THÀNH TỰU VÀ KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
TỪ 1996 ĐẾN 2005
2.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
2.1.1. Những thành tựu đạt được
Trong 10 năm (1996-2005), dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng và phát
triển thành phần kinh tế nhà nước đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Một là, chuyển đổi thành công cơ chế quản lý kinh tế, đưa Luật Doanh
nghiệp vào thực tiễn, đã phát huy được hiệu quả, tạo nên khung hành lang pháp lý
thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước tổ chức sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo theo những chủ trương chính sách cụ thể, phù hợp với từng thời kỳ.
Sự quản lý, lãnh đạo chặt chẽ của Nhà nước với cơ chế quản lý thông thoáng. Cơ
chế cũ đã trở nên lỗi thời, không những không phát huy được tiềm năng của nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất, mà còn kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Vì vậy, cơ chế quản lý mới đã thổi một "luồng gió" mạnh, thúc đẩy các thành phần
kinh tế nói chung, thành phần kinh tế nhà nước nói riêng phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ. Đặc biệt, đã chuyển đổi từ cơ chế nhiều cửa, nhiều dấu sang cơ chế một
cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc nắm bắt cơ hội đầu tư,
kinh doanh sản xuất.
Đánh giá về thành tựu của việc chuyển đổi thành công cơ chế quản lý kinh
tế, Đảng ta nhận định: Đất nước đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục giữ ở mức cao và ổn định. Các
thành phần kinh tế được tạo điều kiện để phát triển, làm ăn có hiệu quả. Đạt được
những thành tựu đó là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, sự quản lý thống nhất
theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ. Đó còn là do
tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã ban hành. Trong những năm tới,
cơ chế mới này sẽ tiếp tục phát huy tác dụng, đồng thời không ngừng được điều
chỉnh để phù hợp với sự phát triển năng động của nền kinh tế, thực sự là khung
hành lang pháp lý trong sạch lành mạnh, góp phần thúc đẩy thành phần kinh tế nhà
nước tiếp tục lớn mạnh.
Hai là, các doanh nghiệp nhà nước ngày càng phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ
đến toàn bộ nền kinh tế, tiếp tục nắm giữ các vị trí then chốt, bảo đảm định hướng
phát triển cho nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng
của nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế phát triển với tốc độ khá cao,
thì thành phần kinh tế nhà nước còn là yếu tố định hướng cho sự phát triển ổn định,
bền vững. Các doanh nghiệp công ích hoạt động có hiệu quả, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
Trước đây, trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận bởi sự bảo hộ hoàn toàn của Nhà
nước. Nhà nước cấp phát toàn bộ đầu vào cho doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp
hoạt động có lãi, Nhà nước được hưởng, nếu lỗ thì ngân sách của Nhà nước gánh
chịu. Rõ ràng điều này là không kích thích doanh nghiệp làm kinh tế vì động cơ lợi
nhuận, mà vì động cơ hoàn thành kế hoạch nhà nước, bất chấp chi phí sản xuất và
chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp không có động cơ phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, vì kết quả sản xuất kinh doanh không có ảnh hưởng đến thu nhập của
doanh nghiệp. Ngày nay, nhờ cơ chế quản lý kinh tế mới nên các doanh nghiệp nhà
nước đã được giao quyền tự chủ trong chi phí sản xuất, chịu trách nhiệm về hiệu
quả sản xuất kinh doanh trước Nhà nước. Do vậy, đã kích thích tính sáng tạo của
các doanh nghiệp. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển của các doanh nghiệp là năng
suất, chất lượng, hiệu quả. Định hướng và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát
triển, góp phần vào thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. Trong
những năm vừa qua, đặc biệt từ giai đoạn 1996 - 2005, thành phần kinh tế nhà
nước đã làm tốt điều này. Trong những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX và
những năm đầu thế kỷ XXI, do ảnh hưởng mạnh mẽ của cơn "bão táp" tiền tệ Châu
Á, nền kinh tế các nước trong khu vực liên tục suy giảm, có nước tốc độ tăng
trưởng âm. Việt Nam cũng chịu sự tác động đó, tuy vậy do sự quản lý chặt chẽ và
thống nhất của Nhà nước với những chính sách thích hợp, đặc biệt sử dụng thành
phần kinh tế nhà nước như một công cụ để ổn định nền kinh tế, chặn đà tuột dốc
của tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do đó, tốc độ tăng trưởng có giảm trong những năm
từ 1997 - 2001, nhưng vẫn giữ ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Ba là, thành phần kinh tế nhà nước đã đóng góp lớn vào GDP và ngân sách
quốc gia.
