Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN một số giải pháp nâng cao khả năng viết văn cho học sinh lớp 2 trường TH thạch lâm 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.35 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG VIẾT
VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU
HỌC THẠCH LÂM II

Người thực hiện: Phùng Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác:
Trường Tiểu học Thạch Lâm II, Thạch Thành
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ, NĂM 2016

download by :


MỤC LỤC
Nội dung
MỤC LỤC.
A. MỞ ĐẦU.
I. Lí do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
B. NỘI DUNG.
I. Cơ sở lí luận.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.


III. Giải quyết vấn đề.
1. Các giải pháp thực hiện.
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
2.1. Giáo viên thực hiện tự học, tự bồi dưỡng nghiêm túc.
2.2. Tham mưu cho nhà trường mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy học
2.3. Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt văn miêu tả.
2.4. Xây dựng nền nếp học tập cho học sinh.
2.5. Nâng cao khả năng viết văn qua các phân môn khác trong Tiếng
Việt
2.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong công tác giáo dục.
2.7. Làm tốt công tác khen thưởng, khích lệ học sinh

Trang
1
2
2
3
3
3
3
3
4
6
6
6
6
7
7
16
16

17
18

2.8. Tham mưu cho nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, rèn kĩ năng
sống

18

3. Hiệu quả của vấn đề.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
I. Kết luận.
II. Kiến nghị.

19
19
19
20

1

download by :


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Để đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai
đoạn hiện nay phương hướng chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chính vì vậy phải nâng cao chất lượng đào tạo. Trong hệ thống
giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là cấp học quan trọng nhất, được xem là
cơ sở ban đầu đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Giáo dục Tiểu học giúp học

sinh phát triển toàn diện về đặc điểm, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động,
tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác giáo dục Tiểu học nhằm giúp
học sinh hoàn thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài
về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên
Trung học cơ sở.
Một trong những mơn học đóng góp vai trị quan trọng trong trường Tiểu
học là mơn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học vừa là bộ môn khoa học vừa
là phương tiện để học sinh nắm chắc kiến thức. Các phân môn trong Tiếng Việt
đều có mục đích, vai trị nhất định nhằm phát triển trí tuệ, thẩm mĩ cho người
học. Dạy học Tập làm văn, đặc biệt dạy văn miêu tả cũng không nằm ngồi mục
đích đó. Thơng qua miêu tả người nghe, người đọc có thể hình dung được rõ nét
vật được miêu tả. Mặt khác văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người đọc
thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và đời sống một cách tinh
tế hơn, sâu sắc hơn.
Như chúng ta đã biết nhận thức của học sinh Tiểu học là nhận thức cảm
tính, thường thiên về trực quan hình ảnh, các em thích quan sát, nhân xét sự vật,
hiện tượng bằng con mắt thật của mình. Văn miêu tả sẽ giúp các em phát triển
điều đó, các em có thể giao hồ với thiên nhiên, với thế giới xung quanh, các em
sẽ thấy yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp hơn.
Thông qua dạy miêu tả, việc giao tiếp hằng ngày của các em thuận lợi
hơn, tăng khả năng sử dụng tiếng phổ thông và tạo điều kiện học tập tốt cho các
môn học khác. Có lẽ vì lí do đó, văn miêu tả được đưa vào nhà trường ngay từ
bậc Tiểu học. Từ lớp 2, tuy chưa có riêng các tiết học cụ thể thể văn miêu tả như
các lớp 4, 5 nhưng trong các bài tập của tiết Tập làm văn thì khi dạy dạng bài
quan sát tranh, trả lời câu hỏi; tả ngắn về một số sự vật có liên quan đến mỗi chủ
điểm, các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Khi dạy các dạng bài tập
này, người giáo viên không thể xem nhẹ, coi đây giống như việc giải quyết các

