Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.01 KB, 19 trang )

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao
của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của
các cơ quan của Quốc hội

Nguyễn Hữu Lộc

Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: TS. Trần Thái Dương
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Trình bày cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội. Tìm hiều những Quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong thời gian qua. Đưa ra những
phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội. Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về hiệu quả giám sát
tối cao của Quốc hội, hiệu quả giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong tổng thể
hoạt động giám sát của Quốc hội.

Keywords. Quốc hội; Hoạt động giám sát; Pháp luật Việt Nam

Content

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong hệ thống tổ
chức bộ máy nhà nước, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của


đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Việc
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò
của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm tôn trọng và phát
huy quyền dân chủ của nhân dân.
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới của cả hệ thống chính trị theo
đường lối của Đảng, hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
hiến pháp và pháp luật, trong đó, hoạt động giám sát của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh,
chất lượng, hiệu lực được nâng lên. Nội dung giám sát đã tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc
trong cuộc sống, có tác động tích cực đến hoạt động lập pháp và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước, góp phần phát triển kinh tế xã hội và giữ gìn trật tự kỷ cương của
đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội trong những năm qua còn có những mặt
hạn chế. Hiệu quả hoạt động giám sát mặc dù đã đạt những kết quả nhất định nhưng mới đáp
ứng ở mức thấp so với yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống, từ nguyện vọng của nhân dân và quy
định của hiến pháp, pháp luật. Một số nội dung giám sát quan trọng như việc giám sát quản
lý, sử dụng ngân sách; quản lý vốn và tài sản nhà nước; công tác cải cách thủ tục hành chính;
cải cách tư pháp chưa được tập trung cao; giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành
luật, pháp lệnh chưa làm được nhiều và thường xuyên; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu
nại, tố cáo của công dân vẫn còn lúng túng, hiệu quả chưa cao; chưa chú trọng theo dõi, đôn
đốc đến cùng việc tiếp thu, giải quyết các kiến nghị để đánh giá đúng kết quả, hiệu lực giám
sát; hoạt động giám sát về phòng, chống tham nhũng cũng chưa thu được kết quả như mong
muốn.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn phương thức giám sát còn bị động, nhiều cuộc giám sát
mới dừng lại ở việc nghe báo cáo, nắm tình hình và chủ yếu dựa vào thông tin do chính các
cơ quan chịu sự giám sát cung cấp; các công cụ phục vụ hoạt động giám sát chưa đủ mạnh,
do đó phat huy hiệu quả chưa cao; chưa xây dựng được các thiết chế phù hợp để bảo đảm cho
Quốc hội có đầy đủ điều kiện tiến hành hoạt động giám sát một cách thực chất.
Về đối tượng và nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hôi, quyền giám sát của

Ủy ban thường vụ Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội hiện nay còn
có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, hoạt động của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chỉ là hoạt động bổ khuyết, hỗ trợ
cho hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Quan điểm khác lại cho rằng hoạt động giám
sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội gắn liền
với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, nằm trong một thể thống nhất, không tách rời
nhau. Trong đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội
thực hiện chức năng giám sát của mình theo quy định của pháp luật và phục vụ cho hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội. Chính vì thế, việc nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học
nhằm đánh giá đầy đủ và thống nhất chức năng và hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ
quan của Quốc hội trong tổng thể hoạt động giám sát của Quốc hội là một yêu cầu cần thiết
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu Đề tài
Vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc
hội đã được tập trung nghiên cứu từ những góc độ khác nhau. Trong thời gian gần đây đã có
một số công trình nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
như: Luận án Tiến sĩ “Quyền giám sát của Quốc hội đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân” của NCS Phạm Văn Hùng, năm 2004; Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện cơ chế pháp
lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam” của NCS Trương
Thị Hồng Hà, năm 2007; Luận án Tiến sĩ “Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao
hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam” của NCS Trần Tuyết Mai,
năm 2009. Ngoài ra còn có một số sách báo, ấn phẩm chuyên khảo như: “Một số vấn đề về
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXNCN Việt Nam”, tập thể tác giả
do PGS.TS. Lê Minh Thông chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 2001; “Giám sát và cơ chế
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của tập thể tác giả do
GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS. Võ Khánh Vinh đồng chủ biên, NXB. Công an nhân dân,
2003; “Quyền giám sát của Quốc hội - Nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu” do TS.
Nguyễn Sĩ Dũng chủ biên, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2004; ấn phẩm “Đổi mới và hoàn thiện
quy trình lập pháp của Quốc hội” của Văn phòng Quốc hội, NXB Chính trị Quốc gia, 2004;
ấn phẩm “Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Văn phòng Quốc hội,