Thành phần kinh tế nhà nước đã đóng góp 65% tổng số thu của ngân sách
nhà nước và giữ vai trò quan trọng trong đẩy lùi lạm phát, ổn định tài chính, tiền tệ,
vật ngang giá trong những năm trước Đại hội lần thứ VIII của Đảng. Theo ước
tính, tổng giá trị vốn và tài sản của Nhà nước trong tất cả các doanh nghiệp nhà
nước là 72.200 tỷ đồng. Năm 1996 đạt lợi nhuận khoảng 14.000 tỷ đồng. Mỗi đồng
vốn tạo ra 4 đồng thu và 0,2 đồng lợi nhuận. Như vậy, hiệu quả hoạt động của kinh
tế nhà nước có thể ghi nhận được. Năm 1997 kinh tế nhà nước chiếm tới 85% tài
sản cố định trong công nghiệp của cả nước, trong đó 100% mỏ khoáng sản lớn;
83% diện tích cây công nghiệp; 93% lao động được đào tạo. Mặc dù so với trước
đó tỷ trọng GDP của các doanh nghiệp nhà nước có giảm vì quá trình sắp xếp và
tinh gọn, nhưng lại đóng góp từ 30 - 35% cho ngân sách nhà nước, trong khi khu
vực ngoài quốc doanh chiếm tới 56% GDP nhưng chỉ đóng góp 15% cho ngân
sách nhà nước. Năm 2005 ước tính đóng góp 39% GDP, chiếm 50% tổng ngân
sách nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là
bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Liên tục trong những năm
gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải
phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát triển nội lực vào phát triển kinh tế
- xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch
xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội
như: tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, mở rộng các công trình công cộng,phát triển
giao thông...
Theo báo cáo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê thì trong 5 năm trở lại
đây, từ 2001 - 2005, khu vực doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ số doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh có lãi cao hơn và số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị lỗ cũng
thấp hơn, tỷ lệ tổng mức lỗ so với tổng mức lãi cũng thấp hơn các khu vực khác (tỷ
lệ doanh nghiệp có lãi từ 78,8% năm 2000 lên 83% năm 2002. Doanh nghiệp lỗ từ
17,5% năm 2000 xuống còn 14,7% năm 2002, tỷ lệ tổng mức lỗ so với tổng mức
lãi 10,9%). Đây thực sự là dấu hiệu tích cực, khả quan cho doanh nghiệp nhà nước
trong những năm tiếp theo tiếp tục lớn mạnh. Mặc dù số doanh nghiệp 100% vốn
Nhà nước giảm từ 5.655 (năm 2000) xuống 4.492 (năm 2004), nhưng năng lực sản
xuất xét trên tổng thể vẫn tăng. Năm 2003 doanh thu của doanh nghiệp nhà nước
đạt 470.000 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2002 và 69% so với năm 2001, lợi
nhuận đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2002 và 32,2% so với năm 2001.
Bốn là, thành phần kinh tế nhà nước được sắp xếp lại và đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả.