2

download by :


bài tập thông thường mà phải hướng dẫn cho các em theo một quy trình đầy đủ,
đảm bảo, giúp các em có thói quen quan sát, biết rung cảm vào đối tượng miêu
tả, biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, tạo tiền đề để các em học tốt
cách làm các bài văn miêu tả ở lớp trên.
Cũng như một số giáo viên lớp 2 khác, tôi suy nghĩ nhiều về cách dạy viết
văn miêu tả cho học sinh. Đặc biệt rèn cho học sinh không chỉ viết liệt kê mà
còn phải viết hay. Làm thế nào để các em biết quan sát sự vật, hiện tượng một
cách tinh tế, người đọc sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài văn.
Cần sửa cho học sinh viết chuẩn các câu, không viết sai tiếng do yếu tố vùng
miền, tuyệt đối không viết câu sai cú pháp, diễn đạt ý không trọn vẹn. Từ việc
viết đúng các em sẽ biết viết hay, biết đưa những hình ảnh so sánh, nhân hoá vào
miêu tả để bài văn sinh động hơn. Qua đó thấy được việc viết văn miêu tả của
học sinh vẫn cịn nhiều vướng mắc. Tơi nhận thấy việc giúp học sinh viết văn
hay là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết. Xuất phát từ những trăn trở này tôi
đã đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp rèn
kỹ năng viết văn cho học sinh lớp 2 mà bản thân đã áp dụng trong năm học 2014
– 2015 và năm học 2015 -2016 đã có kết quả hết sức đáng mừng. Do đó tơi
mạnh dạn viết lên sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao khả
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Thạch Lâm II.
II. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài với mục đích đề xuất một số biện pháp thích hợp, có
tính khả thi về việc giúp học sinh nâng cao khả năng viết văn, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục cho học sinh để đáp ứng với mục tiêu cấp học.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của vấn đề là các biện pháp nhằm giúp học sinh lớp

2 ở trường Tiểu học Thạch Lâm II – Thạch Thành viết tốt văn miêu tả.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu lí luận phương pháp dạy học.
- Quan sát, phỏng vấn.
- Khảo sát, điều tra thực tiễn.
- Dạy thực nghiệm.
- Phân tích, hệ thống hoá, tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận.
Hiện nay cấp Tiểu học được coi là cấp học nền tảng. Do vậy, giáo dục
Tiểu học có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Ở cấp học này các em được học, được
3

download by :


phát triển tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất nhằm hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam toàn diện. Để thực hiện được các yếu tố đó người giáo
viên phải có những phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp.
Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với học sinh bởi nó là mơn học cung cấp cho các em những kiến thức cần
thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển tồn diện, hình thành
ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thơng minh,
hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới.
Mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: nghe
- nói - đọc - viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng
trên. Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân mơn khó. Bởi ở lứa tuổi của các
em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp, việc diễn đạt ngôn ngữ hạn chế. Bên
cạnh đó cịn có khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của học sinh
ở địa bàn dân cư. Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học

phân mơn Tập làm văn nói riêng.
Như đã nói ở trên, dạy học về miêu tả ở lớp 2 chưa có tiết học riêng mà
chỉ thơng qua các bài tập và được chia làm hai phần rõ ràng:
+ Văn kể: Kể về người, kể về con vật
+ Văn tả: Tả cảnh, tả con vật, tả biển, tả cây cối, tả con người
Vì vậy muốn tổ chức dạy tốt cho học sinh, giáo viên cần nắm vững bản
chất của kĩ năng viết văn, hiểu rõ về quá trình dạy viết văn miêu tả.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
1. Học sinh:
Đầu năm học 2015 - 2016, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2. Trường
tơi cơng tác đóng trên địa bàn xã Thạch Lâm, Thạch Thành. Đây là một xã vùng
cao, điều kiện đi lại cực kỳ khó khăn, có những học sinh cách xa trường tới 5
km đường đất.
Lớp tơi chủ nhiệm và giảng dạy có 26 em, số học sinh là con hộ nghèo
chiếm tới 80%. Khả năng học trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em
phát triển, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, kèm theo phát triển
chậm về trí nhớ, học trước quên sau.
Qua nghiên cứu tôi thấy các em mắc lỗi viết văn là do:
+ Các em chưa nắm vững cách làm các kiểu bài miêu tả, còn xem nhẹ việc quan
sát trực tiếp đối tượng miêu tả, còn yếu trong kĩ năng xây dựng bố cục, chọn ý
và sắp xếp ý, trong dùng từ, diễn đạt. Bài văn của các em cịn mang tính kể lể,
liệt kê, khơ khan, thiếu hình ảnh cảm xúc. Từ đó, bài làm của học sinh chỉ đơn
thuần như theo kiểu viết đủ ý, dập khuôn, ý nghèo nàn, lời văn sơ lược, không
4

