Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới (1986-2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.84 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới (1986-2016)
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu vấn đề

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên
mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để
“xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, rất nhiều nhiệm vụ, phương hướng được Đảng đặt ra trên
nhiều lĩnh vực qua hai kì Đại hội IV và Đại hội V. Qua 10 năm đổi mới (19751986), đất nước ta thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt
Nhà nước; đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta những nhân tố mới
để tiếp tục tiến lên. Tuy nhiên, trên chặng đường dài đó, Đảng ta không tránh
khỏi những sai lầm, khuyết điểm, nổi bật nhất là khơng hồn thành các mục tiêu
do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế-xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế ln
trong tình trạng thiếu hụt, khơng có tích luỹ; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất
nước bị bao vậy, cơ lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với


Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng. Đổi mới đã trở thành địi hỏi
bức thiết của tình hình đất nước ta lúc bấy giờ.
Trải qua hơn ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy cũng còn nhiều vấn
đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế yếu kém cần phải tập trung giải quyết nhưng
đổi mới đã mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là q trình cải biến sâu sắc,
tồn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng, toàn dân vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Vì vậy, nghiên cứu


đề tài “Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới (1986-2016)” sẽ giúp em
hiểu được quá trình nhận thức của Đảng về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó củng cố niềm tin và lòng tự hào vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đi sâu nghiên cứu những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo trải qua 30 năm (1986-2016) bằng cách làm rõ bối
cảnh lịch sử và quá trình phát triển đường lối đổi mới của Đảng qua 30 năm, từ
đó đánh giá một cách khách quan những thành tựu và hạn chế của công cuộc
đổi mới, rút ra những bài học thiết thực và tiếp tục bổ sung, phát triển, đồng bộ
công cuộc đổi mới theo định hướng chủ nghĩa xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài này tập trung nghiên cứu thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới
của Việt Nam từ năm 1986 tới 2016.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

Qua đề tài giúp ta thấy rõ được sự lãnh đạo của Đảng trong lãnh đạo đưa cả
nước quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội qua 30 năm đổi mới, từ đó với vai trị là
học sinh, sinh viên nói riêng và là một cá nhân thuộc một cộng đồng nói chung,


cần phát huy tính năng động, sáng tạo, vận dụng những tri thức về sự lãnh đạo
của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.

NỘI DUNG
Chương 1: Bối cảnh lịch sử và quá trình phát triển đường lối đổi mới của
Đảng qua 30 năm
1.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến quá trình phát triển đường


lối mới của Đảng
Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra những biến đổi to
lớn, sâu sắc. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Các nước tư bản chủ nghĩa, do điều chỉnh, thích ứng và sử dụng những
thành quả của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại nên đã vượt qua
những khó khăn, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể. Để thốt khỏi tình trạng
khủng hoảng, cải tổ, cải cách và đổi mới đã trở thành xu thế khách quan ở nhiều
nước xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh
thuận lợi và những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước,
chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Tư tưởng chủ quan, say
sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời
gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình


kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình
kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao
vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc gây ra… Để
đưa nước ta thốt khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới
mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Cuối những năm 70, ở một số địa phương
bước đầu có những tìm tịi, thử nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp
cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước đầu đạt được
trong q trình tìm tịi, thử nghiệm đó, Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy sự cần
thiết đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây dựng chủ
nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn.
Đại hội VI (1986) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa
quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán
bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới

chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội VI khẳng định: Đối với
nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý
nghĩa sống cịn. Đại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay
chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn
trong tồn bộ hoạt động của mình: (1) Đảng phải quán triệt tư tưởng dân là gốc,
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; (2) Đảng phải luôn xuất phát
từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; (3) Phải biết kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; (4) Phải xây
dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm đầu đổi mới (1986-1996), trong điều kiện bị bao vây, cấm vận, đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ


của chặng đầu thời kỳ quá độ, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố. Trong 10 năm tiếp theo (1996-2006), về cơ bản, tình hình đất nước ổn
định; các khó khăn, thách thức dần được khắc phục; sản xuất phát triển, tốc độ tăng
trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; vai trò,
vị thế quốc tế của đất nước được nâng lên. Thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất
nước đã tăng lên.
Trong 10 năm gần đây, đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đạt tốc độ tăng trưởng khá,
chính trị - xã hội ổn định, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều khó
khăn và thách thức lớn, đặc biệt là những ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng
tài chính, suy thối kinh tế tồn cầu và những thách thức bất ổn vĩ mô, suy giảm đà
tăng trưởng kinh tế trong nước. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
âm mưu và hoạt động “diễn biến hồ bình”, chống phá hịng làm thay đổi chế độ
chính trị của nước ta. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông
diễn biến ngày càng phức tạp.
Tình hình thế giới và trong nước nêu trên tạo ra cả cơ hội, thuận lợi và thách

thức, khó khăn đan xen nhau; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn hơn,
phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn.
1.2 Quá trình phát triển đường lối của Đảng qua 30 năm

Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm cơ sở
khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước để đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, chủ động hội nhập quốc
tế, phát triển nhanh, bền vững đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, góp phần bổ sung và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


*Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
Từ Cương lĩnh năm 1991 đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011,
Đảng ta đã bổ sung, phát triển nhận thức về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa,
về phương hướng cơ bản, về tám mối quán hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt.
Trong từng đặc trưng và phương hướng đều bổ sung, làm sâu sắc hơn nhận thức
của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đưa
mục tiêu “dân chủ” lên trước “công bằng” và “văn minh”, đặc trưng “do nhân dân
làm chủ” thay cho “do nhân dân lao động làm chủ”;…
*Về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong Cương lĩnh năm 1991 và Văn kiện Đại hội VII, Đảng ta xác định phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội IX, Đảng ta
khẳng định, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ
hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ q độ với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Đại hội

X đã cụ thể hoá thêm một bước về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Nghị quyết Trung ương sáu khố X đã làm sáng tỏ hơn mơ hình,
bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
XI làm sâu sắc thêm vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đưa ra quan niệm: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
*Về các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình
tăng trưởng
Đến Đại hội XI, tư duy phát triển của Đảng ta đã có bước đổi mới: từ phát
triển nhanh sang phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững; từ mơ hình tăng


trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng với chiều
sâu; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng; thực hiện ba đột
phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.
*Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ
nghĩa
Tại Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII, Đảng ta xác định
xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đến Đại
hội X, Đảng ta khẳng định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại hội XI, vấn đề này
đã được hoàn thiện hơn trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và được
chế định trong Hiến pháp năm 2013. Cụ thể là: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp
và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Hiến pháp năm

2013 khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công
dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh.
*Về văn hố, xã hội, con người
Từ Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII đến Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011, các nghị quyết Trung ương sáu, tám, chín, khố XI và Hiến pháp
năm 2013 đã xác định rõ về vai trị của văn hố: Văn hố là nền tảng tinh thần của


xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát
triển bền vững. Nhấn mạnh các đặc trưng tiêu biểu của nền văn hoá Việt Nam: dân
tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học.
Đảng ta xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển, xây dựng
con người Việt Nam phát triển có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Đảng ta đã nhận thức ngày càng bao quát, đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục
tiêu và nội dung của giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội. Khẳng định mục tiêu chính sách xã hội là nhằm xây dựng và phát triển
con người. Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và tưng chính sách phát triển; về vai trị
của chính sách xã hội; về sự thống nhất và kết hợp hài hồ giữa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội.
*Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Đảng ta khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau, khơng thể xem nhẹ
nhiệm vụ nào. Phải gắn kết kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh
với đối ngoại; đề cao lợi ích quốc gia – dân tộc.

Đại hội XI đã bổ sung nhiệm vụ “giữ vững chủ quyền biển đảo”, “ứng phó
với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống” và nhấn mạnh vấn đề an ninh chủ
động.
Nghị quyết Trung ương tám khoá XI đã xác định: Xây dựng “thế trận lòng
dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân. Thực hện giữ nước từ khi nước chưa nguy; có kế sách ngăn thừa, loại bỏ các
nguy cơ chiến tranh, xung đột từ xa, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt
tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra các đột biến.