Qua sắp xếp và đổi mới, số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả bị giảm đi
đáng kể, hoặc sáp nhập vào công ty khác thành Tổng công ty. Tổng kết 15 năm đổi
mới (1986 - 2000) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho thấy, năm 1990 có
12.084 doanh nghiệp, năm 2005 giảm xuống còn 2.980 doanh nghiệp với 100%
vốn nhà nước. Ngoài ra còn có 670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên
51% vốn điều lệ. Tổ chức lại khoảng 250 Liên hiệp xí nghiệp quốc doanh và công
ty để hình thành các Tổng công ty nhà nước theo các quyết định 90/TTg và Quyết
định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ (tính đến tháng 2/2000 cả nước có 17 tổng
công ty).
Theo ước tính, chỉ trong 3 năm, từ 2002 - 2005, cả nước đã thực hiện sắp
xếp được 2.857 doanh nghiệp nhà nước; đã thực hiện giao và bán 209 doanh
nghiệp; khoán kinh doanh 19 doanh nghiệp, sát nhập và hợp nhất 172 doanh
nghiệp; giải thể 66 doanh nghiệp; chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu 58 doanh
nghiệp; 22 doanh nghiệp chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm
hữu hạn nhà nước một thành viên. Việc bố trí lại các doanh nghiệp nhà nước đã
góp phần giảm bớt gánh nặng về tài chính cho Nhà nước, khắc phục tình trạng các
doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả nhưng hàng năm Nhà nước
vẫn phải bảo trợ về vốn. Việc tinh giảm các doanh nghiệp nhà nước theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả còn tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác
phát triển đầu tư hoặc cùng đầu tư vào những lĩnh vực, những ngành nghề mà
trước đây các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả thua lỗ, những ngành
nghề ít sinh lời.
Năm là, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đạt kết quả tốt.
Cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn của Đảng, một giải pháp quan
trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, khi
áp dụng vào thực tiễn, đã phát huy tác dụng to lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cho
nhiều doanh nghiệp. Tính đến tháng 12/2004 cả nước đã cổ phần hoá được 2242
doanh nghiệp nhà nước, riêng năm 2004 cổ phần hoá được 753 doanh nghiệp nhà
nước. Có nhiều doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hoá đã đạt được
nhưng kết quả lớn, hiệu quả kinh tế được nâng lên rõ rệt, quyền chủ động trong tự
chủ về vốn và sản xuất kinh doanh được phát huy,đời sống của người lao động
được quan tâm, cải thiện đáng kể.
Qua điều tra cổ phần hoá ở 4 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và
gốm xây dựng cho thấy:
Ở Công ty gạch ốp lát Thăng Long - Viglacera, doanh nghiệp chuyên sản
xuất và kinh doanh các sản phẩm gạch ốp lát ceramic và granite cao cấp mang
thương hiệu Viglacera. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty luôn
phát triển ổn định. Với công suất thiết kế 3 triệu m
2
/năm, năm 2001 sản lượng đạt
3,5 triệu m
2
, năm 2002 đạt 4,2 triệu m
2
, vượt 40% công suất thiết kế. 10 tháng đầu
năm 2003 đạt 171 tỷ đồng. Giá trị năm 2002 đạt 1,1 triệu USD. Thu nhập bình
quân 1,7 triệu đồng cho một người trong một tháng.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá, Đảng uỷ và Ban lãnh đạo công ty đã tiến
hành xây dựng kế hoạch chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần,
tuyên truyền phổ biến, giải thích cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp về
các nội dung cổ phần hoá... Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo
mô hình công ty cổ phần trước ngày 30 tháng 12 năm 2003. Sau khi thực hiện cổ
phần hoá doanh nghiệp này tiếp tục sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Ở nhà máy gạch lát hoa và má phanh ô tô Hà Nội các bước cổ phần hoá đã
được tiến hành từ tháng 6 năm 2002 đến cuối năm 2003 đã hoàn thành thủ tục cần
thiết để chuyển doanh nghiệp sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Thu
nhập bình quân đầu người trong tháng đã tăng từ 1,5 triệu đồng năm 2002 lên 1,64
triệu đồng năm 2003. Tổng doanh thu năm 2002 đạt 40,3 tỷ đồng, nộp ngân sách
nhà nước 1,4 tỷ đồng. Năm 2004 dự tính doanh thu 53 tỷ đồng và nộp ngân sách
1,9 tỷ đồng. Sản xuất kinh doanh tiếp tục phát triển, đời sống người lao động được
cải thiện, hiệu quả của cổ phần hoá được biểu hiện rõ rệt.