download by :


thể hiện được cảm xúc riêng. Do đó, học sinh cảm thấy ngại khi học Tập làm
văn, nhất là học dạng văn miêu tả dẫn đến chất lượng dạy học văn miêu tả ở lớp

2 còn chưa cao.
+ Do đặc trưng vùng miền, ảnh hưởng phương ngữ, nghèo vốn từ, chưa biết sử
dụng từ ngữ gợi tả, gợi cảm, viết câu sai ngữ pháp.
+ Do sự chủ quan của học sinh trong việc viết văn, khơng có sự chuẩn bị trước
cho tiết học Tập làm văn. Khi viết chỉ có câu trả lời, liệt kê khơng có từ ngữ để
miêu tả.
+ Học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập trong
nhóm cũng như trước lớp, thể hiện rõ khi trả lời các câu hỏi của giáo viên.
2. Giáo viên:
Khi lên lớp, đa số giáo viên còn dạy theo cách truyền thống, chưa áp dụng
các phương pháp dạy học mới; phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách giáo viên dẫn
đến khơng có sự sáng tạo, chưa sinh động, từ đó hạn chế khả năng tiếp thu và
sáng tạo của học sinh. Nhiều giáo viên khi dạy cịn chú trọng lí thuyết, xem nhẹ
việc luyện kĩ năng, thực hành; Chưa tạo điều kiện cho học sinh đuợc quan sát
thực tế mà chỉ ngồi trong lớp tưởng tượng về đối tượng quan sát hoặc dựa vào
văn mẫu. Vì thế, học sinh viết văn một cách máy móc, rập khuôn, ý nghèo nàn,
lời văn sơ lược, đơn giản, khơng có cảm xúc chân thực. Một số giáo viên chưa
quan tâm đến hết các đối tượng học sinh. Mặt khác việc giáo viên nhận xét, sửa
chữa cho học sinh sau khi chấm bài chưa triệt để.
Bên cạnh đó, do điều kiện giảng dạy của giáo viên cịn nhiều khó khăn,
các tài liệu tham khảo, tranh ảnh, vật thật để học sinh quan sát cịn ít, chưa rõ
nét.
3. Gia đình:
Người dân nơi đây chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp, diện tích đất canh
tác ít, một số gia đình phải đi làm ăn xa. Cuộc sống người dân cực kỳ vất vả nên
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của các em.
Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh chưa thực sự chú ý đến việc học tập của
con em mình. Phụ huynh chưa mua đầy đủ đồ dùng học tập, chưa xây dựng góc
học tập, chưa thường xuyên nhắc nhở việc học bài ở nhà của học sinh.....
4. Nhà trường:

Chưa có nhiều tranh, ảnh phục vụ cho mơn học, thời gian dành cho các
buổi hoạt động ngoại khoá, rèn kĩ năng sống cịn ít.
Mắc phải những vướng mắc trên, do nhận thức của người dạy người học,
nhận thức của cha mẹ chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc viết văn miêu tả.
Bản thân mỗi giáo viên còn dạy theo kiểu công thức, hướng dẫn học sinh chưa
5

download by :