Tại Đại hội X, Đảng ta xác định chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Đến Đại hội XI, Đảng
ta xác định chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tham gia các cơ chế hợp tác
chính trị, an ninh song phương, đa phương…
*Về Đảng và xây dựng Đảng; về đổi mới hệ thống chính trị
Trong 10 năm gần đây, Đảng ta đã có những nhận thức về bản chất của
Đảng; về đảng viên làm kinh tế tư nhân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng;
phịng, chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; về Đảng lãnh đạo Nhà nước; về đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; nhấn mạnh tầm quan
trọng của công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; đổi mới đồng bộ, phù hợp
về kinh tế và chính trị.
Qua 30 năm đổi mới, với sáu nhiệm kỳ đại hội, hai lần ban hành Cương lĩnh
và hai bản Hiến pháp mới, nhận thức lý luận của Đảng ta về công cuộc đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta đã có những
bước tiến lớn; đã vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với thực tế nước ta. Thực tiễn đã khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng qua 30 năm là đúng đắn, sáng tạo; đường lối đổi mới từng bước
được bổ sung, phát triển và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước tiến trong nhận thức lý luận, trong đường lối,
chính sách phát triển đất nước, làm cơ sở cho những thành tựu trong thực tiễn; nếu
không đổi mới thì đất nước khơng thể có thành tựu như ngày hơm nay. Đường lối
đổi mới hình thành và phát triển là một q trình tìm tịi, thử nghiệm, đấu tranh
giữa cái mới với cái cũ, kết hợp tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận; khắc
phục từng bước những yếu kiếm, khuyết điểm, tư tưởng giáo điều, bảo thủ hoặc
cực đoan, duy ý chí để đi đến cái đúng, đến chân lý.


Tình hình thế giới và trong nước thường xuyên biến đổi, công cuộc đổi mới
đi vào chiều sâu, nảy sinh nhiều vấn đề mới, bộc lộ mâu thuẫn mới, những thời cơ
và khó khăn, thách thức mới, địi hỏi Đảng ta phải khơng ngừng nâng cao bản lĩnh,
trí tuệ, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, thường xuyên bổ sung,
phát triển đường lối, tạo ra động lực mới để đưa công cuộc đổi mới đạt những
thành tựu to lớn hơn.
Chương 2: Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới (1986-2016)
30 năm đổi mới là một chặng đường lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát
triển của đất nước và dân tộc Việt Nam. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách
mạng, là q trình cải biến sâu sắc, toàn diện, là sự nghiệp cách mạng to lớn của
nhân dân Việt Nam vì “một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh” (Hồ Chí Minh), góp phần vào mục tiêu hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội của thời đại. Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam là luôn lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết
cho sự nghiệp đổi mới, phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo sự ổn định mới
vững chắc hơn.
2.1 Thành tựu

*Về kinh tế
Nổi bật nhất là kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên;
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được

duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao
trên thế giới. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và chế độ phân phối đã phát
triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và phù hợp
với điều kiện của đất nước. Các chủ thể kinh tế tự do kinh doanh và cạnh tranh
theo quy định của pháp luật, ngày càng phát huy vai trị tích cực trong nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới
được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về


số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp
ngày càng lớn vào GDP. Cụ thể, kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP,
90% số việc làm và 39% tổng đầu tư tồn xã hội. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
được khuyến khích phát triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã có
những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
giải quyết việc làm và xuất khẩu. Trong năm 2013, các doanh nghiệp FDI đóng
góp 18% GDP, 23% vốn đầu tư phát triển, 66,9% kim ngạch xuất khẩu và 56,71%
kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang
phát triển có thu nhập trung bình. Mơi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hoá
được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006-2010 tăng trưởng bình quân
5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm 2001-2010 tăng trưởng 7,26%/năm, đạt mục tiêu
chiến lược đã đề ra; GDP 5 năm 2011-2015 bình quân 5,9%; năm 2018 đạt 6,7%.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh so với các
nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình trên thế giới.
Năm 2010, GDP đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ
USD). Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đã đạt 1.047 USD,
năm 2010 đạt 1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xấp hạng 100/177 quốc gia

và lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của thế giớii. Thu nhập bình quân đầu
người năm 2018 đạt hơn 2.500 USD.
Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung và các yếu tố bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Đảng đã ban hành và lãnh đạo
tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết, chủ trương về kinh tế; kịp thời điều chỉnh
những chủ trương, giải pháp phù hợp với sự thay đổi của tình hình, đổi mới mơ


hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh… Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và
hiệu quả hơn. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây
dựng tăng lên đáng kể, nhất là đường bộ, sân bay, bến cảng, cầu. Các yếu tố thị
trường và các loại thị trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên
thơng, gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị
trường thế giới.
*Về văn hoá-xã hội
Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị về
văn hóa nói chung, về giáo dục, đào tạo; khoa học, cơng nghệ, báo chí, xuất bản
văn học, nghệ thuật….nói riêng. Những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến mạnh
mẽ trong nhận thức của Đảng ta về xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Qua
thực tiễn từ cách mạng Việt Nam Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải gắn chặt chẽ với văn hóa, coi văn hóa
là cái đích cần đạt được bên cạnh những thành tựu về kinh tế; đồng thời đặt văn
hóa là yếu tố nền tảng, là động lực, là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển kinh tế xã hội. Sự lãnh, chỉ đạo, quản lý văn hóa có tiến bộ. Nhận thức về văn hóa của các
cấp, các ngành và tồn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày
càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy,
nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn
học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thơng tin, nhất là thơng
tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động

văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phong trào “Tồn dân đồn kết
xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nơng thơn mới” và các phong trào xóa
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa ….đã tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát
huy những giá trị nhân văn của dân tộc. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng


được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa các dân tộc đạt được những kết quả đáng trân trọng, nhiều
di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
thế giới hoặc được xếp hạng là di sản văn hóa quốc gia đã được giữ gìn, bảo tồn,
tôn tạo. Quyền tự do sáng tạo, truyền bá văn hóa, văn nghệ được tơn trọng; hoạt
động tín ngưỡng, tơn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan
tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng
bước được hồn thiện. Đội ngũ làm cơng tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng
thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác
quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc từng bước đi vào chiều sâu, chú trọng tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, bước đầu cố gắng giữ vai trị chủ động trong việc tiếp
nhận có chọn lọc, làm giàu văn hóa dân tộc trong q trình tiếp biến nhiều phức tạp
do hội nhập quốc tế tạo ra.
Việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Các
chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày
càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mỗi năm bình quân
tạo ra 1,5-1,6 triệu việc làm mới. Đã tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng
thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Chỉ số phát triển con
người tăng lên, từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước
tham gia xếp hạng. Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000.
Chênh lệch thu nhập giữa thành thị 10và nơng thơn giảm từ 2,3 lần năm 1999
xuống cịn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm 2008. Xây dựng nơng thơn mới có
nhiều tiến bộ. Đã hồn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề
ra cho năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5-2%/năm. Tỷ lệ

nghèo của cả nước năm 1993 là 58% đến năm 2018 còn khoảng 6%. Đến năm
2018, hơn 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo 19 tiêu chí Chính phủ đề ra.
Việt Nam đã đạt phổ cập trung học cơ sở. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam


đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế cơng nhận, đánh giá cao. Chăm sóc
sức khoẻ nhân dân đã có nhiều tiến bộ, coi trọng cả về xây dựng thể chế, y tế dự
phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ
sinh an tồn thực phẩm. Chính sách ưu đãi người có cơng đã được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Cả nước hiện có khoảng 8,8 triệu người có cơng chiếm
khoảng 10% dân số, có khoảng 1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện và đa dạng ngày càng
mở rộng và hiệu quả.
*Về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta có sự đổi
mới, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Nhận thức ngày càng rõ hơn bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan
hệ biện chứng, khơng thể tách rời; trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, phải đồng thời coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Có xây dựng tốt mới
tạo được sức mạnh cho bảo vệ Tổ quốc, có bảo vệ tốt mới tạo được điều kiện thuận
lợi cho xây dựng đất nước. Nhận thức về kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ kinh tế với
quốc phòng; quốc phòng với an ninh và đối ngoại ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn.
Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt,
phát triển văn hoá – nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng được nhận thức đầy
đủ, toàn diện hơn: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những là bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn là bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo

vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính


trị và mơi trường hồ bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Việc kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kinh tế với quốc
phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng khu vực kinh tế - quốc phịng có chuyển biến
quan trọng; nhất là kết quả về hoàn thành phân giới, cắm mốc đường biên giới trên
bộ, phân định ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; từng bước hoàn thiện việc phân
giới, cắm mốc đường biên giới trên bộ với Lào, Campuchia. Những kết quả nói
trên góp phần nâng cao thế và lực của đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp
bảo vệ Tổ quốc.
Nền quốc phịng tồn dân có bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu,
ngày càng vững chắc; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh được
tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; sức mạnh tổng
hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước. Lực lượng quốc phòng được quan
tâm xây dựng, sức mạnh chiến đấu được nâng lên.
Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình”, hoạt động
phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đối phó có hiệu quả đối
với mối đe doạ an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng tội phạm. Đã có
những nỗ lực để ngăn chặn tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hố” trong nội bộ.
Đấu tranh phịng, chống âm mưu “phi chính trị hố” lực lượng vũ trang, đòi đa
nguyê, đa đảng của các thế lực thù địch đạt được những kết quả quan trọng. Cơ bản
nắm được tình hình, đánh giá, dự báo được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, phối hợp các lực lượng, xử lý kịp thời, tương đối hiệu quả các tình huống trên
khơng, trên biển, biên giới, nội địa, khơng để xảy ra biến động chính trị, khủng bố,
bạo loạn lật đổ, ly khai; cơ bản bảo vệ được an ninh kinh tế; đã nỗ lực giải quyết
các vấn đề biên giới, biển, đảo, không để xảy ra đối đầu, xung đột vũ trang.
*Đường lối và chính sách đối ngoại; hội nhập quốc tế



Nhận thức chung của Đảng ta về thời đại, về thế giới và khu vực ngày càng
rõ và đầy đủ hơn. Từ định hướng coi “đoàn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ
ln ln là hịn đá tảng của chính sách đối ngoại” từng bước chuyển sang đa dạng
hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn
sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, là “thành viên có trách nhiệm” của cộng
đồng quốc tế. Đổi mới nhận thúc về hợp tác và đấu tranh, từ quan niệm về địch, ta,
chuyển sang cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tác và đối tượng trên cơ sở
lợi ích quốc gia-dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhận thức thực tế hơn quan
hệ với các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thông và quan hệ với các nước
láng giềng, khu vực, các nước lớn; đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Từ “phá
thế bị bao vây, cấm vận” tiến đến “hội nhập vào nên kinh tế khu vực và thế giới”,
và tiếp theo là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách tồn diện. Đến
năm 2018, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng số 193 nước
thành viên Liên hợp quốc. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước,
quan hệ đối tác tồn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống
chính trị khu vực và thế giới, phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng AEAN.
Việt Nam là Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2008-2009. Năm 1996, Việt Nam tham gia Diễn đàn kinh tế Á-Âu (ASEM). Ngày
14-11-1998, Việt Nam gia nhập tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
(APEC). Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APRC năm 2006 và năm
2007. Cùng với việc tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại và ngoại
giao nhân dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn
đàn đa phương. Quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục
được củng cố và có những bước phát triển, ngày càng mở rộng và đi sâu vào chiều
sâu. Quan hệ Việt Nam – Campuchia được củng cố và tăng cường về nhiều mặt.
Quan hệ với Trung Quốc có những bước tiến triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế,



