Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nâng cao công tác sử dụng nữ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.87 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua mấy nghìn năm, vị trí
của người phụ nữ bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng trong lực lượng
lao động của xã hội. Bằng đức tính caanf cù chịu khó lao động sáng tạo của
mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc sống con
người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò không thể thiếu của mình trong các lĩnh
vực đời sống xã hội, cụ thể:
Trong lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp sản
xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ tái sản xuất ra của cải vật
chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra bản thân con người để duy trì và phát triển xã
hội.
Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sáng tạo nền văn
hoá nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng có
sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ.
Ở khu vực Á Đông, hiếm có dân tộc nào phụ nữ lại đóng vai trò quan
trọng trong xã hội như ở Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ
nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ những buổi đầu lập nước, khi gặp nạn
ngoại bang xâm lược, bà Trưng bà Triệu đã dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi
quân thù. Thế kỷ 20, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lịch sử
lại ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ, các chị, các mẹ không ngại gian khổ,
không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, lao động, hy sinh, cống hiến không
chỉ cuộc đời mình mà cả con em cho độc lập tự do của Tổ quốc. Phụ nữ không
chỉ chiến đấu anh hùng mà đã lao động cần cù, gian khó để vượt lên cảnh đói
nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và đàng
hoàng hơn. Đảng, Bác Hồ phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng “Anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong thời kỳ kháng chiến và “Trung
hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng” trong thời kỳ đổi mới đất nước không chỉ
1



là sự khích lệ, động viên mà còn là sự thừa nhận và đánh giá vai trò to lớn của
phụ nữ Việt Nam.
Xã hội ngày càng phát triển tạo nhiều cơ hội cho phự nữ tham gia vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt với nam giới. Ngày càng có
nhiều phự nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế - chính trị - khoa học. Nhiều
phụ nữ tham gia vào các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Trình độ của chị em phự nữ ngày càng được nâng cao, với tỷ lệ lớn. Bên cạnh
đó, con số cán bộ công chức nữ tham gia vào cơ quan nhà nước, được sử dụng
phù hợp với năng lực và trình độ còn hạn chế so với nam giới.
Nhằm đánh giá những thành tựu về công tác phát triển phụ nữ, chỉ ra
những hạn chế trong việc sử dụng cán bộ nữ chưa phù hợp với chuyên môn và
trình độ, từ đó đề ra những giải pháp nhằm sử dụng và đánh giá đúng vai trò
của phụ nữ với sự nghiệp phát triển chung của xã hội. Học viên lựa chọn đề tài
“Nâng cao công tác sử dụng nữ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà
nước trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình trong học
phần Tổ chức nhân sự hành chính Nhà nước.
2.

Kết cấu của đề tài:

Ngoài phần mục luc, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo;
tiểu luận được chí làm 03 chương, 07 tiết và các tiểu mục.

2


NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ SỬ DỤNG CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC NỮ TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1.1. Cán bộ, công chức
Ngày 13/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật cán bộ, công chức số
22/2008/QH12. Có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009.
Điều 4: Cán bộ, công chức
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật”.
1. 2. Luật bình đẳng giới.
Luật số 73/2006/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ
ngày 01/7/2007.
3



“Điều 11: Luật bình đảng giới về chính trị
-

Nam nữ bình đẳng tham gia quản lý nhà nước và tham gia quản lý xã

hội
- Nam nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước
và quy ước của cộng đồng xã hội hoặc quy định, quy chế của cơ quan tổ chức.
- Nam nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giứi thiệu tham gia
đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân, tự ứng cử và được ứng cử vào cơ quan
lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp và tổ
chức xã hội nghề nghiệp.
- Nam nữ được bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được
đề bạt, bổ nhiệm vào cùng cơ quan vị trí quản lý, lãnh đạo ở các cơ quan, tổ
chức.
- Các biện pháp thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
+ Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân
dân phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia về sự tiến bộ phự nữ.
+ Bảo đảm tỷ lệ thích đáng trong việc bổ nhiệm các chức danh trong các
cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới” (3).
1.3. Một số văn bản hành chính về công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới.
- Chỉ thị số 37- CT/TW, ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương
về “Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”.
- Nghị quyết 04- NQ/TW ngày 12/07/1997 của Bộ chính trị về “Tăng
cường và đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”. Về việc
nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội là
yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ,
là điều kiện để phát huy tài năng trí tuệ, và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ.
Chống những biểu hiện lệch lạc coi thường phụ nữ, khắt khe hẹp hòi trong

công tác tuyển dụng và đề bạt cán bộ công chức nữ.
- Chỉ thị 44- CT/TW, ngày 07/6/1984 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ phụ nữ” để xác nhận
4