thật tỉ mỉ, chu đáo. Về phía học sinh có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc viết
văn của các em như: việc chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ chưa tốt, chưa nắm vững
cách viết văn miêu tả, ý thức rèn luyện chưa tốt ảnh hưởng từ phía gia đình…
Từ đó nếu khơng uốn nắn kịp thời sẽ hình thành thói quen xấu cho học sinh.
III. Giải quyết vấn đề
1. Các giải pháp thực hiện
+ Giáo viên thực hiện tự học, tự bồi dưỡng nghiêm túc.
+ Tham mưu cho nhà trường mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy học
+ Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt văn miêu tả.
+ Xây dựng nền nếp học tập cho học sinh.
+ Nâng cao khả năng viết văn miêu tả qua các phân môn khác trong Tiếng Việt.
+ Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong cơng tác giáo dục.
+ Làm tốt cơng tác khen thưởng, khích lệ học sinh
+ Tham mưu cho nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, rèn kĩ năng sống
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
2.1. Giáo viên thực hiện tự học, tự bồi dưỡng nghiêm túc.
Vai trị của người thầy vơ cùng quan trọng. Vì vậy giáo viên cần phải có
kiến thức chuyên sâu, nắm vững phương pháp dạy học, cấu trúc chương trình.
Bản thân giáo viên là người truyền đạt kiến thức cho học sinh, nếu người
giáo viên có vốn kiến thức về dạy văn miêu tả còn mơ hồ, hời hợt là một điều

khó để có thể giúp các em học tốt. Chính vì vậy, muốn học sinh học tốt thì bản
thân người giáo viên phải ln có tinh thần học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu, nắm
chắc, chun sâu về việc dạy viết văn miêu tả, về phương pháp dạy học sao cho
phù hợp với đối tượng học sinh. Giáo viên cần xác định đúng vị trí, mục tiêu của
mỗi bài học. Mỗi giáo viên ln tích lũy kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy,
dự giờ đồng nghiệp để học hỏi và rút kinh nghiệm về phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học.
Người giáo viên phải ln tăng cường sự linh hoạt sáng tạo trong giảng
dạy, cụ thể trong việc xây dựng bài sao cho phù hợp sát với đối tượng học sinh
của mình. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học: Thiết kế, hướng dẫn học sinh
thực hiện các hoạt động học tập bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú phù
hợp với mỗi bài tập, với trình độ của học sinh. Tạo điều kiện cho các em tham
gia học tập một cách chủ động, sáng tạo. Giáo viên chuẩn bị và sử dụng tốt các
đồ dùng dạy học trong khi quan sát đối tượng miêu tả như tranh ảnh, vật thật,
không gian quan sát.
Bản thân tôi đã quan tâm, chú ý việc đọc các tài liệu, sách báo. Tôi ghi lại
những bài văn, đoạn văn hay vào nhật kí để làm tài liệu phục vụ giảng dạy.
6

download by :


Ví dụ 1: Ảnh Bác Hồ lớp em được treo long trọng phía trên tấm bảng, dưới lá
quốc kì nền đỏ sao vàng. Trong ảnh Bác có mái tóc bạc phơ và bộ râu hơi dài,
trông như một ông tiên. Da Bác hồng hào, vầng trán Bác cao, lộ rõ vẻ thơng
minh. Càng nhìn ảnh Bác, em càng quyết tâm thực hiện năm điều Bác Hồ dạy để
xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. (Văn mẫu lớp 2)
Ví dụ 2: Các chàng Dế choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện
thuốc phiện. Đã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến nửa lưng, hở cả hai
mạng sườn như người cởi trần mặc áo gi-lê. (Dế Mèn phiêu lưu kí – Tơ Hồi)

