văn hoá.
Thứ sáu: Hoạt động thể dục - thể thao, vui chơi giải trí. Là hoạt động không những nhằm
mục đích tăng cường thể chất mà còn rèn luyện nên những phẩm chất tinh thần như ý chí bền
bỉ, lòng dũng cảm, hoạt bát, thông minh và tinh thần tập thể đồng đội và làm tan biến những
căng thẳng đầu óc sau thời gian làm việc liên tục.
* Thiết chế văn hóa cơ sở
Bao gồm các yếu tố sau:
Một là: Có bộ máy điều hành, bao gồm cán bộ quản lý và một số cán bộ chuyên môn.
Hai là: Các quy chế, điều lệ cho các hoạt động văn hoá.
Ba là: Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động văn hoá.
Ba yếu tố trên quy tụ vào một cơ quan văn hoá như: nhà văn hoá, trung tâm văn hoá, thư
viện, nhà bảo tàng, các câu lạc bộ…
1.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Quảng Xương
1.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.1.2.3. Truyền thống văn hoá
1.1.3. Thực trạng đời sống văn hóa của huyện Quảng Xương trước năm 1991
1.1.3.1. Thành tựu


7
1.1.3.2. Hạn chế
1.2. Chủ trƣơng và quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa của đảng bộ huyện
Quảng Xƣơng từ năm 1991 đến năm 2000
1.2.1. Quan điểm của Đảng về vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nước ta giai
đoạn 1991 - 2000
Công tác tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những chủ trương lớn,
được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ rất sớm. Ngay từ năm 1943 Đảng đã có “Đề cương văn
hóa” do đồng chí Trường Chinh soạn thảo, nhằm khẳng định văn hóa là một trong ba mật trận
(kinh tế, chính trị, văn hóa) và định hướng cho hoạt động văn hóa ở nước ta theo tinh thần
“Dân tộc, khoa học, đại chúng”. “Đề cương văn hóa” được đánh giá như một bản tuyên ngôn,
cương lĩnh về văn hóa của Đảng, là phương hướng chỉ đạo mọi hoạt động văn hóa của cả
nước trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Chỉ thị số 27/CT-TW ngày 12-1-1998, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc vận động sâu
rộng trong toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hoá,
trong đó có việc thiết lập nếp sống lành mạnh trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo những
định hướng:
“Bảo tồn có chọn lọc, cải tiến, đổi mới những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc;
loại bỏ dần trong cuộc sống những hình thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên cứu xây dựng và hình
thành dần những hình thức vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
- Lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, phiền nhiễu.
- Chống khuynh hướng kinh doanh, vụ lợi.
- Xoá bỏ hủ tục, bài trừ mê tín dị đoan” [71, tr.11].
Để thực hiện chủ trương trên, cần làm tốt một số công việc sau đây:
1. Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp phải thực sự quan tâm, có kế hoạch cụ thể chỉ đạo
xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, coi đó là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của địa phương ngay trong dịp tết và Xuân Mậu Dần này.
2. Phát động phong trào quần chúng rộng rãi, nêu cao vai trò làm chủ, ý thức tự giác của
nhân dân, xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn về nếp sống văn minh - gia đình văn hoá.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội đóng vai trò nòng cốt
phối hợp kế hoạch tiến hành cuộc vận động từ cơ sở xã, phường, lôi cuốn mọi người, mọi lực
lượng tham gia, tạo ra dư luận xã hội mạnh mẽ phê phán những biểu hiện cổ hủ, xa hoa lãng
phí, hiếu danh, vụ lợi trong cưới xin, ma chay, tế lễ không phù hợp với yêu cầu của cuộc sống
văn minh.
3. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nhân viên nhà nước và
cán bộ chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân phải gương mẫu chấp hành những quy định
của Nhà nước, quy ước của địa phương, cơ quan, đơn vị về nếp sống văn minh, bài trừ hủ tục,
mê tín dị đoan, cổ hủ, xa hoa lãng phí, vụ lợi trong việc cưới, việc tang, lễ hội, coi đây là một
tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ, đảng viên, đoàn viên. Nghiêm khắc phê bình và xử lý kỷ luật
thích đáng đối với những đảng viên, đoàn viên, cán bộ và chiến sĩ vi phạm nếp sống văn
minh.
4. Ngành văn hoá - thông tin có trách nhiệm xây dựng và hướng dẫn những nghi thức phù
hợp trong việc cưới, việc tang, lễ hội; kiến nghị Nhà nước bổ sung luật lệ và quy định về lĩnh