- Nghị quyết 11- NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị về “Công
tác phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. trong đó,
chú trọng đến công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ phù hợp với điều kiện
mới của đất nước, tương xứng với trình độ và chuyên môn của phụ nữ, phấn
đấu đưa Việt Nam thành quốc gia dẫn đầu về bình dẳng giới.

5


Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC SỬ DỤNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NỮ
TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
2.1. Những ưu điểm trong công tác sử dụng cán bộ, công chức nữ
Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong
xã hội và trong quản lý nhà nước (QLNN). Chỉ thị 37- CT/T.Ư ngày 16/5/1994
khẳng định: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân
chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị
của phụ nữ". Phụ nữ tham gia QLNN là một bảo đảm để các vấn đề giới được
phản ánh trong quá trình ra quyết định, là sự khẳng định về năng lực, trí tuệ
của mình.
Phụ nữ Việt Nam chiếm khoảng 52,48% dân số và gần 48% lực lượng
lao động toàn xẫ hội; hiện nay có khoảng 20% cán bộ, công chức làm công tác
lãnh đạo và quản lý nhà nước từ trung ương tới cơ sở.

Hiện nay, phụ nữ lãnh đạo, quản lý có mặt trên rất nhiều lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, xã hội.
(1) Tỷ lệ Phụ nữ tham gia cấp ủy - Đảng
Nhìn chung, trong các khoá gần đây, tỷ lệ phụ nữ trong các cấp ủy Đảng
tăng. So sánh giữa các cấp, số lượng phụ nữ tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ
các cấp, nhiệm kỳ 2010- 2015 như sau:
- Ban chấp hành Trung ương Đảng chiếm tỷ lệ thấp nhất (9%).
- Tiếp đến là Ban Chấp hành Tỉnh uỷ (13,75%).
- Ban Chấp hành quận/huyện ủy (14,74%).
- Đạt tỷ lệ cao nhất là ở Ban Chấp hành Đảng bộ xã/phường (15,18%).
* Tỷ lệ nữ ủy viên BCH TW Đảng qua các khóa
Qua các kỳ Đại hội

Tỷ lệ

Khóa VII

10,6%

6


Khóa VIII

8%

Khóa IX

7,5%


Khóa X

14,82%

Khóa XI

9%

Ở cấp tỉnh, thành, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia trong cấp ủy Đảng ít có sự
thay đổi, chiếm tỷ lệ thấp:
- Ban Chấp hành tỉnh, thành ủy nhiệm kỳ 2001- 2005 là 11,32%. Nữ
làm bí thư qua các nhiệm kỳ:
- 1991- 1995 là 2,38%;
- 1995- 2000 là 9,43%;
- 2001- 2005 là 3,13%;
- 2005- 2010 là 6,25%.
Trong các ban Đảng tỉnh, thành ủy, cán bộ nữ cấp trưởng chiếm tỷ lệ thấp:
- Trưởng ban Dân vận 18%,
- Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra chiếm 22%,
- Ban Tuyên giáo 6,55%,
- Ban Tổ chức 8%, còn lại đa số nữ làm cấp phó.
Chức danh chủ chốt (bí thư tỉnh ủy) là nữ rất ít. Thực trạng trên cho
thấy, tuy đã có nhiều cố gắng song điều đáng lo ngại là đội ngũ cán bộ nữ
trong cấp ủy Đảng vẫn hẫng hụt, thiếu đồng bộ, cần có giải pháp khắc phục.
Như vậy, có một xu hướng là, càng ở cấp cao thì tỷ lệ phụ nữ tham gia
cấp uỷ và giữ vị trí trọng trách càng thấp. Tỷ lệ trung bình nữ cán bộ ở vị trí
chủ chốt như bí thư, phó bí thư, uỷ viên thường vụ chỉ chiếm khoảng 10% ở
mọi cấp. Phần lớn các nữ uỷ viên thường vụ trong các cấp uỷ chỉ phụ trách
những công việc hành chính, ít liên quan đến nhiệm vụ chiến lược. Hiện nay,
không có phụ nữ trong Bộ Chính trị.

