Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ tri thức ở huyện quảng xương ( thanh hóa ) hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng hồ chí minh luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.99 KB, 84 trang )

Trờng Đại học Vinh
Khoa giáo dục chính trị
********************

Trần văn tùng

Nâng cao chất lợng đội ngũ trí thức ở huyện
quảng xơng (thanh hãa) hiƯn nay díi ¸nh s¸ng
t tëng hå chÝ minh
khóa luận tốt nghiệp đại học
ngành: cử nhân chính trị - luật

Vinh, tháng 5 năm 2011

1


Trờng Đại học Vinh
Khoa giáo dục chính trị
********************

Nâng cao chất lợng đội ngũ trí thức ở huyện
quảng xơng (thanh hóa) hiƯn nay díi ¸nh s¸ng
t tëng hå chÝ minh

khãa ln tốt nghiệp đại học
chuyên ngành: cử nhân chính trị - luật

Bùi Thị Cần
: Trần Văn Tùng


Giảng viên hớng dẫn: ThS.
Sinh viên thực hiện

Vinh, tháng 5 năm 2011

2


Lời cảm ơn
Trong q trình làm khố luận này, ngồi nỗ lực của bản thân, tơi cịn
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Hội đồng khoa học khoa Giáo dục
chính trị, các thầy cơ giáo trong Tổ bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh; Sự khích lệ,
động viên, chia sẻ của gia đình, bạn bè và của người thân; Đặc biệt là sự dẫn
dắt chu đáo, nhiệt tình của cơ giáo, Ths.Bùi Thị Cần - người trực tiếp giúp tơi
làm khố luận này. Chính sự hướng dẫn nhiệt tình và những tình cảm q báu
đó đã động viên, thơi thúc, giúp đỡ tơi có thể hồn thành tốt khố luận của
mình.
Chính vì thế, nhân dịp này cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành
tới Hội đồng khoa học của khoa Giáo dục chính trị, các thầy cơ giáo trong
khoa, tới gia đình, bạn bè, người thân và đặc biệt là cô giáo, Ths.Bùi Thị Cần.
Trong q trình thực hiện khố luận, mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc
chắn có những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo và góp ý của các thầy cơ giáo, bạn bè để khố luận được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên

Trần Văn Tùng

3



MỤC LỤC
Trang
Mở đầu...............................................................................................................05
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức..............................................12
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức.....................................................12
1.2. Nội dung xây dựng đội ngũ trí thức theo quan điểm của Hồ Chí Minh......22
Chương 2: Xây dựng đội ngũ trí thức huyện Quảng Xương - Thanh Hố
dưới sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.......................................................43
2.1. Tinh hình xây dựng đội ngũ trí thức huyện Quảng Xương - Thanh Hoá....43
2.2. Định hướng và một số giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức
Quảng Xương - Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh........................62
Kết luận..............................................................................................................80
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................................83
Phụ lục................................................................................................................84

4


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là một nội dung quan trọng trong

hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá
rất cao vai trị của đội ngũ trí thức. Người ln quan tâm đến công tác giáo dục,
bồi dưỡng và tạo điều kiện để trí thức tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự
nghiệp cách mạng. Theo Người: “Trí thức khơng bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí

thức mà thơi”[26; 36]. Tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng
cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên mục tiêu, nội dung của công tác xây dựng,
bồi dưỡng đội ngũ trí thức cho phù hợp. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh,
hơn 80 năm qua, Đảng ta ln quan tâm, chú trọng xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức. Đảng ta khẳng định: “Trong mọi thời đại, trí thức ln là nền tảng
tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nịng cốt sáng tạo và truyền bá tri
thức”[04; 81].
Trước tình hình thế giới đang có những biến chuyển nhanh chóng, phức
tạp. Khoa học - cơng nghệ phát triển như vũ bão, q trình quốc tế hố và tồn
cầu hố diễn ra ngày một nhanh chóng, ln đặt ra những thuận lợi cơ bản và
những thách thức to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia - dân
tộc. Ở nước ta, tồn Đảng, tồn dân đang đẩy mạnh cơng cuộc cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước, phát triển nền “kinh tế tri thức”, xem khoa học - công
nghệ, giáo dục - đào tạo là thành phần quan trọng, quyết định trong chiến lược
phát triển đất nước nhanh và bền vững. Tình hình đó đặt ra u cầu ngày càng
cao về chất lượng nguồn nhân lực nói chung và yêu cầu, trách nhiệm của mỗi trí
thức đối với sự nghiệp đổi mới đất nước lại trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Đảng ta nhận định: “Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của
cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực
đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát
triển”[04; 81]. Chính vì vậy, một trong những mục tiêu cơ bản Đảng ta đề ra
trong Hội nghị Trung ương 7, khoá X là: “Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí

5


thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các
nước trong khu vực và trên thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước
với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh cơng - nơng - trí”[04; 90].

Hưởng ứng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, trong thời gian qua, công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức tại
huyện Quảng Xương - Thanh Hố ln được các cấp, các ngành, các tổ chức
quan tâm thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, công
tác xây dựng đội ngũ trí thức ở huyện Quảng Xương - Thanh Hố trước u cầu
của sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố cịn có nhiều vấn đề cần được
quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu: một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận
thức đúng về vai trị, vị trí của trí thức, đánh giá sử dụng trí thức khơng đúng
năng lực và trình độ, coi trọng vốn tiền, vật chất mà chưa coi trọng nguồn nhân
lực có trình độ cao… Đồng thời, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu
khoa học đồng bộ về cơng tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức huyện
Quảng Xương - Thanh Hố. Vì vậy mà việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức chưa đúng với tiềm năng, chưa đầy đủ,
khơng thường xun, thiếu sáng tạo và có khi mang tính chất hình thức.
Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng, vai trị của đội ngũ trí thức cũng
như cơng tác đào tạo con người mới trong xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, cùng
với việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới của các h mạng, từ chủ trương của Đảng và
Nhà nước thì việc học tập, quán triệt sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa nhằm đáp ứng u
cầu mới của sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn, cấp thiết và lâu dài.
Với những lý do cơ bản trên, tôi chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng đội
ngũ trí thức ở huyện Quảng Xương (Thanh Hố) hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu cho khố luận của mình.

6


2.


Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức đã

được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ, khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu chung nhất, cơ bản nhất của các cơng trình
nghiên cứu đều hướng tới vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa với sứ
mệnh lịch sử: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và mai sau. Đó cũng chính là việc chăm lo
xây dựng và phát triển thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Các
cơng trình đều đề cập đến nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng và phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là về giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ
và thanh niên. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức, trên cơ sở thực tiễn trí thức Việt Nam ngày nay chủ yếu là thế hệ
trẻ đang còn trong mơi trường học đường, đồng thời cũng là vì mục tiêu sâu xa
hơn là muốn xây dựng được đội ngũ trí thức chất lượng tốt thì phải chuẩn bị và
bắt đầu sớm nhất có thể, từ khâu đơn giản nhất đến phức tạp nhất trong quá trình
hình thành, trưởng thành của mỗi trí thức, tức là bắt đầu từ những cấp học như
mầm non, tới trung học cơ sở, trung học phổ thông cho tời đại học và sau đại
học. Do đó, việc nghiên cứu về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức về cơ bản
nhất vẫn là nằm trong việc giáo dục và phát triển thế hệ trẻ và thế hệ thanh niên
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
đội ngũ trí thức với nhiều góc độ, quy mơ khác nhau, với các hình thức khác
nhau như các luận văn, luận án, sách, các bài nói, tài liệu, tạp chí… trong đó có
một số cơng trình khoa học đã đề cập đến các nội dung mà khóa luận cần nghiên
cứu, tham khảo và kế thừa:
 Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học,
nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1995.
 Nguyễn Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh

niên, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1990.
7


 Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
 Nguyễn Đình Hồ, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, Tạp chí Cộng sản số 775/2007.
 PGS.TS.Phan Thanh Khôi, Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa
Mác về trí thức, trong cuốn “Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
 Trí thức trong khối liên minh cơng - nơng - trí vì sự nghiệp xây dựng đất
nước hiện nay, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999.
 Trịnh Quốc Tuấn, Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với trí thức
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nghiên cứu lý luận, số 4/1995.
 Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 2/2001.
 Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức, Tạp chí Thơng tin
khoa học xã hội, số 4/1996…
Trong các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả chủ yêu đi sâu nghiên
cứu về các khái niệm trí thức, vai trị và vị trí của trí thức đối với sự phát triển
của xã hội nói chung, bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các
chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên
minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trị của trí thức… theo quan
điểm của các nhà Mácxít và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các tác phẩm cũng nghiên
cứu thực tiễn phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ mới. Trên cơ sở
đó, các tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị để xây dựng và phát triển đội ngũ
trí thức Việt Nam.
Ngồi ra, cịn có các tác phẩm khác như:



Đỗ Mười, Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất

nước, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.


GS.Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, nhà

xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Định hướng phát triển đội ngũ trí

8


thức Việt Nam trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.


PTS.Nguyễn Quốc Bảo - Đồn Thị Lịch, Trí thức trong cơng cuộc

đổi mới đất nước, nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1998.


TS.Đồn Minh Duệ, Trí thức Nghệ An trong q trình cơng nghiệp

hố, hiện đại hố, nhà in Báo Nghệ An, 2005…
Đây là các cơng trình nghiên cứu khá cơng phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức
Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, các tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm
hiện đại về “trí thức”, nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử, khái qt tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới,
phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt Nam: thực trạng, số lượng,

cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức. Trên cơ sở đó, các tác
giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu
cầu và nhiệm vụ cách mạng ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, có một số luận văn, luận án đã nghiên cứu về vị trí, vai trị,
đặc điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong q trình cách mạng Việt Nam
như:
Phạm Việt Dũng, Vị trí và vai trị của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ Triết học, Hà Nội,
1988; Trịnh Quang Cảnh, Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2001; Nguyễn Đình
Minh, Phát huy vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong
quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2003;
Nguyễn Xn Phương, Vai trị của trí thức thủ đơ Hà Nội trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2004…
Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một cơng trình
nghiên cứu cụ thể về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ trí
thức Quảng Xương - Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.

9


3.

Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
 Mục đích:
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức

và thực trạng phát triển của đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa, Khóa
luận nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây dựng và phát huy vai trị của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Quảng

Xương - Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
 Nhiệm vụ:
 Trình bày khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội
ngũ trí thức đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
 Phân tích những đặc điểm cơ bản, thực trạng của đội ngũ trí thức Quảng
Xương - Thanh Hóa và xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến
trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát
huy vai trị đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận


Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu nội dung cơ

bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức và nghiên
cứu đội ngũ trí thức huyện Quảng Xương - Thanh Hóa, nhất là đặc điểm, vai trò
của đội ngũ này trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.


Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu cơ bản trong phạm vi tư

tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và nghiên cứu về q trình xây dựng và phát
triển đội ngũ trí thức ở Quảng Xương - Thanh Hóa trong thời gian từ 2005 đến
2010.


10


5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Khóa luận được triển khai trên cơ sở các quan điểm của

chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng đội ngũ trí thức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử
với logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra thực tế... để thực
hiện Khóa luận này.

6.