8
vực này theo các định hướng đã nêu ở trên; các địa phương dựa vào các quy định này mà cụ
thể hoá và vận dụng thích hợp với điều kiện của từng vùng, miền và đồng bào các dân tộc.
5. Các cơ quan truyền thông đại chúng, văn hoá, nghệ thuật có nhiệm vụ thường xuyên
tuyên truyền về cuộc vận động này, nêu gương những điển hình tiên tiến, những mô hình làm
tốt về nếp sống văn minh - gia đình văn hoá, giữ gìn thuần phong mỹ tục; hình thành những
tập quán mới tiến bộ, khắc phục các tập quán lạc hậu.
6. Các cấp uỷ đảng, cơ quan, chính quyền tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có kế hoạch cụ
thể để bảo đảm thực hiện thắng lợi cuộc vận động.
1.2.2. Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1991
đến 2000
Mặc dù đã bước vào thời kỳ đổi mới được 5 năm, đời sống kinh tế -xã hội đã có những
biến chuyển, song Quảng Xương là huyện thuần nông nên người dân chịu ảnh hưởng nặng nề
của bão lụt, gặp khó khăn đói giáp hạt, hệ thống doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp bị thua
lỗ, mất vốn đứng trước nguy cơ giải thể, ngân sách tích lũy thấp Ở hầu hết các xã trên địa

bàn huyện Quảng Xương nhân dân vẫn còn mang nặng tư tưởng ỷ lại, chậm tiến của thời kỳ
bao cấp, những tác động của nền kinh tế thị trường cùng với mặt trái của nó đã làm xói mòn
quan hệ thân tộc, láng giềng, làm thay đổi mục tiêu, lý tưởng của một bộ phận thanh niên, ảnh
hưởng không nhỏ đến truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo… Thực tế này đã dẫn đến sự sa
sút về đạo đức, ảnh hưởng tới trật tự xã hội, làm mất đi những nét đẹp truyền thống của làng
xã. Trong khi đó, yêu cầu đặt ra của thời kỳ đổi mới đất nước nói chung và huyện Quảng
Xương nói riêng đòi hỏi phải có những con người văn hóa, môi trường văn hóa, tạo động lực
để thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi Đảng
bộ, chính quyền huyện Quảng Xương phải thực sự bình đẳng và bản lĩnh cách mạng để lãnh
đạo huyện phát triển theo kịp sự phát triển chung của cả tỉnh Thanh Hóa.
Trong hoạt động văn hóa thông tin tuyên truyền, cổ động có nhiều tiến bộ rõ nét, góp
phần quan trọng đua đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân, hướng
dẫn tổ chức nhân dân tham gia các hoạt động về chính trị, kinh tế, xã hội; từ đó đã nêu được
những điển hình tiên tiến góp phần khởi sắc bộ mặt quê hương. Đến năm 1991, huyện đã tập
trung xây dựng được 15 đài truyền thanh xã, đầu tư nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự
nghiệp văn hóa - xã hội với số lượng vốn lên tới hàng trăm triệu đồng.
Về hoạt động phong trào văn nghệ quần chúng nhân dân, từ khi Nghị quyết 4 của
BCHTW Đảng khóa VII (1/1993) đề ra nhiệm vụ trung tâm của văn hóa, văn nghệ là góp
phần bồi dưỡng con người Việt Nam có trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân
cách cao đẹp, có bản lĩnh ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước, mau chóng bắt kịp xu thế
phát triển của thời đại. Để góp phần vào việc đó, các hoạt động văn hóa, văn nghệ phải được
phát triển lành mạnh, phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng.
Hoạt động giáo dục truyền thống và bảo vệ di tích lịch sử cũng được quan tâm. Là huyện
có nhiều đối tượng chính sách, do vậy việc thực hiện chính sách “Đền ơn đáp nghĩa người có
công với nước”, “phụng dưỡng ông bà, cha mẹ”, “Giúp đỡ những người cô đơn, tàn tật”, “Trả
lại nụ cười cho trẻ thơ bị tật nguyền”, “Ủng hộ nhân dân Cu Ba”… là nhiệm vụ lớn và được
Huyện ủy chỉ đạo các cấp, các ngành trong huyện thực hiện.
Hoạt động xây dựng gia đình văn hóa, làng, đơn vị văn hóa và nếp sống văn hóa. Trong
những năm 1991 -1995 phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa trong toàn huyện


9
đã đạt được những kết quả ban đầu, có 186 làng (43,5%) được quy ước nếp sống văn hóa, hơn
50% số hộ đăng ký phấn đấu đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa mới, có 25/42 số xã xây dựng
được các làng văn hóa.