(2) Phụ nữ tham gia trong hệ thống dân cử.
Từ khi thành llập cho đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 12 nhiệm
kỳ. Đã có 1.038 nữ đại biểu được bầu vào Quốc hội (chiếm tỉ lệ 33,1%).
7


• Tỷ lệ nữ là đại biểu quốc hội qua các khóa
Nhiệm kỳ

Tỷ lệ cán bộ nữ

Khóa I

3%

Khóa V

32%

Khóa VII

21,78%

Khóa VIII

18%

Khóa IX

18,8%


Khóa X
Khóa XI

26,22%
27,31%

Khóa XII
Khóa XIII

25,76 %
24,4%

Hiện nay, nước ta được đánh giá là có số đại biểu nữ cao trong Quốc
hội, đứng đầu Châu Á, đứng thứ hai khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (sau
Niu Di-lân) và xếp thứ 9/135 các nước trên thế giới.
Số lượng phụ nữ tham gia các ủy ban xã hội của quốc họi đã tăng lên và
tập trung ở một số lĩnh vực xã hội như:
• Số lượng phụ nữ tham gia vào các ủy ban của Quốc hội
(Theo số liệu của Văn phòng quốc hội)
Lĩnh vực
Tỷ lệ
Ủy ban các vấn đề xã hội

40,1%

Ủy ban văn hóa-giáo dục-thiếu niên nhi đồng

40,1%


Hội đồng dân tộc

43,6%

Ủy ban ngân sách Nhà nước và kinh tế

12,5%

Ủy ban đối ngoại

11,8%

Ủy ban An ninh – quốc phòng

0%

Để lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII, Bộ Chính trị đã
chỉ đạo cần có tỷ lệ thích đáng là đại biểu nữ; đồng thời, Kế hoạch hành động
vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2020 đã đề ra chỉ tiêu cụ thể là đạt
tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XIII sẽ từ trên 25%.
(3) Phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp
8


Theo đánh giá chung, tỷ lệ nữ trong Hội đồng nhân dân các cấp tăng
không đáng kể. Số liệu thực tế cho thấy, ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã, tỷ lệ này
tăng không quá 3%. Về vị trí chủ chốt, ở Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khoá
2004- 2009, toàn quốc có 1 nữ Chủ tịch và 17 Phó Chủ tịch. Ngược lại với số
lượng phụ nữ tham gia ở các cấp uỷ, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo ở Hội đồng nhân
dân càng xuống cấp dưới càng thấp và cũng thấp nhất ở cấp xã, phường.

So sánh giữa nhiệm kỳ 1999 – 2004 với nhiệm kỳ 2011 – 2016 Nữ đại
biểu hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng dần nhưng không đáng kể.
- Cấp tỉnh thành từ 22,33% lên 25,17%
- Cấp quận (huyện) tăng từ 20,12% lên 24,62%
- Cấp xã(phường) tăng từ 16,56% lên 21,71%
(4) Phụ nữ trong cơ quan quản lý nhà nước
Theo Báo cáo của 33 bộ ngành, đoàn thể, tính đến năm 2010.
- Tỷ lệ Chủ tịch nước là: 0%;
- Phó Chủ tịch nước: 1%;
- Thủ tướng : 0%; Phó Thủ tướng: 0%;
- Bộ trưởng: 4,55%; tương đương bộ trưởng: 11,43%;
- Thứ trưởng: 2,75%; tương đương Thứ trưởng: 9,21%;
- Vụ trưởng và tương đương: 20,74%.
(5) Phụ nữ tham gia lãnh đạo trong các bộ, ngành
Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam luôn có nữ Phó Chủ tịch nước. Tỷ lệ
lãnh đạo nữ ở cấp trung ương trong những năm gần đây tăng chậm và ở mức
thấp, dưới 15%. Số lượng tăng lại tập trung ở vị trí cấp phó: phó giám đốc sở
và cấp tương đương; phó giám đốc ban, cục.
Năm 2005, cán bộ nữ đứng đầu hoặc cấp phó các sở, ban, ngành chỉ
chiếm tương ứng là 6% và 14%. Tuy nhiên, số lượng ít ỏi đó lại có chiều
hướng giảm ở một số lĩnh vực, ví dụ như bộ máy tư pháp.
Từ năm 2001 đến năm 2003, tỷ lệ cán bộ nữ tại Toà án nhân dân tối cao
giảm từ 22% xuống 16%; toà án cấp tỉnh cũng tương tự, từ 27% giảm xuống