2005; đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Quy trình và thủ tục trong hoạt động của
Quốc hội” của Ban Công tác lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội, 2005; “Cơ
quan lập pháp và hoạt động giám sát” của Văn phòng Quốc hội, NXB Tư pháp, 2006
Ngoài ra, còn có một số đề tài nghiên cứu và một số bài viết đăng trên các tạp chí
chuyên ngành, các báo cáo tại các cuộc hội thảo, hội nghị đề cập về hoạt động giám sát của
Quốc hội nói chung.
Mặc dù các phương thức tiếp cận của các tác giả là không giống nhau nhưng nhìn
chung, các tác giả đều khẳng định về vị trí pháp lý của Quốc hội trong hệ thống tổ chức bộ
máy của nhà nước ta với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được Hiến pháp
quy định với 03 chức năng cơ bản là quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, lập pháp
và giám sát. Trong đó, chức năng giám sát của Quốc hội là một chức năng quan trọng nhưng
trong thời gian vừa qua chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới và kiện toàn bộ máy nhà
nước hiện nay. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp đồng bộ và kịp thời để nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
Các đề tài, ấn phẩm nói trên mặc dù đã nghiên cứu tương đối sâu sắc, cụ thể về chức
năng giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nhưng vẫn chưa đi sâu vào nghiên
cứu mối liên hệ giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và hoạt động giám sát của các cơ quan
của Quốc hội trong một thể thống nhất là hoạt động giám sát chung của Quốc hội để từ đó có
một cách nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong cơ
chế quyền lực nhà nước của nước ta hiện nay mà chỉ chủ yếu tập trung vào phân tích những
tồn tại, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt động giám sát và cơ chế để thực hiện chức
năng giám sát nói chung của Quốc hội trong tổng thể hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong
khi đó, hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội ngày càng có vị trí quan trọng và góp phần đáng kể vào thành quả hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội. Vì thế cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để đánh giá và đề
xuất những giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và các
cơ quan của Quốc hội trong một thể thống nhất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, các cơ quan của

Quốc hội; phân biệt với các hình thức giám sát, kiểm tra, kiểm sát, thanh tra của các cơ quan
nhà nước khác.
- Phân biệt và chỉ ra các quan điểm về thực chất hoạt động giám sát của Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội.
- Nghiên cứu khái niệm hiệu quả hoạt động giám sát và xây dựng các tiêu chí làm căn
cứ đánh giá toàn diện thực trạng của hoạt động giám sát hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải
pháp tổng thể, khả thi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội.
- Nghiên cứu các quy định cảu pháp luật về thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội; đánh giá một cách khoa học, khách quan những mặt mạnh,
mặt yếu, những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn tổ chức các hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội.
- Nghiên cứu đề xuất các phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức quyền lực nhà
nước; về nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; về sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn như:
phân tích, tổng hợp, so sánh
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội và hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong một
thể thống nhất.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội,
hiệu quả giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong tổng thể hoạt động giám sát của Quốc
hội.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy tại

các trường đại học chuyên ngành luật, cho các hoạt động của các cơ quan thực tiễn trong việc
xây dựng và thi hành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, phần nội dung gồm 3 chương, phần kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo. Bố cục của Luận văn gồm:
Chương 1 – Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội.
Chương 2 – Quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội trong thời gian qua.
Chương 3 – Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÈ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI,
CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI
1.1. Quyền giám sát của Quốc hội
1.1.1. Khái niệm giám sát
Khái niệm “giám sát” dưới góc độ ngôn ngữ thông thường được hiểu là: việc theo dõi,
xem xét, kiểm tra của chủ thể có quyền đối với chủ thể khác để qua đó có được nhận định về
hoạt động của chủ thể này.
Giám sát có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra đối tượng chịu
sự giám sát, qua đó đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hay sai
so với các quy định hiện hành;
Thứ hai, để tiến hành hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra thì giám sát luôn phải gắn
với một hoặc một số đối tượng cụ thể;
Thứ ba, để có thể tiến hành được hoạt động giám sát thì chủ thể hoạt động giám sát
phải có những quyền hạn, nghĩa vụ nhất định đối với đối tượng chịu sự giám sát;
Thứ tư, để có thể đưa ra được nhận định về hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát
thì việc giám sát phải được tiến hành dựa trên những quy định do chủ thể có quyền giám sát
đặt ra;