Đóng góp khoa học của khóa luận
 Khóa luận góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung cơ

bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, từ
đó nhận định đúng đắn, khách quan về cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức tại
huyện Quảng Xương - Thanh Hóa, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức về chất lượng cũng như số lượng của
đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
 Khóa luận cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp cho các cấp,
ngành liên quan trong việc xây dựng đội ngũ trí thức, góp phần làm luận cứ
khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức Quảng Xương Thanh Hóa. Khóa luận có thể dùng làm tài liệu hữu ích giúp cho những người có

yêu cầu và mối quan tâm cần nghiên cứu được thuận lợi và sát thực, cũng như
việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề liên quan đến trí thức trong các
mơn lý luận chính trị Mác-Lênin.

7.

Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm 2 chương, 4 tiết.

11


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về trí thức
1.1.1. Khái niệm trí thức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm
khoa học và toàn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa văn hố dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người”[14; 19]. Trong hệ thống quan điểm tồn diện đó, tư tưởng về xây
dựng, phát triển đội ngũ trí thức cũng như sử dụng, quản lý, lơi cuốn trí thức vào
sự nghiệp đấu tranh cách mạng chung của dân tộc có vị trí, vai trị quan trọng
khơng chỉ về mặt lý luận mà cịn về thực tiễn trong Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và đặc biệt là trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu
học, ơng ngoại của Bác là một cụ Đồ thanh bạch mở lớp dạy học trong làng.
Thân phụ Bác Hồ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, đồng thời cũng là người
thầy khai tâm cho Bác. Người lại được học từ các thầy giáo nổi tiếng trong vùng
về trình độ học vấn và tư cách đạo đức như thầy Vương Thúc Độ, Vương Thúc
Quý, Hoàng Văn Quỳnh…
Cùng với đó là truyền thống hiếu học của miền quê xứ Nghệ, cộng với
những ảnh hưởng to lớn có tính định hướng hành động cứu nước của cả một hệ
trí thức cuối thế kỷ XIX ngay trên quê hương Nghệ - Tĩnh với các nhà tư tưởng
lớn như cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cùng các bạn đồng tâm, đồng chí
như Đặng Thái Thân, Đặng Nguyên Cẩn… Tất cả đã giúp cho cậu học sinh
Nguyễn Sinh Cung từ rất sớm đã gắn với học vấn, với trí thức, có điều kiện nhận

12


thức đúng đắn về tư cách và đạo đức cũng như vai trị của người trí thức chân
chính đối với dân, với nước.
Sau này, khi vào Huế (1906) học các trường Pháp - Việt do thực dân Pháp
mở với mục đích đào tạo một đội ngũ cơng chức, nhân viên hợp tác trung thành
với chúng trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân ta, Người lại có thêm cơ hội để
kiểm nghiệm giá trị của người trí thức nói chung và người trí thức dân tộc nói
riêng. Trái với âm mưu đen tối của thực dân phong kiến và tay sai, ngay trong
các nhà trường này, khơng hiếm gì những thầy giáo tuy hồn cảnh bó buộc phải
làm việc cho kẻ thù cướp nước mà vẫn giữ tư cách, phẩm chất người trí thức
chân chính gắn bó với dân, với nước qua cơng việc hàng ngày của mình. Dưới
sự kiểm soát ngặt nghèo của kẻ thù và bè lũ tay sai, các thầy vẫn âm thầm tìm
cách hâm nóng tinh thần yêu nước thương nòi, lòng căm giận bè lũ cướp nước
và bán nước, nuôi dưỡng trong tâm hồn đám học sinh non trẻ của mình ý thức
trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước, số phận nhân dân. Gương sáng của thầy