Ở Công ty gốm xây dựng Đại Thanh, năm 2003 đạt doanh thu 46 tỷ đồng,
lợi nhuận thực hiện 3 tỷ, nộp ngân sách 3,3 tỷ đồng, thu nhập bình quân cho người
lao động trong một tháng là 1.080.000 đồng. Đến cuối năm 2003 đã hoàn thành tốt
việc xác định giá trị doanh nghiệp, một phần quan trọng nhất trong tiến trình cổ
phần hoá. Sau khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp tiếp tục làm ăn có hiệu quả,
doanh thu tăng hơn trước, đời sống người lao động tiếp tục được cải thiện.
Ở Công ty gốm xây dựng Từ Sơn, một đơn vị sản xuất gạch ngói đất sét
nung, có quy mô lớn. Công ty được Tổng công ty cho phép tách nhà máy gốm xây
dựng Đông Anh, một trong 3 nhà máy trực thuộc công ty để thực hiện cổ phần hoá.
Từ tháng 6 năm 2002 công ty đã khẩn trương xây dựng kế hoạch và triển khai các
bước của quá trình cổ phần hóa. Sau khi xét duyệt, ngày 27 tháng 8 năm 2003, Bộ
Xây dựng đã có quyết định phê duyệt phương án cổ phần hoá của nhà máy gốm
xây dựng Đông Anh có vốn điều lệ là 7,5 tỷ đồng. Cổ phiếu phát hành lần đầu
75.000, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 38.000 chiếm 51% vốn điều lệ, cổ phần
bán ưu đãi cho người lao động 27.999 chiếm 37,33%. Cổ phần bán cho cán bộ
công nhân viên của công ty và các đơn vị thành viên Tổng công ty 8.751 chiếm
11,67%. Số lao động dôi dư do sắp xếp lại là 40 người, trong đó 37 người được
giải quyết chế độ theo Nghị định 41 của Chính phủ và 3 người theo Luật Lao động.
Ngày 9 tháng 9 năm 2003, công ty đã hoàn thành thủ tục bán cổ phần và thu đủ số
tiền bán cổ phần được 2.835.030.000 đồng theo đúng quy định. Bộ Xây dựng có
Quyết định ngày 9 tháng 9 năm 2003 chuyển nhà máy gốm xây dựng Đông Anh
thành công ty cổ phần. Sau khi thực hiện cổ phần hoá, lợi nhuận và mức thu nhập
bình quân của người lao động tăng lên.
Như vậy, quá trình cổ phần hoá tại 4 đơn vị nói trên đã diễn ra thuận lợi, bảo
đảm được yêu cầu và tiến độ đề ra. Việc cổ phần hoá không những nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh tại các doanh nghiệp, cải thiện đời sống của người lao
động, mà còn đem lại lợi ích cho Nhà nước; động viên được trí tuệ tập thể đóng
góp vào quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp; kích thích người lao động
yên tâm làm việc, cống hiến khả năng của mình cho công việc chung của doanh
nghiệp; thu hút nguồn nhân lực có tay nghề cao vào làm việc, hạn chế đáng kể tình
trạng "chảy máu chất xám" sang các thành phần kinh tế khác.
Những thành tựu đạt được trong 10 năm (1996 - 2005) về xây dựng và phát
triển thành phần kinh tế nhà nước do nhiều nguyên nhân mang lại, song chủ yếu là:
Một là, thành tựu của quá trình đổi mới từ 1986 - 1996 đã tạo tiền đề vững
chắc cho các thành phần kinh tế nói chung, thành phần kinh tế nhà nước nói riêng
phát triển.