10
Chƣơng 2
ĐẢNG BỘ HUYỆN QUẢNG XƢƠNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

2.1. Quan điểm của Đảng về vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nƣớc ta giai
đoạn 2001 - 2010
Quan điểm của Đảng về nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cô đọng hơn,
cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng:
Một là: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng;
tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội…; triển khai
cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị
truyền thống của văn hóa, còn người Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Hai là: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn
hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh
chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định
cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.
Ba là: Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện
xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Tập trung
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư
tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới
Bốn là: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất
nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước
ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Tiếp thu những

kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ
thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hóa sự
xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào nước ta; bồi
dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng nhất là thế hệ trẻ.
2.2. Đảng bộ huyện Quảng Xƣơng lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm 2001
đến năm 2010
Trong mười năm (2001-2010) của sự nghiệp đổi mới, đất nước có bước phát triển vượt
bậc trên tất cả các lĩnh vực, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước được đẩy
mạnh. Hòa nhịp cùng sự phát triển của đất nước, tỉnh Thanh nói chung và huyện Quảng
Xương nói riêng cũng đạt được những thành tựu về kinh tế và văn hóa - xã hội: tốc độ kinh tế
bình quân hàng năm thời kỳ 2001 - 2005 là 11% cao hơn thời kỳ 1996 - 2000 là 3,04%, thu
nhập bình quân đầu người đạt 5.6000.000 đồng (350 USD). Đây là điều kiện tiền đề vật chất
cần thiết nâng cao hơn một bước về chất lượng và số lượng trong công tác xây dựng đời sống
văn hóa của huyện Quảng Xương.
Đại hội Đảng bộ huyện Quảng Xương khóa XXII (11/2000) - đại hội đầu tiên của thế kỷ
XXI, bên cạnh những hoạch định chiến lược trong giai đoạn 2001 -2005 về phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng an ninh, Đảng bộ cũng chủ trương quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất phục vụ các hoạt động văn hóa - thể thao, nâng cao sức khỏe của nhân dân, phấn đấu đến

11
năm 2005 có 13% đến 15% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao, đồng thời lựa chọn những
vận động viên đi bồi dưỡng, đào tạo làm hạt nhân cho phong trào thể thao ở cơ sở.

12
Chƣơng 3
THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1. Những thành tựu đạt đƣợc và hạn chế
3.1.1. Thành tựu
3.1.1.1. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động

3.1.1.2. Hoạt động phong trào văn nghệ quần chúng
3.1.1.3. Hoạt động của hệ thống thư viện
3.1.1.4. Hoạt động giáo dục truyền thống và bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa
3.1.1.5. Hoạt động xây dựng gia đình văn hóa, làng, thôn văn hóa, đơn vị văn hóa; nếp
sống văn hóa
3.1.1.6. Hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi giải trí
3.1.1.7. Xây dựng thiết chế văn hóa
3.1.2. Hạn chế
Sau 20 năm (1991- 2010), thực hiện đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh đất nước bước vào nền kinh tế thị
trường, hội nhập mở cửa. Đảng bộ huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) đã lãnh đạo nhân
dân nỗ lực hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn mà
huyện đạt được trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân, vẫn còn tồn tại
những mặt khó khăn, hạn chế như sau:
Một là: Công tác tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng các điển hình, mô hình tốt trong xây
dựng đời sống văn hóa tại cơ sở chưa được thường xuyên, hiệu quả.
Hai là: Quá trình chỉ đạo phong trào xây dựng đời sống văn hóa có lúc còn nặng về hình
thức, kết quả đạt được trên địa bàn toàn huyện chưa đồng đều.
Ba là: Cơ sở vật chất - kỹ thuật trang bị phục vụ cho hoạt động văn hóa của huyện còn
thiếu đồng bộ, hạn chế so với nhu cầu cần được đáp ứng.
Bốn là: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ cán bộ làm công tác văn hóa
còn nhiều bất hợp lý.
3.1.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
3.1.3.1. Nguyên nhân của thành tựu
Một là: Được sự quan tâm của Đảng bộ huyện, của các cấp ủy chính quyền cơ sở, đã kịp
thời quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng.
Hai là: Trong chỉ đạo điều hành của chính quyền các cấp đã bám sát mục tiêu trong quá
trình xây dựng các chương trình, dự án cụ thể và một số chính sách phù hợp để đẩy mạnh
công tác xây dựng đời sống văn hóa của quần chúng nhân dân ở địa phương.
Ba là: Do đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện, nên nhu cầu nâng cao đời

sống tinh thần của nhân dân cũng ngày càng được nâng lên.
Bốn là: Huyện Quảng Xương đã tranh thủ được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các
ngành, các đoàn thể. Đồng thời đã động viên tích cực sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ
và nhân dân trong huyện.
3.1.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Một là: Nguyên nhân khách quan