giáo Lê Văn Miến, một trí thức tây học ở Pháp về dạy ở trường Quốc học Huế,
đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các học sinh, trong đó có Nguyễn Tất Thành.
Người càng thêm củng cố nhận thức về chức năng, vai trị của người trí thức
chân chính gắn bó mật thiết với nhân dân, với đồng bào, hết lòng phấn đấu cho
hạnh phúc của nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Để rồi trên đường
vào Nam (1910), khi dừng chân một thời gian ở Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành
đã bước đầu thực nghiệm đảm nhiệm vài trị của một trí thức dân tộc khi dạy
học tại trường Dục Thanh (Phan Thiết).
Năm 1911, bắt đầu xuất dương bơn ba tìm đường cứu nước, Người đã có
dịp làm quen, kết bạn và cùng hoạt động với rất nhiều trí thức tiến bộ khắp năm
châu bốn biển, ngay cả tại nước Pháp thực dân. Người đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin và Người đã nhận biết được rằng, các nhà kinh điển Mácxít cũng đã
dành rất nhiều thời gian và trí tuệ để nghiên cứu, chỉ rõ vai trị quan trọng của trí
thức đối với phát triển xã hội nói chung và đối với sự nghiệp cách mạng nói
riêng.
13


Người đã học tập, thấm nhuần những quan điểm khoa học cơ bản của các
nhà Mácxít khi nghiên cứu về đội ngũ trí thức như: “Tơi dịch người trí thức,
tầng lớp trí thức theo nghĩa Đức là Literatliteratentun, bao gồm khơng chỉ các
nhà văn hố học mà tất cả những người có văn hố, những người làm nghề tự do
nói chung, những người đại biểu trí óc, để phân biệt với những đại biểu lao động
chân tay”(V.I.Lênin)[15; 309], trí thức “…bao hàm không chỉ những nhà trước
tác mà thôi, mà cịn bao hàm mọi người có học thức, các đại biểu của những
nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc”(V.I.Lênin)[15; 372],
“Người trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực
theo lối này hay lối khác, mà bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính
là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá
nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất của cá nhân họ, cho nên mới có thể

đóng được một vai trị nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn tự do
biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết
quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng tồn thể đó một
cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa
nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng chứ không phải đối với những nhân
vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào hàng ngũ những nhân vật được
lựa chọn”[15; 373].
Bên cạnh đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, đội ngũ trí thức là “tầng lớp xã
hội đặc biệt, là một bộ phận tiêu biểu nhất trong lực lượng lao động trí óc. Họ là
những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, chủ yếu về mặt lý thuyết và
tinh thần. Nhưng những giá trị lý thuyết và tinh thần đó lại càng được ứng dụng
vào sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, quy định năng suất, chất lượng
hiệu quả của tốc độ sản xuất kinh tế đời sống xã hội, xã hội càng hiện đại, đặc
biệt là xây dựng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, vai trị của trí thức
ngày càng quan trọng. Và trên thực tế, trí thức ngày càng gắn bó với nền sản
xuất hiện đại, với giai cấp công nhân”[29; 166].

14


Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh hoa văn hoá dân tộc và thời đại, Hồ
Chí Minh đưa ra định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ
có hai thứ hiểu biết: Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên
do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã
hội do đó mà ra. Ngồi hai cách đó, khơng có tri thức nào khác. Một người học
xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song, y khơng biết cày ruộng, không biết
làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại:
Cơng việc thực tế, y khơng biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Tri thức
của y là tri thức học sách, chưa phải là trí thức hồn tồn. Y muốn thành một
người trí thức hồn tồn, thì phải biết đem tri thức đó áp dụng vào thực tế”[24; 235].

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa tồn diện và sâu sắc
về trí thức. Trong định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí thức được phản ánh
mang tính chất tồn diện nhất, đảm bảo tính khoa học, tính tiên tiến của thời đại.
Về lý luận, trí thức phải có hiểu biết (có tri thức). Hai lĩnh vực về hiểu biết mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra mang tính chất tồn diện: từ khoa học tự nhiên đến
khoa học xã hội; về thực tiễn, trí thức chỉ thực sự là trí thức khi vận dụng được
những tri thức mình có vào thực tiễn đấu tranh cho phát triển khoa học - kỹ
thuật, đấu tranh cho dân tộc và cho tiến bộ, phát triển xã hội, tức là cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người.