9


24%. Điều đặc biệt hơn là, số lượng cán bộ nữ ở cấp huyện giảm khá mạnh, tới
13% (từ 35% xuống 22% ).
(6) Phụ nữ tham gia lãnh đạo Ủy ban nhân dân

Uỷ ban nhân dân là cơ quan đại diện chính quyền các cấp, có chức năng
quản lý và điều hành các công việc của địa phương, thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong các cơ quan
này, sự có mặt của phụ nữ tăng, giảm theo các thời kỳ khác nhau, nhưng nhìn
chung là rất thấp so với năng lực của phụ nữ và so với tỷ lệ nữ trong lao động
và dân số.
Số liệu thực tế cho thấy, tỷ lệ nữ là Phó Chủ tịch ở cấp cơ sở chỉ đạt
8,84%. - Tỷ lệ nữ là Chủ tịch ở cấp tỉnh/thành khóa 1999-2004 chỉ có 1,64%.
- Khoá 2005- 2010 đã tăng lên 3,12%, nhưng ở cấp huyện, xã lại có xu
hướng giảm, từ 5,27% ở cả 2 cấp giảm xuống còn 3,62% và 3,42%.
(7) Nhũng bước tiến về trình độ cán bộ, công chức nữ.
Trong hơn 50 năm qua, đội ngũ nữ trí thức trong các ngành khoa học
của Việt Nam nhìn chung là tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên,
nếu so với tỷ lệ nữ trong dân số ( trên 51%), trong lực lượng lao động (trên
49%) và năng lực thực sự của họ thì con số nữ trí thức còn rất khiêm tốn. Tính
đến năm 1999, số cán bộ nữ trong tổng số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên chiếm 37% (so với nam giới), trong đó giáo sư, phó giáo sư là 132
người (chiếm 6,7 %), tiến sĩ là 1.635 (chiếm 19,9 %). Hiện nay, số lượng nữ trí
thức có tăng lên nhưng chỉ mới tăng ở bậc cử nhân, còn các bậc sau đại học thì
không cao lắm.
Theo thống kê, đến giữa năm 2007, cả nước có khoảng 2,7 triệu người
có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5% lực lượng lao động, trong đó có trên
18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ và trên 6000 giáo sư, phó giáo sư.
Trí thức Việt kiều có khoảng 400.000 người, chiếm hơn 10% người
Việt ở nước ngoài. Phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% trong số những người có trình độ
cao đẳng, 34% những người có trình độ đại học, 30% trình độ thạc sĩ, 21% tiến
sĩ và 4% tiến sĩ khoa học.
10