13
Hai là: Nguyên nhân chủ quan
3.2. Bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa của Đảng
bộ huyện Quảng Xƣơng từ năm 1991 đến năm 2010
Trên cơ sở những kết quả đạt được cũng như những mặt còn hạn chế trong công tác xây
dựng đời sống văn hóa ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa từ năm 1991 đến năm 2010.
Từ tình hình yêu cầu thực tế, so sánh với các địa phương khác trong tỉnh Thanh Hóa và trên
cả nước, tác giả luận văn bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao hiệu quả quản lý của các cấp ủy Đảng về
xây dựng đời sống văn hóa, phù hợp với tình hình cụ thể của huyện Quảng Xương
Thông qua các kỳ Đại hội (từ năm 1991 đến 2010) Đảng bộ huyện Quảng Xương đã quán
triệt sâu sắc đường lối xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng. Triển
khai và đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng làng,
khu phố văn hóa Qua đó đã xuất hiện những tấm gương điển hình như: Làng Quyết Thắng -
xã Quảng Thịnh, Làng Hòa Trinh - xã Quảng Hòa, khu phố Tân Phong - Thị trấn Quảng
Xương… đây là mô hình kiểu mẫu để nhân rộng phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở
huyện Quảng Xương.
3.2.2. Cần phải kết hợp đồng bộ quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng bộ
huyện về văn hóa với nghị quyết về kinh tế - xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội hóa cao, liên quan
đến tất cả các tầng lớp, lứa tuổi, tác động đến các ngành, lĩnh vực của đời sống vật chất lẫn
đời sống tinh thần.

Trong quá trình tổ chức thực hiện các nghị quyết về văn hóa, yêu cầu đặt ra trước hết cho
mỗi địa phương là phải xóa đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, phát triển mạng lưới
giáo dục, nâng cao mức sống và mức hưởng thụ cho người dân. Đây là vấn đề căn bản và mấu
chốt để có thể đưa các nội dung văn hóa đến với người dân.
3.2.3. Kết hợp các biện pháp giữa xây dựng, khơi dậy các giá trị tốt đẹp đi đôi với chống
các hủ tục lạc hậu trong lĩnh vực văn hóa
Xây dựng nền văn hóa mới cũng có nghĩa là trân trọng, tạo điều kiện cho các giá trị truyền
thống tốt đẹp vốn có lưu giữ và phát triển. Vì vậy trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa
ở cơ sở phải được bắt đầu từ những quan hệ vốn có trong cộng đồng dân cư. Từ đó định
hướng phát huy những giá trị tốt đẹp, loại trừ những hủ tục lạc hậu cản trở sự phát triển tiến
bộ chung của xã hội.
Thành công bước đầu trong công tác xây dựng đời sống văn hóa của huyện Quảng Xương
là khôi phục lại những giá trị văn hóa truyền thống: tiêu biểu như lễ hội ở đền An Dương
Vương (Quảng Châu), Đền Phúc (Quảng Nham), chùa An Đông (Quảng Hải), chùa Mậu
Xương (Quảng Lưu), đền thờ Bùi Sỹ Lâm (Quảng Tân), Bia chùa Kênh (Quảng Hùng), đền
Trần Nhật Duật (Quảng Hợp), phủ Voi (Quảng Thịnh).
3.2.4. Tăng cường xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động sức dân, của dân, tài
dân để chăm lo đời sống cho nhân dân
Để đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, trong những năm
qua Đảng bộ huyện Quảng Xương đã tổ chức giáo dục cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân

14
dân, nhất là thế hệ trẻ về truyền thống của quê hương Xứ Thanh, khơi dậy tinh thần yêu nước,
cụ thể hóa hành động trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa.
Đảng bộ huyện phải thường xuyên phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hưởng thụ
và sáng tạo văn hóa - nghệ thuật, đồng thời giáo dục người dân nâng cao ý thức giữ gìn và bảo
vệ các giá trị văn hóa - nghệ thuật của địa phương.
Đảng bộ huyện Quảng Xương xác định phải thường xuyên tôn trọng và phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò và sức mạnh các ban, ngành, đoàn thể, tạo sức bật cho
cả hệ thống chính trị. Qua quá trình tổ chức, thực hiện phong trào xây dựng đời sống văn hóa,