1.1.2. Vai trị và vị trí của trí thức theo quan điểm của Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Vai trị và vị trí của trí thức trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trị của trí thức
rất lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội loài
người và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, đã đánh giá cao vai trị, vị trí của đội ngũ trí thức đối với phong trào
cách mạng. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp cơng
nhân chỉ có thể hồn thành sứ mạng lịch sử tồn thế giới của mình khi liên minh
15


với các giai cấp và tầng lớp lao động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân,
đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.
Cũng như những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận biết rõ tầm quan trọng của nhận thức, học vấn, sự hiểu biết của con người
nói chung và của trí thức nói riêng đối với tiến trình phát triển của xã hội, đặc
biệt với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội và giải phóng con người.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Trí thức Việt Nam là tầng
lớp có học thức, kiến thức, hiểu biết, có tinh thần yêu nước nồng nàn và có ý
thức dân tộc cao, trí thức Việt Nam là một bộ phận trong lực lượng cách
mạng”[27; 216]. Theo Người: “Trí thức Việt Nam trước đây tuy được đào tạo
dưới chế độ cũ và tuy xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, nhưng trí thức
nói chung đều bị đế quốc và phong kiến áp bức. Vì vậy, trí thức Việt Nam có óc
dân tộc và đầu óc cách mạng. Vì có đầu óc dân tộc và vì có học thức nên xem
được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách
mạng Pháp nên dễ hấp thu tinh thần cách mạng… Cũng vì vậy, lúc đã hiểu biết,
trí thức ta dễ theo cách mạng, và vì vậy, Đảng cách mạng phải dìu dắt giúp đỡ
trí thức của ta dựa vào phe cách mạng, phe công nông”[26; 34].
Hơn nữa, ở vào giai đoạn lịch sử cụ thể của những thập niên đầu thế kỷ
XX, trí thức yêu nước Việt Nam cũng như trí thức tiến bộ trong các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa đã vươn lên trở thành những chiến sỹ tiên phong trong
phong trào cách mạng. Chính Quốc tế Cộng sản cũng đã nhận định, ở các nước
thuộc địa, tầng lớp trí thức hạng nhỏ và hạng trung thường là một bộ phận đảm
nhận sứ mệnh lịch sử là tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin.
Do đó mà Nguyễn Ái Quốc ln quan tâm, nâng đỡ, đào tạo và tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho trí thức tham gia hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng
chung của toàn dân tộc. Đánh giá đúng và tin tưởng vào tầng lớp trí thức Việt
Nam, ngày 11/11/1924, với danh nghĩa là phái viên của Quốc tế Cộng sản,
Người từ nước Nga đến Quảng Châu (Trung Quốc) để thực hiện mục đích đào
16


tạo lớp cán bộ trí thức và cán bộ cơng nơng cho cách mạng Việt Nam; chuẩn bị
về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách mạng chân chính
ở Việt Nam. Đầu năm 1925, Người mở lớp huấn luyện chính trị. Phần lớn học
viên là những người Việt Nam yêu nước, xuất thân từ học sinh trí thức, một số
người là tú tài nho học. Trong chương trình học, Người đã đề cập tới phong trào

cách mạng thế giới; phong trào cách mạng Việt Nam; phương pháp vận động
cách mạng. Trong phương pháp vận động cách mạng, Người nêu phương pháp
vận động nông dân, cơng nhân, trí thức. Đối với trí thức, Người nhấn mạnh đến
vai trị, đặc điểm, tâm lý của trí thức Việt Nam và cách sử dụng trí thức. Với kết
quả hơn 200 học viên được đào tạo, đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách
mạng nước ta lúc đó với tên tuổi của các nhà trí thức - cách mạng như: Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Phạm Văn Đồng…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dựa trên thực tiễn xã hội Việt Nam, một đất
nước, một xã hội mà trong đó chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của
dân tộc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và được
đánh dấu bằng nhiều sự kiện lịch sử oai hùng, điều đó đã khẳng định về tinh
thần, lịng tự hào, truyền thống dân tộc của trí thức Việt Nam; Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm chỉ ra rằng: “Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, mà giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội ở Việt Nam chính
là giải phóng nơng dân vì nơng dân nước ta chiếm khảng 95% dân số”. Bởi vậy,
Bác nói: “Cơng nơng là gốc của cách mạng,… Nhưng cách mạng cũng cần có
lực lượng trí thức…, trong sự nghiệp cách mạng lao động trí óc có một vai trò
quan trọng và vẻ vang”[19; 78].
Chứng minh vai trị của trí thức trọng thực tiễn cách mạng, Người nói:
“Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt
Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì tham gia vào cơng việc kháng
chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội, nhân dân. Một số thì
hăng hái giúp đỡ ở ngồi”[24; 156], “… Chúng ta có quyền tự hào rằng, những
người lao động trí óc ở Việt Nam đứng trong hàng ngũ kháng chiến”[24; 197].
17