Số lượng các nhà khoa học nữ tham gia quản lý nhà nước ở các cấp còn
thấp và càng ở cấp cao, tỷ lệ này càng thấp hơn. Tại hầu hết các cơ quan quản
lý nhà nước về khoa học, các cơ quan nghiên cứu khoa học, không có cán bộ
nữ tham gia ban lãnh đạo bộ và rất ít phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp viện. Tại
Viện Khoa học tự nhiên Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Việt Nam, là các
trung tâm khoa học lớn nhất Việt Nam, không có cán bộ nữ tham gia ban lãnh
đạo và là viện trưởng; có rất ít là Phó Viện trưởng.
Đến năm 2001, số cán bộ nữ có học hàm, học vị là gần 18.000 người,
song tỷ lệ những người chủ trì các đề tài, dự án khoa học và công nghệ các
cấp, nhất là cấp nhà nước là rất thấp. Từ năm 1991 đến năm 1995, trong tổng
số trên 500 đề tài thuộc 31 chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm
cấp nhà nước, chỉ có 21 cán bộ nữ đảm đương cương vị chủ trì đề tài ( chiếm
dưới 4% ). Từ năm 2000 đến nay, số phụ nữ chủ trì đề tài tuy có tăng lên tới
10% song vẫn còn rất thấp, chưa phản ánh đúng năng lực và khả năng đóng
góp của phụ nữ trong những nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ quan
trọng tầm quốc gia.
2.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong công tác sử dụng
cán bộ công chức nữ.
2.2.1. Những hạn chế trong công tác sử dụng cán bộ, công chức nữ
Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công
cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện
nay, phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự
phát triển chung của xã hội. Vai trò này đang được khẳng định một cách rõ nét
hơn bao giờ hết.
Tuy vậy, công tác cán bộ nữ vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập: tỷ lệ
cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp vẫn còn thấp (thậm chí, ở một
số lĩnh vực bị sụt giảm), cơ cấu không đều, chưa tương xứng với sự phát triển
của lực lượng lao động nữ và phong trào phụ nữ. ở cả 3 cấp Trung ương, tỉnh
(thành), quận (huyện), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy đều dưới 15%, chưa đạt


11


được yêu cầu theo tinh thần Chỉ thị số 46 CT/TW, ngày 6-12-2004, của Bộ
Chính trị.
Hiện nay, có thực trạng, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy càng ở cấp cao càng
giảm, ở các tỉnh miền núi phía Bắc cao hơn các tỉnh đồng bằng. Điều này
chứng tỏ, việc nhìn nhận cán bộ nữ tham gia lãnh đạo thấp do nguyên nhân chị
em chưa có đủ trình độ, năng lực hoặc thiếu nguồn cán bộ nữ lâu nay là chưa
có cơ sở.
Một số ngành nghề đông nữ vẫn chưa có cán bộ nữ giữ vị trí lãnh đạo
chủ chốt. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước có tầm quan trọng chiến lược như
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn
hóa - Thể thao - Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài
chính, Bộ Công Thương... đều chưa có cán bộ nữ giữ chức vụ cấp cao. Đa số
cán bộ nữ lãnh đạo quản lý được bố trí ở cấp thấp (thường là cấp phó).
Bên cạnh đó, còn có tình trạng phân bố không đều về tỷ lệ cán bộ nữ. Ở
cấp tỉnh, thành phố, Tuyên Quang có tỷ lệ cán bộ nữ cao nhất nước chiếm
26,67%, thấp nhất là Cần Thơ 4,25%. Ở cấp quận huyện, cao nhất là TP HCM
với 28,87%, thấp nhất là Bạc Liêu 7,5%. Cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống cơ quan nhà nước, trong tổ chức chính trị xã hội tỷ lệ cũng không cao. Ở
cấp cơ sở, con số này cũng không khả quan hơn.
Tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37 về công tác cán bộ
nữ (tháng 3-2004), Đảng ta đã đánh giá: Những cố gắng và kết quả đạt được
còn chưa tương xứng với những yêu cầu và nhiệm vụ đề ra. Một số cấp ủy,
chính quyền, cán bộ, đảng viên, nhận thức về công tác cán bộ nữ chưa sâu sắc;
nhìn nhận đánh giá phụ nữ còn cầu toàn, khắt khe, chưa tạo điều kiện cần thiết
cho cán bộ nữ vươn lên. Đội ngũ cán bộ nữ phát triển chưa vững chắc, mất cân
đối, thiếu đồng bộ so với yêu cầu phát triển; phân bố không đều tại các địa
phương, các khu vực.

Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền các cấp còn thấp,
nhất là cấp cơ sở. Cán bộ nữ giữ cương vị chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp tuy có tăng nhưng chủ yếu là cấp phó,
12


ít cấp trưởng. Một bộ phận cán bộ nữ chưa thực sự phấn đấu vươn lên, chưa
đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, chưa vượt qua được
những cản trở về gia đình, ngại phấn đấu vươn lên trong học tập, nghiên cứu
khoa học và công tác quản lý cũng như các hoạt động xã hội. Một số cấp hội
chưa chủ động tham mưu đề xuất với Đảng, chính quyền về công tác cán bộ
nữ.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác sử dụng cán
bộ, công chức nữ.
Thứ nhất, do nhận thức về giới và bình đẳng giới trong hệ thống chính
trị chưa đầy đủ và sâu sắc về mặt lý luận và khoa học. Định kiến giới vẫn còn
tồn tại dai dẳng ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, trong gia đình và xã hội.
Nhiều cấp ủy, địa phương, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ quan điểm
công tác cán bộ nữ là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng,
chưa nhận thức rõ yêu cầu khách quan của việc tăng cường số lượng và chất
lượng đội ngũ cán bộ nữ - bộ phận nòng cốt trong phong trào phụ nữ. Vẫn còn
biểu hiện hẹp hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của phụ nữ, cán bộ nữ như
ngại tuyển dụng nữ, đánh giá, sử dụng còn thiếu khách quan. Một bộ phận cán
bộ nữ vẫn còn biểu hiện tự ti, an phận, chưa có ý chí vươn lên, cá biệt còn biểu
hiện hẹp hòi, níu kéo nhau.
Thứ hai, cơ chế, chính sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tính chiến lược lâu dài, thiếu tính đột
phá; - Cơ hội được tham gia đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng
yêu cầu của thời đại đối với cán bộ nữ vẫn khó khăn do cơ chế, chính sách còn
bất cập.

Thứ ba, chúng ta còn thiếu một hệ thống chính sách kinh tế - xã hội
đồng bộ về công tác cán bộ nữ; thứ tư, tình trạng tự ti hoặc níu kéo lẫn nhau
trong giới nữ…
Ngoài ra, phụ nữ cũng có nhiều khó khăn trong cộng việc quản lý như:
công việc gia đình, định kiến giới, dư luận xã hội, phong tục tập quán, văn hóa
dân tộc…Theo nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2006,
13


phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong chăm sóc con cái. Qua điều tra thấy, phụ
nữ làm công việc này xấp xỉ 60%, nam giới dưới 10%, cả nam và nữ trên 30%.
Ở Việt Nam, vẫn tồn tại quan niệm cho rằng, những việc nhà như nấu nướng,
dọn dẹp, chăm sóc con cái là công việc của phụ nữ. Do vậy, khối lượng không
cân bằng là một trong những chỉ số bất lợi cho phụ nữ khi vừa phải thu xếp
công việc gia đình, vừa phải lo toan đảm đương công việc để kiếm sống và
tham gia công tác xã hội.

14


Chương 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
SỬ DỤNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NỮ TRONG CÁC CƠ QUAN
NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
3. 1. Giải pháp chỉ đạo chung:
Để tiếp tục thực hiện công tác cán bộ nữ đạt hiệu quả, Đảng ta đã xác
định mục tiêu tổng quát công tác cán bộ nữ đến năm 2015: Phát triển nhanh và
bền vững đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các cấp trên mọi lĩnh vực, bảo
đảm tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bình đẳng giới trong

bộ máy lãnh đạo, quản lý.
Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11- NQ/TW "Về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", trong đó có
một trong những quan điểm lớn là về xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ
cán bộ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ, coi đó là tất yếu khách quan,
là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng, đã tạo định
hướng chính trị rõ ràng, cụ thể cho các cấp, các ngành thực hiện công tác
cán bộ nữ trong nhiều năm tới, theo hướng tập trung vào công tác làm
chuyển biến nhận thức giới, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử
dụng cán bộ nữ, và chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ nhằm phấn đấu
đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất
khu vực.
3.2. Những giải pháp cụ thể:
Một là, nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và đánh giá
công tác cán bộ nữ trên quan điểm giới.
Các cấp ủy cần tập trung quán triệt nghiêm túc và sâu sắc các quan
điểm, chủ trương về công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ, làm
chuyển biến mạnh nhận thức về bình đẳng giới, về công tác cán bộ nữ. Đưa
vấn đề giới vào nội dung, chương trình giảng dạy trong các trường cao đẳng,
15