nhân dân toàn huyện có truyền thống đồng thuận, đồng lòng, chính vì thế mà đã làm nên
những kết quả quan trọng.
Các đại biểu cũng cho rằng, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở” đã tạo được những kết quả quan trọng trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
và xây dựng môi trường sống lành mạnh. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn,
phát huy tốt những mặt tích cực, hạn chế, loại bỏ dần những hủ tục, từng bước xây dựng nếp
sống văn minh đối với cá nhân, gia đình, cộng đồng dân cư, đơn vị làm việc, sinh hoạt. Sự
tham gia rộng khắp, tự giác của đông đảo nhân dân tạo nên những nét đẹp mới trong chuẩn
mực văn hóa và trong nhân cách con người Việt Nam.
Trong những năm qua là cách làm sáng tạo khi các ngành, đoàn thể đã lồng ghép các nội
dung tiêu chí thi đua, nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương “Người tốt, việc tốt” vào
phong trào xây dựng nếp sống văn hóa. Cụ thể như: phong trào “Gia đình nông dân văn hóa”
của Hội Nông dân, phong trào “Xây dựng khu dân cư 5 không” do Ủy ban MTTQ phát động,
phong trào “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm” của Công an, phong trào “Xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” của Hội Phụ nữ, phong trào “Xây dựng làng
văn hóa sức khỏe” của ngành Y tế. Trong 10 năm qua, toàn huyện có 8.936 người tốt, việc tốt
được các cấp khen thưởng; có 17 thôn, 72 gia đình được tuyên dương tại Hội nghị tổng kết
“20 năm phong trào xây dựng làng văn hóa”, “10 năm phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” của Trung ương và tỉnh. Qua đó, xuất hiện nhiều gương điển hình có
đóng góp không nhỏ trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có sức lan tỏa trong
toàn xã hội, góp phần động viên, cổ vũ phong trào.
Mặt trận đã chú trọng vận động nhân dân tham gia giải quyết những vấn đề cấp bách
trong cộng đồng về vệ sinh môi trường, nâng cấp và cải tạo đường kiệt, ngõ xóm, góp phần
xây dựng trường học, trạm xá, nhà sinh hoạt cộng đồng, xoá bỏ những tập tục lạc hậu, mê
tín dị đoan, xây dựng và thực hiện tập quán mới, tạo cảnh quan mới ở các khu dân cư.
Nhiều phong trào có ý nghĩa về văn hoá tinh thần và giáo dục sâu sắc đã được nhân dân
đồng tình hưởng ứng như: phong trào xây dựng “Đoạn đường (tuyến đường) an toàn - văn
minh - sạch đẹp”, phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực con cháu hiếu thảo”, “Người lớn
gương mẫu, trẻ em chăm ngoan”. Ban chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa của huyện đã tích
cực tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mở các cuộc thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở
các trường, địa phương trong toàn huyện.
Thực tế cho thấy những thành tựu trong công tác xây dựng đời sống văn hóa trên toàn
huyện những năm qua đã chứng minh các cấp ủy chính quyền đã rất quan tâm động viên sức
mạnh của quần chúng nhân dân, nhận được sự đồng thuận tham gia đông đảo của các tầng

15
lớp. Bởi vì mục tiêu hướng tới của phong trào là nhằm đưa con người về với những giá trị tốt
đẹp của cuộc sống, phù hợp với lối sống, nếp nghĩ của người dân được cha ông lựa chọn giữ
gìn qua nhiều thế hệ.

16
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết rút kinh nghiệm trong công tác xây dựng
đời sống văn hóa
Nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu của từng cán bộ đảng viên trong thực hiện chủ
trương về văn hóa của Đảng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, kịp thời biểu dương những tập
thể, cá nhân tiên tiến, đồng thời phê phán mạnh mẽ những hiện tượng tiêu cực, phi văn hóa.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” không phải chỉ dừng lại sau khi
đã sơ kết tổng kết mà huyện ủy Quảng Xương coi đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên
hàng đầu vì có xây dựng được con người tiên tiến, có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc mới có cơ sở và động lực để thúc đẩy kinh tế xã hội của huyện phát triển.
Để phong trào được tiếp tục và phát triển sâu rộng, Huyện ủy Quảng Xương đã chỉ đạo
các cấp các ngành trong huyện tăng cường hơn nữa công tác giáo dục nâng cao nhận thức, ý
nghĩa tác dụng của phong trào, của việc xây dựng đời sống văn hóa, môi trường văn hóa, và
việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong đó cán bộ chủ trì phải là người
nắm vững nhất, nhận thức sâu nhất. Phát huy tác dụng các thiết chế trong hệ thống giáo dục
chính trị tư tưởng ở các cấp để mở rộng đối tượng đến cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống
chính trị, đặc biệt là cán bộ làm công tác văn hóa - xã hội. Để thực hiện được mục tiêu này
trước hết cần tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền, cổ động chính trị .
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở không phải là khơi dậy những tập tục lạc hậu xưa,