Chính vì vậy, khi chủ trì việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa ra Sách
lược vắn tắt của Đảng, Người nhấn mạnh nhiệm vụ của Đảng là: “Phải hết sức
liên lạc với tiểu tư sản trí thức…để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp”; Chương

trình tóm tắt của Đảng khẳng định: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản trí thức… về phía
giai cấp vơ sản”[09; 32]. Đặc biệt, sau khi sáng lập Việt Nam độc lập đồng minh
hội (Việt Minh, 1941), trong 10 chính sách Việt Minh và trong Kính cáo đồng
bào, Nguyễn Ái Quốc đã đưa các “Hiền nhân, chí sĩ” lên hàng đầu. Trong Thư
gửi đồng bào toàn quốc (10/1944), Người nhấn mạnh tới tầm quan trọng của đại
đồn kết dân tộc: “Phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết
và hoạt động nhất trí của tồn thể quốc dân ta”[22; 505]. Cơ cấu đó đã bao gồm
cả tầng lớp nhân sỹ trí thức. Vì: “Khơng có những trí thức tham gia cách mạng,
tham gia kháng chiến thì cơng việc cách mạng khó khăn thêm nhiều…”[24; 235].
Người đã lập nhiều tổ chức của trí thức như: Hội văn hố cứu quốc Việt Nam
(1944); Đảng dân chủ Việt Nam (1944)… để tập hợp, lơi kéo và hướng trí thức
vào phục vụ cách mạng.
Từ thế kỷ XI, trên Bia văn miếu Quốc tử giám đã ghi: “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia”, và dĩ nhiên, ngun khí mạnh thì đất nước thịnh, ngun
khí yếu thì đất nước suy. Vai trị của trí thức dân tộc không những đã được lịch
sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước chứng minh và được Chủ tịch Hồ Chí
Minh vận dụng sáng tạo trong xây dựng và lơi kéo trí thức phục vụ cho cách
mạng nước nhà. Điều đó càng chứng minh cho lý luận, tầm nhìn xa tài trí của
Người. Trong thế kỷ XX, vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam đối với cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân không chỉ được khẳng định bởi thắng lợi của
cách mạng tháng Tám 1945, mà còn khẳng định hơn nữa trong thắng lợi cuối
cùng vào mùa Xuân năm 1975, đánh dấu một bức ngoặt lịch sử quan trọng trong
tiến trình phát triển đất nước.

1.1.2.2. Vai trị và vị trí của trí thức trong kháng chiến kiến
quốc và cách mạng xã hội chủ nghĩa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí thức khơng những có vai trò to lớn trong
kháng chiến, mà trong kiến thiết đất nước, trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, vai
18