thương mại. Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đơng có nhiều diễn biến phức tạp,
có lúc rất căng thẳng, chúng ta đã xử lý thoả đáng các vấn đề nảy sinh, kiên trì bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước;
đồng thời kiên trì giữ vững mơi trường hồ bình và ổn định, kiên trì chủ trương
giải quyết những bất đồng bằng biện pháp hồ bình trên cơ sở luật pháp quốc tế,
trong đó có Cơng ước Liên hợp quốc tế Luật Biển 1982.
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần tăng cường nguồn lực cho phát
triển đất nước. Xúc tiến mạnh thương mại và quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác
hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – cơng nghệ,
trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thoả thuận đã được ký kết, đặc
biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Việc thúc đẩy và
nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế đã góp phần thiết thực cho
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hôi, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
*Phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức về xây dựng và phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ. Đảng ta đã nhận
thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của xây dựng và phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục
tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nhận thức rõ hơn dân chủ trong Đảng
có ý nghĩa quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cả
hệ thống chính trị, gắn với dân chủ hố tồn bộ đời sống xã hội; có dân chủ mới có
đồng thuận xã hội, có đồng thuận xã hội mới tạo ra sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Đảng ta nhận thức rõ hơn bản chất của hệ thống chính trị. Cơ chế vận hành
của hệ thống chính trị ở nước ta là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”, chú trọng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức


chính trị - xã hội trong sự nghiệp đại đồn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh, tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước; thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội.
Đảng đã xác định rõ hơn, đầy đủ bản chất của Đảng. Quy định rõ hơn vai
trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng. Đã xác định ngày càng rõ hơn, đầy đủ
hơn nền tảng tư tưởng của Đảng. Tại Đại hội VII, Đảng khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Qua các Đại hội, Đảng nhận thức rõ hơn khái niệm, nguồn gốc,
nội dung, vị trí, vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh; nhận thức rõ về vị trí, nội dung,
nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống cịn trong
tồn bộ sự nghiệp cách mạng; Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và
chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liệu và sự thoái hoá,
biến chất của cán bộ, đảng viên. Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng được
nhận thức rõ hơn qua các nhiệm kỳ đại hội. Xác định dân chủ trong Đảng là điều
kiện, tiền đề để phát huy dân chủ trong xã hội, từ đó, đã xác định cần thật sự phát
huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ cơ sở đến
sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; đồng thời giữ
nghiêm kỷ luật đảng.
Thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và
cụ thể hoá. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế có bước tiến rõ rệt, quyền tự do – tự chủ
sản xuất kinh doanh được mở rộng; từng bước dân chủ hố về chính trị và các lĩnh
vực khá. Ý thức dân chủ của công dân và của xã hội, trình độ và năng lực làm chủ
của nhân dân từng bước được nâng lên. Đã có nhiều chủ trương, biện pháp phát
huy vai trị tích cực, chủ động của nhân dân, đẩy mạnh q trình dân chủ hố xã


hội; việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm

chủ của nhân dân.
Hệ thống chính trị từng bước được đổi mới để phù hợp hơn với tình hình và
bối cảnh phát triển đất nước, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới,
đồng thời vẫn giữ được ổn định chính trị. Nội dung “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” từng bước được cụ thể hố, có những bước tiến theo
hướng phân định rõ hơn chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi
chủ thể, nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch, ý thức tuân thủ
pháp luật.
Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực, hiệu quả. Vai trò và hoạt
động của Chủ tịch nước được thể hiện rõ hơn. Chính phủ tiếp tục đổi mới và nâng
cao hơn năng lực hành pháp, tập trung nâng cao năng lực hoạch định chính sách,
quản lý vĩ mơ; tổ chức, bộ máy của Chính phủ và chính quyền địa phương có
những đổi mới và sắp xếp lại hợp lý hơn.
Hệ thống pháp luật được đổi mới, sửa đổi, bổ sung và xây dựng ngày càng
đầy đủ và phù hợp hơn, nhất là về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của các
cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ máy
nhà nước được triển khai và có những kết quả bước đầu. Nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước
từng bước được quy định rõ hơn và triển khai thực hiện trong thực tế.
2.2 Hạn chế
*Về kinh tế
Kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo
chiều sâu; thiếu bền vững. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh


và đồng bộ, chất lượng chưa cao, tiến độ ban hành còn chậm; việc tuyên truyền,
phổ biến, thực thi pháp luật và bảo đảm kỷ cương, pháp luật còn nhiều hạn chế.
Một số yếu tố thị trường phát triển chưa đồng bộ, quy mơ, cơ cấu và trình độ các