Thứ năm, giám sát luôn là hoạt động có mục đích. Mục đích của hoạt động giám sát là
đưa ra những nhận định của chủ thể có quyền giám sát đối với hoạt động của đối tượng chịu
sự giám sát, qua đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm trái quy định của đối tượng
chịu sự giám sát, bảo đảm cho những quy định của chủ thể có quyền giám sát được chấp hành
đúng.
1.1.2. Khái niệm quyền giám sát tối cao của Quốc hội
- Quyền giám sát tối cao của Quốc hội có một số những đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Giám sát tối cao của Quốc hội là giám sát mang tính quyền lực nhà nước.
Đặc trưng này được xác định bởi vị trí pháp ý và tính chất của chủ thể giám sát.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực của
nhà ước ta. Nhà nước ta không tổ chức theo mô hình học thuyết “tam quyền phân lập” mà
được tổ chức đề bảm đảm nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Để bảo vệ hiến pháp và
bảo đảm hiệu lực thực tế của các đạo luật do Quốc hội ban hành, yêu cầu khách quan đòi
hỏi Quốc hội cần thực hiện việc giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động nhà nước. Đây
là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, không tách rời quyền lực nhà nước. Đặc trưng
này chỉ rõ sự khác nhau giữa giám sát của Quốc hội với giám sát của các cơ quan nhà nước
khác, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Vì thế, thực hiện
quyền giám sát tối cao chính là Quốc hội thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước do
chính nhân dân giao cho.
+ Chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền giám sát tối cao, hay nói cách khác,
Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất có quyền giám sát tối cao. Đặc tính này của Quốc hội
xuất phát từ địa vị pháp lý của Quốc hội trong tổ chức bộ máy nhà nước, khi “Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 83 của Hiến pháp 1992)
- Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội
- Nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội
- Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
- Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát tối cao
1.1.3. Phân biệt hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm sát, thanh tra
- Thanh tra, kiểm tra của cơ quan thanh tra là một chức năng quan trọng của cơ quan

quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà
nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra nhà
nước được quy định tại Điều 2, Điều 3 của Luật Thanh tra 2004.
Về mặt chủ thể
Về mặt đối tượng
Về phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý
- Quyền giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao
Về mặt chủ thể
Về đối tượng chịu sự giám đốc
Về phương thức thực hiện
Về hậu qủa pháp lý
- Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Về mặt chủ thể
Về đối tượng chịu sự giám sát
Về phương thức thực hiện
Về hậu quả pháp lý
1.2. Quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội
Lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân
tộc, các ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn giám sát của mình đều phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật.
Những quy định pháp luật đó tạo ra trật tự trong giám sát chứ không phải là nhằm phân cấp
hoạt động giám sát của Quốc hội. Những hoạt động này không phải là hoạt động giám sát
tách rời với giám sát tối cao của Quốc hội mà thuộc một quy trình giám sát tối cao. Để tiến
hành hoạt động giám sát tối cao, Quốc hội phải tiến hành các hoạt động giám sát đa dạng
trong một quy trình giám sát cụ thể có sự tham gia của các chủ thể khác nhau thuộc cơ cấu
của Quốc hội tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp. Bỡi lẽ, với đặc thù của Quốc hội là cơ quan làm
việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số thì quy trình giám sát tối cao chỉ được xác
định là hoàn chỉnh khi hoạt động đó được diễn ra tại kỳ họp Quốc hội, kết thúc bằng việc đưa
ra Nghị quyết của Quốc hội. Do đó, không chỉ kỳ họp Quốc hội mà hoạt động giám sát của
UBTVQH, Hội đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc

hội giữa hai kỳ họp cũng đều thuộc quy trình thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
bởi lẽ về bản chất, Quốc hội là một thể thống nhất, không chia rẽ. Điều này tương tự như
quyền lập pháp là quyền duy nhất thuộc Quốc hội và để thực hiện quyền này, Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội thực hiện quyền lập pháp theo một quy trình
thống nhất và hoạt động biểu quyết thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động lập pháp
mang tính quyết định trong quy trình lập pháp. Do đó, trong quy trình giám sát tối cao thì
hoạt động giám sát trong kỳ họp Quốc hội được coi là công đoạn mang tính quyết định. Hơn
thế nữa, Điều 4 Luật tổ chức Quốc hội cũng quy định rằng: Hiệu quả hoạt động của Quốc hội
được bảo đảm bằng bằng hiệu quả hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Vì thế có
thể khẳng định không có cơ sở để phân chia, tách rời hoạt động giám sát của Quốc hội là
giám sát tối cao, còn hoạt động giám sát của các cấu trúc thuộc Quốc hội (các cơ quan của
Quốc hội) không phải là giám sát tối cao. Điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay. Để hoạt động giám
sát của Quốc hội đạt hiệu quả cần nhận thức đầy đủ và có các giải pháp toàn diện tác động
lên toàn bộ quy trình giám sát như một thể thống nhất.
1.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội
Việc xác định các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội cần được xem xét dưới những góc độ thích hợp. Trong đó, dựa vào
việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và hoạt động thực tiễn của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội.
1.4. Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát
Hậu quả pháp lý của giám sát tối cao có nội dung và hình thức thể hiện khác với hậu
quả pháp lý của các hoạt động giám sát khác. Hậu quả pháp lý của giám sát tối cao là kết quả
của hoạt động giám sát tối cao thể hiện ý chí của Quốc hội bằng một hình thức văn bản gọi là
Nghị quyết. Do đó, xét về hình thức thể hiện, hậu quả pháp lý của giám sát tối cao phải tồn
tại dưới dạng một văn bản do Quốc hội biểu quyết thông qua tại kỳ họp.
Chương II
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA

QUỐC HỘI, CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI HIỆN NAY
2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
2.1.1. Sự kế thừa và phát triển các quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội
qua các bản Hiến pháp của Việt Nam
2.1.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Theo quy định hiện hành, quyền giám sát của Quốc hội được hiểu như sau:
+ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước (Điều 83 của Hiến pháp năm
1992);
+ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (khoản 2
Điều 84 của Hiến pháp năm 1992);
+ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Điều
84 của Hiến pháp năm 1992)
+ Quốc hội ra nghị quyết buộc các cơ quan nhà nước khác phải nghiêm chỉnh chấp
hành; bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội (Điểm 9 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992).
Như vậy ở đây có thể hiểu theo nghĩa rộng, đó là Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với mọi chủ thể, là quyền năng duy nhất được Hiến pháp và luật quy định.
2.1.3. Quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội
2.1.3.1 Quyền giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội
2.1.3.2 Quyền giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
2.2. Phƣơng thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, quyền giám sát
của các cơ quan của Quốc hội
2.2.1. Xét báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà

án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, cơ quan ngang bộ hoặc các
cơ quan, tổ chức hữu quan, thành lập Uỷ ban lâm thời của Quốc hội để điều tra về một
vấn đề nhất định
2.2.2. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
2.2.3. Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật ở cơ sở, địa phương của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban
của Quốc hội, Uỷ ban lâm thời của Quốc hội
2.2.4. Chất vấn của đại biểu Quốc hội
2.2.5. Giám sát thông qua việc xét đơn thư khiếu nại, kiến nghị của nhân dân, qua
các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội hiện
nay
2.3.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội
2.3.1.1.Việc xem xét các báo cáo
a. Xem xét báo cáo công tác hàng năm
b. Xem xét báo cáo công tác cả nhiệm kỳ
2.3.1.2. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác
2.3.1.3. Việc thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội
2.3.1.4. Việc thực hiện giám sát chuyên đề tại kỳ họp Quốc hội
2.3.1.5. Việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn
2.3.2. Hoạt động giám sát của UBTVQH
Với tư cách là một chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật và là cơ quan Thường
trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp, UBTVQH đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực
hiện chức năng giám sát của Quốc hội. UBTVQH có nhiệm vụ giám sát hoạt động của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC, nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương. Bên cạnh đó, UBTVQH chuẩn bị, trình Quốc hội dự kiến chương trình hoạt động giám
sát hàng năm của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; thực hiện việc chỉ đạo, điều hoà,
phối hợp hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội và tổ chức để ĐBQH thực hiện
quyền chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp.
2.3.2.1. Xem xét báo cáo của Chính phủ và các cơ quan nhà nước trong thời gian giữa
hai kỳ họp Quốc hội
2.3.2.2. Xem xét việc trả lời chất vấn giữa hai kỳ họp
2.3.2.3. Giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân
2.3.2.4. Hoạt động giám sát theo chuyên đề
2.3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
Các hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đã tập
trung vào việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thuộc các lĩnh vực do Hội đồng và các Uỷ ban phụ trách. Các vấn đề
được Hội đồng và các Uỷ ban quan tâm giám sát khá thường xuyên là kinh tế, ngân sách, văn
hoá, xã hội, giáo dục, y tế, lao động, việc làm, tình hình bắt, giam, giữ, điều tra, truy tố, xét
xử, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, tình hình an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi
trường, chống buôn lậu, chống tham nhũng… Hoạt động giám sát đã giảm bớt tính hình thức,
làm rõ những ưu điểm cần phát huy, những thiếu sót cần khắc phục trong việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nêu được nhiều kiến nghị xác
đáng.
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
2.4.1. Về nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan quan trọng nhất đó là, mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ trong lịch sử. Chính vì công việc mới mẻ này mà chúng ta
vừa phải tìm tòi, vừa phải rút kinh nghiệm nên đã gặp không ít khó khăn, vấp váp. Do đó,
những vấn đề mới đặt ra trong nhận thức về mô hình, về nguyên lý tổ chức, về khả năng vận
dụng thực tế đòi hỏi phải có thời gian thử thách và có cách đánh giá khoa học.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
2.4.2.1. Nhận thức chưa thống nhất và đúng đắn về vị trí, vai trò giám sát của Quốc hội
2.4.2.2. Cơ chế pháp lý về giám sát chưa được hoàn thiện

2.4.2.3. Sự phân biệt giữa giám sát của Quốc hội với giám sát của các cơ quan chức
năng khác là chưa rõ
2.4.2.4. Nguyên tắc tổ chức của các cơ quan của Quốc hội chưa hợp lý
Chƣơng III
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CÁC
CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội,
hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội
3.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội
3.1.1.1. Đòi hỏi của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân với tính
chất là con đường mới, đúng đắn và có tính quy luật cho sự phát triển của xã hội Việt Nam
trong thế kỷ XXI đòi hỏi việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm soát, giám sát việc thực hiện quyền lực
thông qua cơ chế hiến pháp nhằm bảo đảm các quyền công dân và quyền con người. Ngoài
ra, một trong những yêu cầu bức thiết của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đó là cần thiết
phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó tính tối cao của Hiến pháp được bảo đảm và có
một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước mà trước hết là hoạt động giám sát của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất.
Theo định hướng trên, trong những năm qua, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn
thiện cả về số lượng và chất lượng của văn bản ban hành [14, trang 220]. Tuy nhiên cần thiết
phải có một cơ chế giám sát chặt chẽ tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước ban hành, tránh tình trạng văn bản chồng chéo, không bảo đảm tính
khả thi hoặc thậm chí là trái với Hiến pháp. Hoạt động giám sát của Quốc hội với vai trò là cơ
quan quyền lực nhà nước cũng được tăng cường nhằm bảo đảm tương xứng với vị trí, vai trò
của các cơ quan này trong bộ máy nhà nước.