trị của trí thức cần được chú trọng và phát huy thêm nhiều. Người viết: “Kháng
chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội càng cần, tiến lên chủ nghĩa
cộng sản lại càng cần”[23; 359].
Sau khi cách mạng tháng Tám (1945) thành công, trong lời kêu gọi
“Nhân tài và kiến quốc” và “Chỉ thị tìm người tài đức”, Người viết: “Sau 80
năm bị thực dân Pháp giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có
lịng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta
phải đem hết lịng hăng hái đó vào con đường kiến quốc. Kháng chiến phải đi
đơi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành cơng, Kiến
quốc có chắc chắn thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có
nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa
chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển, càng thêm
nhiều…
Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc
phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí. Bây giờ xây dựng kinh
tế, khơng có cán bộ khơng làm được. Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì
cũng khơng nói gì đến kinh tế - văn hóa”[23; 36]. Vì: “… để hoàn thành nhiệm
vụ kháng chiến, ngoài việc quân sự, ắt phải phát triển kinh tế, cho nên cần
những người chuyên môn thông thạo về công nghệ và nông nghiệp. Cần phát
triển giao thơng vận tải nên cần có những kỹ sư thông thạo việc đắp đường, bắc
cầu. Cần giữ gìn sức khoẻ của nhân dân, cho nên cần thầy thuốc. Cần đào tạo
cán bộ cho mọi ngành, cho nên cần thầy giáo… Do đó, lao động trí óc (trí thức)
có nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong cơng
cuộc hồn thành dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vậy chúng tôi mong rằng đồng bào ta, ai có tài năng và sáng kiến về
những cơng việc đó, lại sẵn lịng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch
rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tơi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng,
có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”[23; 57].
Mở đầu bản Chỉ thị tìm người tài đức, Bác Hồ khẳng định vai trò to lớn

19


của nhân tài: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài.
Trong số 20 triệu đồng bào chắc khơng thiếu người có tài đức”. Và với tư cách
“Chủ tịch Chính phủ Việt Nam” lúc bấy giờ, Bác tự nhận khuyết điểm đã không
thấy hết được các bậc hiền tài, khiến cho họ không thể xuất thân: “E vì Chính
phủ nghe khơng đến, thấy khơng khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất
thân. Khuyết điểm đó tơi xin thừa nhận”[23; 67]. Tiếp đó, Bác giao nhiệm vụ
cho các địa phương phải nhanh chóng tìm những người tài đức và báo cáo ngay
cho Chính phủ: “Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng,
các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được
những điều ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”[23; 192].
Người ln nhắc nhở Đảng và Chính phủ khơng những phải liên kết chặt
chẽ với trí thức, lơi kéo trí thức tạo nền tảng vững mạnh cơng - nơng - trí mà cịn
phải tơn trọng, trọng dụng, khuyến khích trí thức, tạo mọi điều kiện để trí thức
tham gia vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.
Vững vàng quan điểm và lập trường của mình, sau khi cách mạng tháng
Tám (1945) thành công, Người đã tạo mọi điều kiện và thu hút đông đảo tầng
lớp nhân sỹ, trí thức theo cách mạng, hồ mình với nhân dân đấu tranh vì sự
nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Nhiều chính sách lớn đã được kịp thời ban
bố nhằm mục đích tập hợp rộng rãi hơn và sử dụng ở mức cao nhất năng lực của
tầng lớp các nhân sỹ, trí thức, bao gồm các giới văn nghệ sỹ, các nhà hoạt động
khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến
thiết cần phải có nhân tài. Chính sách của Chính phủ trước sau vẫn là đại đoàn
kết. Đối với các vị quan lại cũ, cũng như đối với tất cả các giới đồng bào, những
người có tài, có đức thì Chính phủ đều hoan nghênh ra gánh vác việc nước”[23; 451].
Người nói: “Đảng cách mạng lại càng trọng trí thức, cách mạng rất cần trí thức
và chính ra chỉ cách mạng mới biết trọng trí thức”[24; 32]. Nhưng trọng trí thức
như thế nào? Không phải tất cả đều trọng, Người nhấn mạnh: “Trí thức đáng

trọng là trí thức hết lịng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”[26; 32]. Người
đưa ra ví dụ rất rõ ràng: “Lần đầu tiên ta có cuộc bầu các anh hùng, chiến sĩ lao
20



×