loại thị trường còn hạn chế, bất cập; kinh tế vĩ mơ ổn định chưa vững chắc; tính
độc lập, tự chủ của nền kinh tế chưa cao, còn lệ thuộc vào một vài thị trường bên
ngoài.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chất lượng nguồn
nhân lực, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, chậm được hoàn thiện; tham nhũng, lãng
phí cịn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
ngày càng bộ lộ rõ. Sự tham gia giám sát của các cơ quan dân cử, của các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội – nghề nghiệp của nhân dân trong nền kinh tế và trong
hoạt động quản lý nhà nước cịn hạn chế, bất cập.
*Về văn hố – xã hội
So với những thành tựu đạt được về chính trị, kinh tế, quốc phịng, an ninh,
đối ngoại, thành tựu phát triển văn hoá, xây dựng con người chưa tương xứng.
Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng văn hoá, con người đã được
Đảng ta chỉ rõ từ lâu, nhưng chậm được khắc phục, 10 năm gần đây, văn hố trên
một số mặt có chiều hướng xuống cấp.
Mơi trường văn hố bị ơ nhiễm và có những diễn biến phức tạp. Những tệ
nạn, tiêu cực trong hoạt động, quản lý văn hoá chậm được ngăn chặn, đẩy lùi đã
tác động xấu đến quá trình phát triển văn hoá, xây dựng đạo đức, nhân cách, lối
sống của con người và nếp sống của cộng đồng.
Đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; sự chênh
lệch về hạ tầng văn hoá, thiết chế văn hoá và khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa
miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và giữa tầng lớp nhân dân có xu hướng tăng
lên.


Chất lượng sáng tạo các giá trị văn hoá mới cịn nhiều hạn chế, ít các cơng
trình, tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, khoa học cao. Hoạt động văn học –
nghệ thuật, báo chí – truyền thơng, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ chưa
gắn bó thường xun, chặt chẽ, phục vụ tích cực yêu cầu phát triển văn hoá, xây
dựng con người. Xu hướng “thương mại hố”, “bệnh thành tích”, chạy theo số

lượng, hình thức, bề nổi,… chưa được khắc phục; vẫn cịn những hoạt động, những
sản phẩm chất lượng kém, “phi văn hố”, thậm chí “phản văn hố”.
Các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải
quyết có hiệu quả; cịn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên
một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được hưởng thụ đầy đủ,
công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
*Quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
Việc chỉ đạo và tổ chức kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc có lúc, có nơi chưa thật hiệu quả. Kết hợp giữa thế trận quốc phịng tồn
dân với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại; xây dựng khu vực kinh tế - quốc phòng trong thực tiễn cịn có lúc, có nơi
chưa thật hiệu quả, có mặt cịn hình thức. Kết hợp giữa phát triiển kinh tế - xã hội
với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa thật sự chặt
chẽ, hiệu quả chưa cao.
Nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân chưa được xây dựng toàn diện.
Thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” chưa
thật vững chắc. Còn tiềm ẩn các nhân tố có thể gây mất ổn định.
Chậm xây dựng đồng bộ hệ thống chiến lược thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược còn hạn chế, trên một
số mặt chưa đáp ứng địi hỏi của tình hình. Chỉ đạo điều hành có lúc, có nơi chưa


thật tập trung, kiên quyết, sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác bảo
vệ an ninh nội bộ, an ninh tư tưởng chưa chặt chẽ.
Việc quán triệt, triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của các cấp,
các ngành từ Trung ương đến cơ sở chưa thường xuyên. Đầu tư cho quốc phòng,
an ninh, xây dựng thế trận, khu vực phòng thủ, phát triển khoa học – công nghệ,
trang bị thiết bị cho quân đội… còn hạn chế. Hiệu quả xây dựng khu vực phòng
thủ ở một số địa phương chưa cao.