đại học và trung học chuyên nghiệp, đặc biệt là trong các học viện (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia...) và các
trường chính trị.
Khắc phục mọi biểu hiện thiếu tin tưởng ở khả năng và hẹp hòi trong sử
dụng cán bộ nữ. Trong việc đánh giá và sử dụng cán bộ nữ, cần căn cứ vào tiêu
chuẩn, hiệu quả công việc, xem xét về khả năng và triển vọng của chị em.
Cùng với việc tin tưởng giao việc, động viên kịp thời, cần chú trọng công tác
giáo dục về vấn đề giới cho phụ nữ, trang bị những kiến thức cơ bản nhằm

nâng cao nhận thức về giới cho cán bộ, hội viên và đông đảo phụ nữ để chị em
có ý thức phấn đấu, tham gia bình đẳng vào quá trình phát triển của đất nước;
tiếp tục tác động tích cực góp phần làm chuyển biến nhận thức về giới của xã
hội.
Hai là, thực hiện quy hoạch cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ mới
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn cán bộ nữ, các cấp ủy coi trọng quy hoạch
cán bộ nữ để đáp ứng yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Công tác quy hoạch cần triển khai đồng bộ ở tất cả
các cấp, các ngành, một cách dân chủ, chặt chẽ, đúng nguyên tắc; ưu tiên
những ngành, lĩnh vực, vùng, miền mà ở đó cán bộ nữ còn quá thiếu. Quy
hoạch phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, gắn với luân chuyển
cán bộ; đồng thời, quy hoạch cán bộ nữ phải được rà soát, bổ sung và điều
chỉnh hằng năm. Có thể quy hoạch từ nhiều nguồn trong lực lượng lao động nữ
đông đảo (52% lực lượng lao động xã hội, 37% lực lượng lao động có trình độ
đại học và cao đẳng). Đó thực sự là nguồn lực phong phú để lựa chọn nhân tài
trong đội ngũ cán bộ nữ.
Ba là, thực hiện tốt công tác tạo nguồn cán bộ nữ và phát triển Đảng
trong phụ nữ.
Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cần đặt trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực của quốc gia. Mỗi cấp, mỗi ngành ưu tiên và quan tâm tuyển dụng
cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ đại học, trên đại học, nhất là những ngành,
16


lĩnh vực phụ nữ chiếm số đông. Từng bước nâng cao tỷ lệ đảng viên là nữ, có
kế hoạch bố trí, phân công công tác để họ được phấn đấu, rèn luyện và trưởng
thành. Chú ý lựa chọn, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, có triển vọng để tạo
nguồn cho những vị trí lãnh đạo cao hơn trong đội ngũ cán bộ nữ đương chức
ở các ngành, các cấp. Đối với lực lượng nữ sinh trong các trường đại học, cao

đẳng, cần chủ động phát hiện, khuyến khích tài năng trẻ, sử dụng và tiếp tục
đào tạo, bồi dưỡng họ... nhằm hình thành được nguồn đội ngũ cán bộ nữ kế
cận, tài năng.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nữ, đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới, trước hết cần cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xây dựng
trường lớp đến nội dung, phương pháp, hình thức và thời gian đào tạo của các
trường, trước hết trong hệ thống trường đào tạo lý luận chính trị từ trung ương
đến cơ sở, phấn đấu để cán bộ nữ tham gia các khóa đào tạo đạt tỷ lệ từ 30%
trở lên. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch và việc bố trí sử
dụng cán bộ nữ. Ưu tiên đào tạo cán bộ nữ cho những vùng đặc biệt khó khăn;
tổ chức đào tạo tại chỗ cho cán bộ - công chức nữ là người dân tộc thiểu số,
tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Năm là, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách nhằm tạo điều kiện
phát triển đội ngũ cán bộ công chức nữ.
Dù ở bất cứ cương vị nào, phụ nữ cũng phải dành thời gian và có trách
nhiệm đối với gia đình. Do bị chi phối bởi công việc gia đình, chị em chịu thiệt
thòi hơn nam giới trong việc học tập và nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin và
tham gia các hoạt động xã hội. Vì vậy, chính sách xã hội phải tập trung giảm
nhẹ công việc gia đình cho phụ nữ để chị em có điều kiện và yên tâm tham gia
các công tác xã hội.
Cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội, xây dựng và ban hành chế độ cân bằng
trách nhiệm của nam giới trong việc cùng chăm sóc con cái, các thành viên trong
gia đình; xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích nữ tài năng trẻ.