2.2.Tham mưu cho nhà trường mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy học.
Trước khi tham mưu cho nhà trường, tôi đã nghiên cứu kĩ nội dung,
chương trình sách giáo khoa. Mặt khác, kiểm kê lại đồ dùng trong thư viện nhà
trường. Từ đó có ý kiến đề nghị với nhà trường nên mua sắm thêm đồ dùng gì
và mua vào thời điểm nào cho hợp lí. Tranh, ảnh dành cho phân mơn Tập làm
văn cịn ít nên tơi chủ yếu tham mưu cho nhà trường mua thêm tranh, ảnh để
phục vụ môn học.
2.3. Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt văn miêu tả.
2.3.1. Phân tích đề bài:
Cũng như tất cả các bài tập ở môn học khác, để làm được một bài văn
hoàn chỉnh, bước đầu tiên các em phải làm là phân tích đề bài. Giáo viên hướng
dẫn các em tìm hiểu, nắm bắt yêu cầu đề ra. Đọc kĩ đề sẽ giúp học sinh hiểu yêu
cầu của đề bài, nắm được thể loại văn, xác định đúng đối tượng miêu tả và trọng
tâm miêu tả. Thông qua việc làm này bài làm của các em sẽ làm bài tốt hơn,
chắc chắn hơn. Mặt khác, việc giúp học sinh phân tích đề cịn tạo cho các em có
thói quen làm việc khoa học, có trình tự, tạo tiền đề để học sinh có thể học tốt
hơn Tập làm văn ở các lớp trên.
Thông thường đề bài Tập làm văn ở lớp 2 chỉ là một bài tập của tiết học.
Đầu tiên tôi yêu cầu các em đọc kĩ yêu cầu bài tập, xác định các từ trọng tâm
của đề bài, giáo viên gạch chân dưới các từ đó và hướng dẫn học sinh về thể
loại, kiểu bài, nội dung miêu tả, trọng tâm miêu tả.
Ví dụ 1: Tuần 15 – Bài tập 3 (TV2, tập 1- trang 126)
Viết một đoạn văn ngắn khoảng 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc
anh, chị, em họ) của em.
Giáo viên hướng dẫn các em xác định yêu cầu của đề bài như sau:
+ Em hãy đọc kĩ yêu cầu bài tập và cho biết đề bài yêu cầu gì? Viết một đoạn
văn ngắn khoảng 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em họ) của
em.
+ Hãy kể tên các anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em họ của em? (HS nêu)
7


download by :


+ Em sẽ chọn ai để tả? (HS nêu)
+ Kể về anh, vậy em kể về những điều gì? (Kể đơi nét về hình dáng, tính tình,
những việc anh thường làm …)
+ Kể hình dáng của anh, em kể những gì? (Vóc dáng, tuổi, làn da, mái tóc, …)
+ Kể những việc làm ở nhà của anh, em định kể những gì? (Việc anh thường
làm, sự nhường nhịn của anh đối với em …)
+ Diễn đạt tình cảm đối với anh, em sẽ nói như thế nào? (Em rất thương anh…)
Ví dụ 2: Tuần 21 – Bài tập 3a (TV2, tập 2- trang 30)
Viết từ 2,3 câu về một loài chim mà em thích.
- Tương tự như tiết trước, giáo viên cho HS đọc yêu cầu bài tập, cả lớp
đọc thầm theo. Dùng một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh nắm vững đề bài:
+ Đề bài yêu cầu gì? (Viết từ 2,3 câu về một lồi chim mà em thích).
+ Hãy kể tên các lồi chim mà em biết? (HS kể)
+ Em sẽ chọn lồi chim gì để tả? (HS nêu)
+ Kể về lồi chim đó, em sẽ kể những đặc điểm gì? (Kể đơi nét về hoạt động,
thói quen của lồi chim; hình dáng; tình cảm của em dành cho lồi chim đó…)
2.3.2. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả và ghi sổ tay những
điều quan sát:
a. Quan sát đối tượng miêu tả (trực tiếp hoặc gián tiếp):
Như đã nói, nhận thức của học sinh là nhận thức cảm tính, thiên về trực
quan hình ảnh. Vì vậy khi làm bài văn miêu tả, việc các em quan sát trực tiếp sự
vật rất quan trọng. Tơi ln khích lệ học sinh quan sát bằng nhiều giác quan như
thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác và nhìn sự vật bằng cách nhìn
thẩm mĩ. Có như vậy, khi sự vật được đưa vào miêu tả sẽ đẹp, sẽ sinh động hơn.
Miêu tả là phản ánh những hình ảnh có thực vào trong bài văn nhưng tơi
ln hướng các em phải có sự lựa chọn, biết chắt lọc, không nên kể liệt kê, kể