cũng không phải là đi tìm một cách sống mới, xa lạ, mà thực sự đưa con người về với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của cha ông. Đó là nếp văn hóa, cách cư xử trong gia đình, dòng
tộc, trong tình làng nghĩa xóm, thái độ bảo vệ các di sản văn hóa dân tộc, là những chuẩn mực
về cách sống mà ông cha ta đã lựa chọn, giữ gìn qua bao thế hệ, là cơ sở để chúng ta xây dựng
đời sống tình cảm và đạo đức, nhân cách đẹp hơn, tốt hơn.
Phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Quảng Xương trong những năm qua, với
những kết quả đạt được đã và đang góp phần tạo động lực, tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển kinh tế trong làng, khu phố, khu dân cư của huyện thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
của địa phương, chăm lo phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề xã hội như việc làm, xóa
đói giảm nghèo, bài trừ các tệ nạn xã hội, tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch đẹp Cũng do
phát triển kinh tế và tốc độ đô thị hóa được đẩy mạnh nên đường làng ngõ xóm được mở
mang, sạch đẹp, đình làng, nhà văn hóa, nhà thờ tổ tiên, được tu sửa, nâng cấp, di tích lịch sử,
văn hóa được chăm sóc trùng tu, tôn tạo làm cho bộ mặt làng, khu phố khang trang, khởi sắc.
Phong trào xây dựng đời sống văn hóa với những nội dung sinh hoạt phong phú, đa dạng, các
tiêu chí đặt ra trong xây dựng làng, khu phố, gia đình và đơn vị văn hóa cũng góp phần hữu
hiệu vào việc giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, trật tự, tạo nên nếp sống văn minh.
Qua thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa của huyện Quảng Xương đã để lại những bài
học kinh nghiệm quý báu, làm cơ sở để Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo đẩy mạnh xây
dựng đời sống văn hóa đạt hiệu quả cao hơn trong những năm sau. Những kinh nghiệm trong
tổ chức chỉ đạo, vận dụng đường lối của các cấp lãnh đạo, trong hoạt động của các đoàn thể
quần chúng, về lấy văn hóa truyền thống làm cơ sở, về phát huy vai trò của nhân dân , trong
đó đặc biệt nhấn mạnh đến nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, của cán bộ, nhân
dân về văn hóa, đến vai trò của đội ngũ cán bộ văn hóa. Những kinh nghiệm này tiếp tục giúp
cho huyện thực hiện tốt hơn trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở mà trọng tâm là thực
hiện phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Mặt khác những kinh

17
nghiệm này cũng góp phần đóng góp cho công tác xây dựng đời sống văn hóa trên cả nước
nói chung.


18
KẾT LUẬN

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến việc xây dựng đời sống
văn hóa cho mỗi người dân và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp cách mạng nước
nhà. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một vấn đề lớn, nhằm xây dựng nền tảng
tinh thần cho chế độ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một yêu
cầu vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Xây dựng đời sống văn hóa không phải lúc nào cũng bó hẹp và theo một khuôn mẫu nhất
định, mà nó biến đổi từng nơi, từng lúc. Nhưng tựu trung lại, mục tiêu cuối cùng của nó vẫn
là vì con người và cho con người.
Trong 20 năm thời kỳ đổi mới từ năm 1991 đến năm 2010, được đánh dấu bằng hai chặng
đường lớn: trước 1996 là chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau
1996 là chặng đường đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách
toàn diện. Trong từng chặng đường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện kết
quả rõ rệt, đất nước từng bước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, đời sống nhân
dân có sự cải thiện rõ rệt, bên cạnh tiêu dùng đã có tích lũy. Cùng với cả nước, huyện Quảng
Xương (Thanh Hóa) cũng có những bước tiến nhảy vọt, từ một huyện thuần nông nghiệp,
hàng năm phải đối mặt với khó khăn, thiếu thốn về vấn đề lương thực, thì đến năm 2000 về cơ
bản đã được giải quyết (sản lượng lương thực năm 2000 đạt trên 10 vạn tấn, gấp đôi năm
1986), không những đáp ứng nhu cầu lương thực hàng ngày của nhân dân mà còn có quỹ
lương thực dành cho chăn nuôi, dự phòng và làm hàng hóa giao lưu trên thị trường, an ninh
lương thực trên địa bàn huyện được đảm bảo. Đến năm 2010 thu nhập bình quân đầu người
toàn huyện đạt 15 triệu đồng, bên cạnh đó còn xây dựng được những cánh đồng 50 triệu/ha.
Nhìn chung đời sống của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân được cải thiện và nâng cao từng
bước cơ bản về ăn, mặc, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, an ninh chính trị ổn định, quốc phòng
vững mạnh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đây chính là những điều kiện cần thiết để
các hoạt động về văn hóa - xã hội được phát huy.
Bằng chương trình hành động cụ thể, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân đưa các Nghị

quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, VIII, IX, gần đây nhất là Nghị quyết Đại hội
X vào đời sống văn hóa, tạo ra những chuyển biến quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
đời sống văn hóa (đặc biệt là xây dựng các làng văn hóa, đơn vị văn hóa, gia đình văn hóa).
Tuy nhiên kết quả đạt được ở từng đơn vị địa phương trong huyện vẫn chưa đồng đều chưa
phát huy hết tiềm năng, sức sáng tạo của quần chúng nhân dân. Nhưng cũng phải thừa nhận
sự nỗ lực cố gắng rất lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Quảng Xương trong
việc khắc phục những khó khăn để đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trong hai thập kỷ (từ 1991 đến 2010) xây dựng, bảo vệ và đổi mới quê hương, Quảng
Xương đã thực sự chuyển mình, từ một huyện nghèo điểm xuất phát thấp trong những năm
tháng chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế sang cơ chế thị trường đã biết tận dụng các điều kiện
thuận lợi, khắc phục khó khăn giành được những thắng lợi to lớn, trở thành địa phương có
mức phát triển kinh tế - xã hội cao trong tỉnh Thanh Hóa. Góp phần đưa sự nghiệp xây dựng
đời sống văn hóa của huyện phát triển lên một tầm cao mới, cùng nhân dân cả nước góp xây
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

19

References
1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Xương (1992), Quảng Xương - Lịch sử đấu
tranh cách mạng, tập 1 (1930-1954).
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Xương (2/1996), Báo cáo tại Đại hội đại biểu
lần thứ XXI Đảng bộ huyện Quảng Xương.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Xương (1996), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện
Quảng Xương lần thứ 21 nhiệm kỳ 1996 - 2000.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Xương (2001), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện
Quảng Xương lần thứ 22 nhiệm kỳ 2001 -2005.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Xương (2003), Lịch sử Đảng bộ và phong trào
cách mạng của nhân dân Quảng Xương, tập 2 (1954-1975).
6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Xương (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện
Quảng Xương lần thứ 23 nhiệm kỳ 2005 -2010.

7. Ban Chỉ đạo Trung ương phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
(2005), Văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa, Hà Nội.
8. Ban liên lạc đồng hương Quảng Xương ở Hà Nội (2002), Quảng Xương quê tôi, Nxb.
Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2000), Tên làng xã Thanh hóa, tập 1,
Nxb. Thanh Hóa.
10. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), Một số văn kiện của Đảng về công tác tư
tưởng văn hóa, Tập 2 (1986-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
11. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Tài liệu bồi dưỡng công tác tuyên giáo ở
cơ sở, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Bộ Văn hóa, Viện Văn hóa (1984), Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Nxb. Văn hóa,
Hà Nội.
13. Bộ Văn hóa - Thông tin (1995), Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
14. Bộ Văn hóa (13/9/2005), Quy chế mẫu về tổ chức và các hoạt động của Trung tâm văn
hóa - thông tin cấp huyện (Ban hành kèm theo Quyết định số 49/2005/QĐ-BVHTT của
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin).
15. Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa (2010), Niên giám thống kê 2006 - 2010.
16. Lê Ngọc Dương (2009), Báo cáo tốt nghiệp: Công tác xây dựng làng văn hóa tại xã
Quảng Tân, huyện Quảng Xương, (Chuyên ngành quản lý văn hóa).

20
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.
Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Các Đại hội, hội nghị của Đảng Cộng sản Việt Nam
từ 1930 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 11/2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp
hành Trung ương khóa IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng bộ huyện Quảng Xương (2002), Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Xương, Nhà in
Thanh Hóa.
29. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Huyện Ủy Quảng Xương (2007), Báo cáo tổng kết 10 năm
thực hiện Chỉ thị 27-CT/TW của Bộ chính trị (khóa VIII) "về việc thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội".
30. Nguyễn Khoa Điềm (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Điệp (1999), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở nông dân tỉnh Bình
Dương, Luận văn thạc sỹ Khoa học văn hóa.
32. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hoá và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. PGS. TS. Lê Như Hoa (10/1996), “Phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh
công nghiệp hóa”. Tạp chí Cộng sản (20).

21
34. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Văn hóa Xã hội chủ nghĩa (2000),

Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
35. Hội Văn nghệ Dân gian Nghệ An (1995), Văn hóa các vùng truyền thống các tỉnh Bắc
Trung Bộ. Nxb Văn hóa, Hà Nội
36. Lê Văn Hữu (1995), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại thành phố Cần Thơ - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ Khoa học văn hóa.
37. Đỗ Huy (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền văn hóa mới ở Việt Nam (Báo
cáo tham luận), Hà Nội.
38. Huyện ủy Quảng Xương (1999), Kết luận của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc tiếp tục
đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động VHTT.
39. Huyện ủy Quảng Xương (2002), Quảng Xương quê tôi, tập II, Nxb. Thanh Hóa.
40. Nguyễn Văn Hy (1995), Những vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay,
Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
41. Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận (1992), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa
dân tộc, Hà Nội
42. Lênin (1918), Về văn hóa và cách mạng văn hóa, Nxb. Tiến bộ Matxcơva.
43. Phạm Việt Long và Nguyễn Đạo Toàn (1998), Một số giá trị văn hóa truyền thống với
đời sống văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội
47. Nhiều tác giả (1985), Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
48. Nhiều tác giả (2000), 60 năm đề cương văn hóa Việt Nam với văn hóa và phát triển ở
Việt Nam hôm nay, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
49. Phan Ngọc (1999), Văn hóa và cách tiếp cận mới, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
50. Phan Ngọc (2001), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
51. Mai Hải Oanh (2006), “Vài suy nghĩ về đổi mới tư duy văn hóa ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, (12).

52. Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Quảng Xương (2002), Báo cáo thành tích phong
trào hoạt động VHTT.

22
53. Phạm Ngọc Quang và Nguyễn Viết Thông (2000), Góp phần tìm hiểu sự phát triển tư
duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Đào Duy Quát (2000), Vai trò văn hóa dân tộc và nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc (Báo cáo tham luận), Hà Nội.
55. Hồ Sĩ Quý (1998), Về văn hóa và văn minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Nguyễn Duy Quý (2006), “Đổi mới tư duy lý luận: một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng
sản, (5).
57. Nguyễn Văn Quyết (2000), Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư công nghiệp Biên
Hòa thời kỳ 2002 -2010, Luận văn thạc sỹ Khoa học VH.
58. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên - 2006), Quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
59. Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa (1998), Xây dựng làng văn hóa Thanh Hóa, Nhà in
Thanh Hóa.
60. Nguyễn Đức Tài (2005), Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
61. Đỗ Khánh Tặng (1998), “Đề cương văn hóa Việt Nam nền tảng vững chắc cho đường
lối văn hóa của Đảng”, Tạp chí Triết học, (1).
62. Hà Văn Tăng (2000), Công tác văn hóa quần chúng trong bối cảnh thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (Báo cáo tham luận), Hà Nội.
63. Văn Đức Thanh - Đông Hải (2006), “Đẩy mạnh cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm phát huy
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, (12).
64. PGS. TS Trần Ngọc Thêm (1997) Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
65. TS. Nguyễn Hữu Thức (2005), Văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

66. Đặng Hữu Toàn (2005), “Văn hóa nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững trong
bối cảnh kinh tế thị trường”, Tạp chí Khoa học Xã hội, (11).
67. Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận về công tác xây dựng Đảng, Nxb. Sự thật,
Hà Nội.
68. Truyền thống lịch sử và quy ước xây dựng làng văn hóa làng Tân Đắc - xã Quảng Tân
- huyện Quảng Xương - Thanh Hóa (10-2004).
69. UBND huyện Quảng Xương (2001), Quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng làng
văn hóa, nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa huyện Quảng Xương.

23
70. UBNND huyện Quảng Xương (2005), Quy định về việc phê duyệt đề án đầu tư trang
thiết bị hoạt động VHTT-TDTT cho các làng văn hóa, cơ quan văn hóa.
71. UBND huyện Quảng Xương (8/2005), Một số văn bản của Trung Ương và địa phương
về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa - thông tin - thể dục thể thao.
72. UBND xã Quảng Tân (2004), Quy ước xây dựng làng văn hóa Làng Tân Đắc - xã
Quảng Tân - huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa.
73. UBND tỉnh Thanh Hóa (1997), Hướng dẫn tổ chức xét công nhận danh hiệu làng văn
hóa cấp huyện, thị xã, thành phố.
74. UBND tỉnh Thanh Hóa (1997), Hướng dẫn nội dung, tổ chức và phương pháp công tác
xây dựng làng văn hóa.
75. UBND tỉnh Thanh Hóa (2001), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Thanh Hóa thời kỳ 2001 - 2010.
76. UBND tỉnh Thanh Hoá (2001), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Thanh Hoá thời kỳ 2001 -2010.
77. UBND tỉnh Thanh Hoá (2001), Quyết định số 4150/QĐ - CT về việc công nhận làng,
khu phố, cơ quan văn hoá cấp tỉnh.
78. UBND tỉnh Thanh Hóa (2002), Công văn số: 1025/ VHTT-QL hướng dẫn đăng ký xây
dựng xã, phường văn hóa.
79. Văn hóa gia đình và phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay
(9/2007), Tạp chí Cộng sản, (9).

80. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Nxb.
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
81. Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian (2005), Hương ước Thanh Hóa, Nxb Văn Hóa, Hà
Nội.
82. GS. Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
83. Ngô Đình Xây (2007), “Đổi mới tư duy lý luận về văn hóa thành tựu và những vấn đề
đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, (2).
84. Đặng Văn Xuyên (2002), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong công nhân lao động
ở vùng than Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ khoa học văn hóa.

×