Từ những đánh giá về vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong hoạt
động giám sát cũng như từ kết quả đánh giá những mặt đã đạt được và những vấn đề còn tồn
tại trong hoạt động giám sát có thể thấy rằng việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội là một đòi hỏi tất yếu khách quan khi xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.1.1.2. Khắc phục những yếu kém, tồn tại trong hoạt động giám sát của Quốc hội
Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội có một vị trí vai trò đặc biệt quan trọng
trong hoạt động của Quốc hội nói riêng và hoạt động của Nhà nước ta nói chung. Trong quá
trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội là một yêu cầu cấp thiết.
Hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong thời gian qua đã
tác động tích cực tới hoạt động lập pháp, tạo cơ sở cho Đại biểu Quốc hội phát huy hơn nữa
vai trò của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Qua hoạt động
giám sát, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã bước đầu xác lập chế độ trách nhiệm chính
trị của các cơ quan hành pháp và tư pháp, phát hiện những khiếm khuyết của văn bản do các
cơ quan trên ban hành để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Tuy nhiên, hoạt động giám sát của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu so với thẩm quyền
đã được Hiến pháp và các văn bản pháp luật quy định. Quốc hội vẫn chưa thực hiện được tốt
nhất vai trò là cơ quan giám sát tối cao, các cơ quan của Quốc hội vẫn chưa thể hiện được
trách nhiệm của cơ quan mình trong việc thực hiện các hoạt động giám sát theo yêu cầu và
theo chức năng Hiến định, thể hiện ở một số điểm như: vai trò hoạt động giám sát của Quốc
hội chưa được nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ tương xứng với vị trí của Quốc hội trong
hệ thống quyền lực nhà nước; vai trò của các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện các
hoạt động giám sát chưa được nhận thức đầy đủ, vẫn chỉ được coi là hoạt động độc lập với
hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội…Những tồn tại, hạn chế này nếu không được khắc
phục kịp thời sẽ làm giảm sút nghiêm trọng hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
3.1.2. Phương hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề nâng cao hiệu
quả hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là hoạt động giám sát.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định “…tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số đại biểu chuyên trách; phát huy tốt hơn nữa vai trò
của đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng
luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”.
Tại Thông báo kết luận số 144-TB/TW năm 2008 của Bộ Chính trị đã xác định rõ
nhiệm vụ: “Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động giám sát, tích cực hoàn
thiện cơ sở pháp lý, đổi mới phương thức giám sát và tăng cường sự lãnh đạo sát sao của Ủy
ban thường vụ Quốc hội là những yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội”
Do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt
động giám sát của các cơ quan của Quốc hội là một nội dung quan trọng trong quá trình đổi
mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta theo chủ trương của Đảng trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cần phải được
xác định phương hướng và các giải pháp phù hợp trên cơ sở bảo đảm các nguyên tắc: giám
sát vừa là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước vừa là một phương thức bảo đảm
quyền lực nhà nước đuợc thực hiện đúng trong phạm vi, thẩm quyền, hình thức mà pháp luật
quy định cho mỗi một thiết chế trong hoạt động thực tiễn.
Để đáp ứng được các yêu cầu này, cần bảo đảm một số định hướng mang tính nguyên
tắc sau:
3.1.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội cần gắn liền với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội
Giám sát chỉ là một chức năng của Quốc hội. Vì thế đổi mới hoạt động giám sát cần
được đặt trong tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cần xác định là nhằm
hoàn thiện chính sách pháp luật do đó cần nâng cao chất lượng của hoạt động giám sát bằng

cách các kiến nghị, đề xuất sau giám sát cần được nâng lên thành các chính sách để Quốc hội
tiến hành xem xét, có giải pháp cụ thể.
3.1.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội nhằm thực hiện đúng thẩm quyền luật định đối với Quốc hội và các cơ quan của Quốc
hội
Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chỉ có
thể đạt được khi năng lực giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được tăng cường,
đủ khả năng theo đến cùng các kiến nghị giám sát. Điều quan trọng nhất là xác định tính tối
cao của hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp, đối tượng giám sát của Quốc hội không hạn chế một cơ
quan nào, bao gồm chủ yếu là hoạt động của cơ quan, cá nhân, do Quốc hội thành lập, bầu
hoặc phê chuẩn và cả hoạt động của chính Quốc hội, hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, lực lượng vũ trang, chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, các đối tượng chịu sự giám sát nêu trên không phải đối tương nào cũng
chịu sự giám sát thường xuyên của Quốc hội mà hoạt động giám sát thường xuyên của Quốc
hội tập trung chủ yếu vào tầng cao nhất của bộ máy nhà nước bao gồm: Chủ tịch nước,
UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, những người đứng đầu các cơ quan này và
các thành viên của Chính phủ.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội
3.2.1. Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội
3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội (đặc biệt
là vai trò của Đảng Đoàn Quốc hội)
3.2.1.2. Nâng cao nhận thức về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, quyền giám sát
của các cơ quan của Quốc hội
- Giám sát tối cao của Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho Hiến
pháp và pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh
- Quyền giám sát tối cao của Quốc hội không bị hạn chế nhưng cần được thực hiện
có trọng tâm, trọng điểm
3.2.1.3. Cải tiến hoạt động giám sát bằng phương thức xem xét báo cáo tại kỳ họp