Qúa trình đổi mới đã tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước cải tiến
kỹ thuật sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ. Từ đó hiệu quả hoạt động không
ngừng được nâng lên, vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ngày càng
được củng cố và tăng cường. Công cuộc đổi mới đất nước được Đảng ta đề ra từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với mục tiêu phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Dưới ánh sáng của Đảng, nền kinh tế đất nước không ngừng được phát triển, đó là
tiền đề vững chắc cho các thành phần kinh tế nói chung, thành phần kinh tế nhà
nước nói riêng lớn mạnh, có điều kiện để đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất,
làm ra những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp, đáp ứng được thị hiếu của
người tiêu dùng. Xây dựng một nền kinh tế mở trên nguyên tắc độc lập tự chủ đã
giúp các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện quan hệ hợp tác với nước ngoài, học
tập và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ, đi tắt đón đầu ở một số lĩnh
vực quan trọng. Đồng thời nhờ cơ chế thị trường, sự tự do cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu đã tích cực hóa sự năng
động của các chủ thể kinh tế. Là một thành phần kinh tế chủ đạo, thành phần kinh
tế nhà nước buộc phải không ngừng nâng cao tiềm lực kinh tế, phát huy vai trò ảnh
hưởng đối với các thành phần kinh tế khác, thâm nhập vào các ngành, các lĩnh vực
then chốt. Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới, nhất là từ giai đoạn 1996 - 2005 đã
khẳng định những bước đi vững chắc của thành phần kinh tế nhà nước. Điều đó có
nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân cơ bản là do sự lãnh đạo đúng
đắn và đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý giám sát chặt
chẽ của Nhà nước.
Hai là, phương thức lãnh đạo của Đảng không ngừng đổi mới. Nhà nước
tăng cường kiểm tra, giám sát, chỉ đạo việc xây dựng và phát triển thành phần kinh
tế nhà nước.
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn tạo động
lực cho thành phần kinh tế nhà nước phát triển. Quá trình đổi mới đã cho thấy tác
dụng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong việc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, trong đó thành phần kinh tế nhà nước là một bộ phận cơ bản.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể
thực hiện được thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước và sự giám sát của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung,
thành phần kinh tế nhà nước nói riêng. Vai trò của Đảng thể hiện ngay từ việc chủ
động lựa chọn các biện pháp kinh tế phù hợp tạo điều kiện để thúc đẩy sự phát
triển thành phần kinh tế nhà nước.
Trong từng thời kỳ, tuỳ vào điều kiện cụ thể của đất nước và khả năng hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước mà Đảng đã có chủ trương, quan điểm và
chính sách cụ thể, chỉ đạo kịp thời quá trình xây dựng và phát triển thành phần
kinh tế nhà nước. Đảng chủ động phát hiện, nhận thức, giải quyết mâu thuẫn nảy
sinh, tạo tiền đề về chính trị, kinh tế, con người cho sự phát triển của các doanh
nghiệp nhà nước. Chủ trương, chính sách của Đảng được Nhà nước cụ thể hoá vào
thực tiễn thông qua các văn bản, chỉ thị, quyết định... tổ chức điều hành, quản lý
nền kinh tế nói chung và quá trình hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước nói
riêng. Tuy nhiên, Nhà nước quản lý các quá trình kinh tế không phải do ý muốn
chủ quan, mà theo yêu cầu của các quy luật kinh tế, quy luật thị trường, trên cơ sở
đó khắc phục những yếu kém trong hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước.
Đặc biệt Nhà nước tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các doanh nghiệp hoạt động công ích, làm cho kinh tế nhà nước thật sự là công cụ
để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô có hiệu quả.