khô khan, thấy cái gì viết cái đó mà phải tìm ra cái tinh tế, đặc biệt của sự vật để
miêu tả.
Trong khi học sinh quan sát, tôi hướng dẫn các em quan sát kĩ đối tượng,
chú ý đến từng chi tiết nhỏ, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của nó.
Ví dụ 1: Tuần 16- Bài tập 2 ( TV2, tập 1 - trang 137)
“Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết”.
Để tránh việc áp đặt cho học sinh, trước tiên tôi cho các em kể về các con
vật ni mà em biết. Sau đó tơi hướng dẫn học sinh quan sát một con vật nuôi,
tôi chuẩn bị sẵn một con mèo thật và hệ thống câu hỏi gợi ý:
+ Con mèo màu gì? (Lơng mèo màu mun/ đen …)
+ Dùng tay sờ vào bộ lông, em thấy thế nào? (Mềm, mượt/ rất thích…)
8

download by :


+ Mắt mèo như thế nào? (Mắt tròn, xanh biếc/ trơng như hai hịn bi)
+ Miệng mèo to hay nhỏ? (Miệng nhỏ, có ria mép...)
+ Bàn chân chú mèo như thế nào? (Bốn chân nhỏ có móng vuốt, bàn chân mềm,
di chuyển nhẹ nhàng…)
+ Lúc ngủ trơng nó thế nào? (Nằm phơi nắng ngồi sân, vùi đầu vào trong, co
mình lại, hai mắt lim dim....)
Để kết quả quan sát được phong phú hơn tôi gợi ý học sinh tả cảnh vật
xung quanh bằng một số câu hỏi gợi ý:
+ Cảnh vật xung quanh như thế nào? (Hàng cau thẳng tắp, đu dưa theo gió/
Những bơng hoa hồng toả hương thơm ngào ngạt như vui đùa cùng ông mặt
trời...)
+ Bầu trời như thế nào? (Nền trời xanh thẳm/ Ông mặt trời tỏa ánh nắng chói
chang/ Chị gió múa reo…)
Ngồi việc quan sát trực tiếp sự vật thì tưởng tượng trong văn miêu tả

cũng đóng vai trị rất quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà sự vật được miêu tả sẽ
sinh động hơn, những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hiện lên luôn sống động. Khi
quan sát tôi đã hướng dẫn các em quan sát phải gắn liền với so sánh, liên tưởng,
phải tìm ra những nét tương đồng, độc đáo của sự vật gắn liền với tình cảm của
người tả.
Ví dụ 2: Tuần 26 “Tả ngắn về biển” (Bài tập 2 -TV2, tập 2, trang 76).
Về trực quan hình ảnh mà nói, biển là một sự vật trừu tượng, học sinh khó
tưởng tượng đặc biệt là học sinh miền núi. Nếu đưa biển ra để so sánh với sông,
suối, ao, hồ để hình thành khái niệm về biển cho các em cũng không rõ nét. Mặt
khác, không thể đưa học sinh đi quan sát trực tiếp biển được. Do vậy, tôi dùng
tranh ảnh vẽ cảnh biển để các em quan sát, tưởng tượng để miêu tả. Tôi đã
hướng dẫn các em như sau:
+ Tranh vẽ cảnh biển vào lúc nào? (Tranh vẽ cảnh biển vào buổi sáng)
+ Em thấy mặt biển như thế nào? (Mặt biển rộng/ mênh mông/ không thấy bờ
như sơng…)
+ Nước biển màu gì? (Biển khốc chiếc áo màu xanh/ nước biển xanh biếc tung
bọt trắng …)
+ Trên mặt biển, có những gì? (Sóng biển, những cánh buồm đang lướt sóng...)
+ Sóng như thế nào? (Sóng biển xanh nhấp nhơ/ Sóng biển như dềnh lên...…)
+ Em đã nghe thấy tiếng sóng biển chưa? Tiếng sóng biển như thế nào? (Sóng
biển vỗ rì rầm ...)
Tả cảnh biển khơng chỉ tả những gì về biển mà tơi cịn hướng dẫn học
sinh tả những vạn vật xung quanh như: Mây, ông mặt trời, bãi cát, chim…
9

download by :