3.2.1.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
3.2.1.5. Tiếp tục cải tiến cách thức giám sát chuyên đề
3.2.1.6. Tăng cường hoạt động của Quốc hội trong việc giám sát văn bản quy phạm
pháp luật
3.2.1.7. Hoàn thiện cơ chế và quy trình thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm
3.2.1.8. Nâng cao hiệu quả của việc ra nghị quyết sau giám sát
3.2.2. Đối với hoạt động giám sát của UBTVQH
3.2.2.1. Tăng cường hoạt động của UBTVQH trong việc chỉ đạo, điều hành thực hiện
chương trình giám sát
3.2.2.2. Tiếp tục cải tiến việc xem xét báo cáo, giám sát văn bản quy phạm pháp luật
thuộc thẩm quyền của UBTVQH
3.2.2.3. Tiếp tục hoàn thiện quy trình, thủ tục thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn
tại phiên họp của UBTVQH
3.2.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp trong hoạt động
giám sát
3.2.3. Đối với hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
3.2.3.1. Thực hiện hoạt động điều trần tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội
3.2.3.2. Nâng cao chất lượng kiến nghị qua hoạt động giám sát và tăng cường việc
theo dõi, đôn đốc giải quyết các kiến nghị sau giám sát của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban
3.2.3.3. Nâng cao số đại biểu chuyên trách hoạt động tại trung ương
3.2.4. Bảo đảm các điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội
3.2.4.1. Đảm bảo điều kiện về thông tin
3.2.4.2. Đảm bảo điều kiện về bộ máy tham mưu, giúp việc
3.2.4.3. Đảm bảo điều kiện về tài chính
3.2.4.4. Đảm bảo về công cụ phục vụ hoạt động giám sát
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội
3.2.5.1. Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và các luật tổ chức bộ máy nhà nước

3.2.5.2. Kiến nghị sửa đổi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội theo hướng:
3.2.5.3. Rà soát, sửa đổi, bổ sung một số điều có liên quan đến hoạt động giám sát
của Quốc hội đối với một số đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
3.2.5.4. Xây dựng một số quy chế có liên quan
KẾT LUẬN
Cùng với chức năng lập hiến, lập pháp và chức năng quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước, giám sát là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội nước ta đã
được Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và các văn
bản pháp luật có liên quan ghi nhận.
Luật do Quốc hội thông qua thường là những quy định có tính khái quát và để thực thi
nó, cơ quan hành pháp phải ban hành những văn bản hướng dẫn, quyết định hành chính và
phải có những hoạt động điều hành thực hiện pháp luật. Giữa xây dựng luật và thực thi luật
thường nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn và cả sự khác biệt. Do đó, để bảo đảm cho các văn bản
pháp luật của mình ban hành được thực hiện hoặc là để bảo đảm mức độ hiệu quả của luật
mình ban hành thì cần thiết Quốc hội phải tiến hành hoạt động giám sát
Nghiên cứu các học thuyết cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước có thể thấy: Trong
quá trình vận hành bộ máy nhà nước, dù được tổ chức dưới dạng bất kỳ mô hình nhà nước
nào thì hoạt động giám sát của Quốc hội cần thiết được coi là một công cụ hữu hiệu để chống
sự lạm quyền, các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong
thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một vấn đề được đặt
ra bức thiết nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội nói chung, các cơ quan của Quốc hội nói
riêng trên cơ sở bảo đảm các chức năng, nhiệm vụ theo Hiến định.
Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có những bước chuyển biến
tích cực, góp phần quan trọng vào việc phát huy vai trò của Quốc hội – cơ quan đại diện cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Mặc dù vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Hiệu quả giám sát của Quốc hội trên thực tế chưa cao, chất lượng giám sát chưa đáp ứng với

yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đó là do nhiều vấn đề lý luận
về quyền giám sát tối cao của Quốc hội cũng như quyền giám sát của các cơ quan của Quốc
hội (UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội) chưa được nghiên cứu một
cách thấu đáo để có được những nhân thức thống nhất [15, trang 2]. Trên cơ sở phân tích các
hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đánh gía kết quả đạt được,
những hạn chế và nhất là việc phân tích những nguyên nhân hạn chế để từ đó tìm ra các giải
pháp khắc phục đạt hiệu quả.
Một số giải pháp thực tiễn, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội, đó là:
- Việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội cần được đặt trong mối quan hệ gắn bó với quá trình đổi mới toàn diện các mặt về
tổ chức, hoạt động của Quốc hội
- Nâng cao nhận thức về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, trong đó hoạt động
giám sát của các cơ quan của Quốc hội cũng cần được nhìn nhận là hoạt động giám sát mang
tính tối cao, là một bước trong tổng thể một quy trình giám sát mang tính tối cao của Quốc
hội
- Tiến tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về giám sát và cơ chế giám sát một cách đầy
đủ và hiệu quả
- Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của
Quốc hội trong thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những nhóm giải pháp được tác giả mạnh dạn đưa ra nhằm góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về giám sát, góp phần khẳng định hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
chỉ phát huy tối đa tác dụng khi hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
phải được tiến hành trong một thể thống nhất, không thể tách rời. Làm luận cứ để phát huy
vai trò ngày càng cao của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp
trong thời gian tới .

References


1. GS.TS.Trần Ngọc Đường: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB CAND trang 158.
2. Hoàng Thị Ngân: Về cách tiếp cận quyền giám sát của Quốc hội- Giám sát và cơ
chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân
trang 224.
3.TS.Trương Thị Hồng Hà: Những vấn đề lý luận để tăng cường hoạt động giám sát
tại Hội đồng dân tộc và ủy ban của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”, năm 2009, trang 4.
4. E.B.Kovriakova: Hoạt động giám sát của Nghị viện, NXB Moscow năm 2005,
trang 12.
5. Quyền hành pháp, quyền lập pháp và quyền tư pháp ở Pháp. Bộ ngoại giao pháp
(1996), Trang 96.
6. M.M Utiasev và A.A.Kornilaeva (2002): “Các chức năng giám sát của Nghị viện
cấp khu vực; phân tích có so sánh”, Pháp luật và chính trị, Số 1, NXB Moscow, trang 2.
7. TS.Bùi Ngọc Thanh: Đổi mới hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, Kỷ yếu
Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội” năm 2009, trang 6.
8. PGS.TS.Hồ Trọng Ngũ: Một số vấn đề chung về cơ chế hỗ trợ hoạt động giám sát
của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, Kỷ yếu Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội” năm 2009, trang 8.
9. Báo cáo của Ủy ban pháp luật về 5 năm thực hiện Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội, năm 2008, trang 4.
10.TS.Bùi Ngọc Thanh: Đổi mới hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, Kỷ yếu
Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội” năm 2009, trang 5
11. Báo cáo kết quả tọa đàm về đề án “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám
sát của Quốc hội” của Ủy ban tư pháp, năm 2009, trang 5
12. Báo cáo hoạt động giám sát của Ủy ban kinh tế sau 5 năm thực hiện Luật hoạt
động giám sát, năm 2009, trang 8

13. NCS.Trần Tuyết Mai: Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và
hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, năm 2009.
14. TS.Ngô Đức Mạnh: Quan niệm về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giám sát và cơ chế giám sát
việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân năm 2003,
trang 220.
15. Báo cáo tóm tắt Đề án nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội của Đảng Đoàn Quốc hội, năm 2009, trang 2.
16. Giám sát và cơ thế thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công
an nhân dân năm 2003, trang 113, 114.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2006, trang 64.
18. Trương Thị Hồng Hà: Những vấn đề lý luận để tăng cường hoạt động giám sát tại
Hội đồng dân tộc và ủy ban của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”, năm 2009, trang 3.
19. Đại từ điển tiếng Việt. Nxb Văn hóa – thông tin năm 1998, trang 108.
20. Từ điển Tiếng Nga. Nxb Moscow năm 1995, trang 204.
21. Bách khoa toàn thư vương quốc Anh năm 1992. Nxb Leicester, trang 536.



×