17


Thực hiện tốt chính sách về luân chuyển cán bộ nữ và giải quyết hợp lý
vấn đề tuổi nghỉ hưu của cán bộ, công chức là nữ làm công tác quản lý và

nghiên cứu khoa học...
Người phụ nữ Việt Nam hiện đại trong thời kỳ mới nếu được sự hỗ trợ
tích cực từ phía khách quan, cùng với những nỗ lực chủ quan sẽ có cơ hội
đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội, tạo vị thế cho bản thân. Và hi vọng là họ
sẽ không còn gặp những trở ngại về giới trong việc tìm cho mình một cuộc
sống hạnh phúc do những quan điểm không phù hợp nào đó, không còn phải
băn khoăn trăn trở trong sự lựa chọn giữa sự nghiệp và gia đình, không còn
gặp những rào cản không cần thiết từ các chính sách xã hội. Phụ nữ – dù trong
thời đại nào cũng luôn có những vị trí không thể thay thế. “Bên cạnh ánh sáng
lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của tâm hồn
người phụ nữ” (Victor Hugo)

18


KẾT LUẬN
Trong bài phát biểu tại buổi toạ đàm “Vai trò của Phụ Nữ Việt Nam
Trong Thế Kỷ XXI” do Quỹ Phát triển Phụ Nữ Liên Hợp Quốc UNIFEM và
Hội phụ nữ Việt Nam tổ chức dưới sự hỗ trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc
tại Việt Nam, Chủ tịch Hội phụ Nữ Việt Nam Hà Thị Khiết đã tôn vinh người
phụ nữ Việt Nam: “Trong thành tựu chung của đất nước, có sự đóng góp tích
cực của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Là một lực lượng lao động xã hội đông
đảo, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng với sự hội nhập và phát triển theo
xu thế chung của nhân loại”
Công tác cán bộ nữ, công tác phụ nữ là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đảng,
Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày
càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo.

Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa
đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ" (Di chúc). Do vậy, công tác cán bộ
nữ phải được xác định là trách nhiệm của toàn Đảng, của các cấp, các ngành,
đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu và trách nhiệm của tổ chức Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp từ Trung ương đến cơ sở, cũng như bản
thân phụ nữ. Với sự nỗ lực, cố gắng đồng bộ như vậy, vị thế, vai trò của phụ
nữ sẽ ngày càng được nâng lên, chị em sẽ có nhiều đóng góp tích cực vào sự
phát triển chung của xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa chất
lượng và tốc độ của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pháp lệnh cán bộ, công chức [1998] và pháp lệnh sửa đổi bổ sung các năm
2000, 2003.
2. Luật cán bộ, công chức [2008], Hà Nội;
3. Luật bình đẳng giới [2007], Hà Nội,
4. Một số quan điểm pháp luật về cán bộ công chức [2000], Nxb CTQG, HN;
5. Bộ Văn hóa và thông tin [2001], Một số văn bản về công tác cán bộ, công
chức và chế độ chính sách, HN;
6. Học viện Báo chí và Tuyên truyền [2006], Giáo trình quản lý hành nhà
nước, Nxb LĐ – XH, Hà Nội,
7. Chỉ thị số 44- CT/TW, ngày 07/6/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
“Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ phụ nữ”.
8. Chỉ thị số 37- CT/TW, ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương về “Một
số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”.
9. Nghị quyết số 04- NQ/TW ngày 12/07/1997 của Bộ chính trị về việc “Tăng
cường và đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”
10. Nghị quyết số 11- NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị “Về công tác

phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”;

20



×