* Đường lối và chính sách đối ngoại; hội nhập quốc tế
Trong quan hệ quốc tế, vấn đề cốt lõi là lợi ích quốc gia – dân tộc, nhưng
một số cán bộ các cấp, các ngành vẫn bị chi phối bởi tư tưởng cục bộ, địa phương,
chưa nhận thức một cách đầy đủ và tồn diện các khía cạnh của lợi ích quốc gia –
dân tộc. Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và bảo đảm độc
lập, tự chủ, giữ vững chủ quyền quốc gia chưa thật thấu đáo. Vẫn cịn những ý kiến
trái ngược nhau, có ý kiến lo ngại về khả năng giữ độc lập, tự chủ trong quá trình
hộp nhập, thấy cái “mất” nhiều hơn cái “được”; hoặc chỉ thấy cái “được” mà ít cân
nhắc đầy đủ đến cái “mất”. Nơi này, nơi khác, nhận thức về đối tượng đối tác chưa
thật sâu sắc.
Chưa khai thác và phát huy hiệu quả quan hệ lợi ích đan xen, ổn định, bền
vững các nước lớn và các đối tác quan trọng; hội nhập quốc tế còn thụ động, hiệu
quả chưa cao. Việc xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng rất khó khăn vì liên quan
đến quan hệ quốc tế, lợi ích tổng thể quốc gia – dân tộc, cho nên trong một số
trường hợp cụ thể giải quyết chưa thật tốt. Chưa có giải pháp đồng bồ, hữu hiệu để
hạn chế tác động tiêu cực trong quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác và hội nhập
quốc tế trong các lĩnh vực thông tin, văn hố, tư tưởng, chính trị.
Có lúc cịn lúng túng và bị động trước những ý đồ và hành động của một số
nước lớn; nắm bắt và xử lý chưa kịp thời, hiệu quả trong quan hệ với một số nước
láng giền. Cơng tác thơng tin đối ngoại cịn hạn chế; dự báo và xử lý một số vấn


đề, diễn biến trên thế giới, trong khu vực và quan hệ với một số nước đối tác quan
trọng còn chậm, thiếu chủ động, thiếu thống nhất, hiệu quả hạn chế, bỏ lỡ một số
cơ hội.
*Phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Lý luận về bản chất của hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị, về
Đảng cầm quyền, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về dân chủ
và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,….còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ

thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra; chưa đạt được
nhiều kết quả có giá trị định hướng, mang tính đột phá trong quá trình đổi mới.
Thực hành dân chủ đi đơi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật cịn nhiều bất cập,
trên thực tế đang tồn tại tình trạng “vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ cương”. Trong
xã hội cịn khơng ít biểu dân mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan; thực hiện pháp
luật, kỷ luật, kỷ cương khơng nghiêm, việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi mang
tính hình thức.
Đổi mới hệ thống chính trị có phần lúng túng, có mặt cịn chậm, chưa theo
kịp và đáp ứng tốt yêu cầu của những bước phát triển kinh tế - xã hội. Mơ hình tổ
chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị chậm được đổi mới. Cơ cấu tổ
chức, bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chồng chéo
nhau, ngày càng phình to, biên chế ngày càng tăng lên nhưng hiệu quả thấp; cịn
cứng nhắc về mơ hình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa đáp ứng đầy đủ
các nguyên tắc cơ bản: thượng tôn pháp luật, hoạt động thực sự dân chủ;chăm lo,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Cơng tác lập pháp cịn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật còn nhiều tầng
nấc, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao, tính cơng khai, minh bạch, tính khả thi, ổn


định còn hạn chế; nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, chưa phù hợp với thực tiễn.
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cịn có
những mặt hạn chế. Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội
còn chưa cao. Chế độ công vụ; chế độ thủ trưởng, quyền hạn và trách nhiệm của
người đứng đầu; trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước;… chậm được
hồn thiện.
2.2 Nguyên nhân

*Thành tựu và nguyên nhân

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hố – xã hội có bước phát
triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của
đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế
độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi
vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu chủ yếu nêu trên đã tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp
tục đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử.
Những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủng hộ,


tích cực thực hiện. Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với
Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những
chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế
giới và trong nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
đã nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức,
thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp
tác, giúp đỡ.

*Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu, chúng ta cịn nhiều hạn chế, khuyết điểm
Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một
số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ
sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cịn có
một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn
định, tốc độc tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả,
năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn
thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hố, xã hội và mơi trường. Nhiều
vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được
nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; cịn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ
mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa
được hưởng thụ đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.


×