Ba là, quá trình xây dựng và phát triển thành phần kinh tế nhà nước cũng
như thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tiếp thu
kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Các nước trên thế giới tuy thành phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh, chi
phối đến nhiều lĩnh vực then chốt, song Chính phủ các nước đó vẫn sử dụng thành
phần kinh tế nhà nước như một công cụ hữu hiệu và đắc lực trong việc điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, thực hiện các vấn đề dân sinh xã hội. Thực tiễn cho thấy, doanh
nghiệp nhà nước tồn tại phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, mặc dù quy mô và
vị trí của chúng có khác nhau ở từng nước, song doanh nghiệp nhà nước vẫn là bộ
phận chủ yếu của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp. Ở Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, doanh nghiệp nhà nước cũng đã có những
đóng góp hết sức quan trọng trong kinh tế xã hội. Hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước, chủ thể kinh tế chủ yếu trong các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã góp
phần giải quyết các vấn đề chính như:
- Xây dựng và củng cố được nền kinh tế tự chủ của các quốc gia xã hội chủ
nghĩa.
- Giải quyết được một số vấn đề liên quan đến sự phát triển đồng đều giữa
các khu vực kinh tế và xã hội.
- Giải quyết nhiều vấn đề xã hội quan trọng.
- Tạo ra việc làm cho quần chúng nhân dân.
- Góp phần làm cho công bằng xã hội được duy trì ở mức độ cao.
Biểu hiện rõ nét nhất là ở Trung Quốc, các doanh nghiệp nhà nước được
phát triển rất mạnh và đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nước
này. Tính đến năm 1996, Trung Quốc có hơn 100.000 doanh nghiệp nhà nước,
trong đó có 10.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và lớn. Doanh nghiệp nhà nước ở
Trung Quốc đã thay đổi kết cấu công nghiệp ở Trung Quốc, biến Trung Quốc từ
nước nông nghiệp điển hình thành một nước xã hội chủ nghĩa công nghiệp hóa.
Năm 1949, công nghiệp của Trung Quốc chỉ chiếm 15% tổng giá trị sản lượng
nông - công nghiệp, còn nông nghiệp chiếm 85%. Thì năm 1991, tỷ lệ này là
77,6% và 22,4% nghiêng về công nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc
thu hút 43,64 triệu lao động, tạo ra 70% thu nhập của đất nước. Vai trò của doanh
nghiệp nhà nước ở Trung Quốc được các nhà khoa học Trung Quốc khái quát ở
một số điểm như: Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng chủ đạo của công cuộc phát
triển kinh tế; doanh nghiệp nhà nước là nguồn thu nhập chính của Trung Quốc;
doanh nghiệp nhà nước là chỗ dựa vững chắc cho việc giải quyết vấn đề việc làm;
doanh nghiệp nhà nước là nguồn cung cấp chủ yếu các sản phẩm cho nhu cầu trong
nước và sản xuất; doanh nghiệp nhà nước là những cơ sở quan trọng của công cuộc
hiện đại hóa Trung Quốc; doanh nghiệp nhà nước là công cụ và điểm tựa của điều
tiết kinh tế vĩ mô.
Không chỉ có mặt ở các nước xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước còn
có mặt ở các nước tư bản chủ nghĩa, trong đó thành phần kinh tế nhà nước phát triển
mạnh ở: Italia, Nhật Bản, Anh, Pháp, Niu Di lân, Na Uy, Thụy Điển...
Trong nền kinh tế Pháp hiện nay vẫn tồn tại nhiều doanh nghiệp nhà nước,
mặc dù trong vài thập kỷ vừa qua, chính phủ đã tư nhân hóa phần lớn các doanh
nghiệp nhà nước. Ở Nhật Bản, doanh nghiệp nhà nước phát triển khá mạnh, Nhật
Bản được coi là một trong những nước tư bản có thành phần kinh tế công phát triển
mạnh nhất, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng. Chẳng hạn, riêng trong
lĩnh vực cầu đường, công ty đường bộ NB, công ty đường bộ Thủ đô, công ty
đường bộ Cansai, công ty xây dựng và quản lý cầu HonSyu - Shikoku thu hút
khoảng 25.000 nhân viên. Quản lý kinh doanh các tuyến đường cao tốc, các cây
cầu trọng yếu. Đặc biệt là tuyến đường cao tốc khu vực Tokyo - Osaka, ba cây cầu