+ Bầu trời như thế nào? (Mặt trời từ từ nhơ lên, lơ lửng như một quả cam chín
mọng/ Những đám mây màu xanh thẳm/ Những chú hải âu đang chao lượn...)

Ví dụ 3: Tuần 28 “Tả ngắn về cây cối” (Bài tập 2,3 -TV2, tập 2, trang 90).
Qua bài tập này, học sinh sẽ nắm được hình dáng, đặc điểm, mùi vị của
quả măng cụt thông qua nội dung bài đọc. Nhưng nếu chỉ dựa vào bài đọc này
thì học sinh chỉ hiểu trừu tượng, chưa sát thực tế vì nhiều học sinh chưa thấy và
chưa được ăn quả măng cụt.
Vào tiết học buổi chiều tôi đã chọn cho các em quan sát một loại quả thật,
gần gũi với các em như quả cam. Sau đó tơi cũng đưa ra hệ thống câu hỏi để các
em trả lời rồi viết thành đoạn văn.
+ Quả hình gì? (Quả cam hình tròn)
+ Quả to bằng chừng nào? (Quả to bằng nắm tay)
+ Quả màu gì? (Quả màu cam)
+ Cuống nó như thế nào? (Cuống nó nhỏ, màu xanh)
+ Ruột quả cam màu gì? (Ruột màu cam/ vàng nhạt...)
+ Các múi như thế nào? (Các múi xếp chồng lên nhau, phía ngồi có màng...)
+ Mùi vị quả cam ra sao? (Quả cam ăn ngọt lịm/ ngọt đậm... )
b. Ghi sổ tay những điều quan sát:
Quan sát sự vật là một việc làm rất quan trọng nhưng để biết chắt lọc, ghi
lại những điều đã quan sát một cách cụ thể là một việc làm khó. Do vậy sau khi
gợi ý cho học sinh trả lời miệng lần lượt theo câu hỏi tôi cho học sinh ghi chép
lại vào vở những điều quan sát được theo hệ thống câu hỏi một cách vắn tắt, ghi
những ý quan trọng để phục vụ cho việc viết đoạn văn. Tôi nhắc nhở học sinh
ghi theo hệ thống, logic, không ghi lộn xộn để khi viết đoạn văn các em sẽ sắp
xếp các ý theo trình tự.
- Việc làm đầu tiên, giáo viên cho học sinh đến điểm cần quan sát sự vật được
miêu tả bằng tranh ảnh phóng to hoặc vật thật.
- Thơng qua hệ thống câu hỏi gợi ý, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng
các giác quan, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của đối tượng.
- Hướng dẫn học sinh quan sát phải có sự lựa chọn, khơng nên thấy cái gì là tả
cái đó mà phải tìm ra nét đặc biệt, độc đáo chủ yếu của sự vật, hiện tượng, tránh
liệt kê, kể khô khan.

- Yêu cầu các em ghi chép tóm tắt những điều quan sát được.
Ví dụ: Tuần 21 – Bài tập 3 (TV2, tập 2- trang 30)
10

download by :


Viết từ 2,3 câu về một loài chim mà em thích.
- Để học sinh có thể thực hiện tốt bài tập ở tiết này, tôi đã giao nhiệm vụ cho các
em quan sát kĩ về hình dáng, màu sắc, thói quen, hoạt động của một loài chim và
ghi chép lại điều đã quan sát bằng các câu hỏi gợi ý:
+ Em định tả lồi chim gì?
+ Lơng chim màu gì? Sờ vào bộ lông em thấy như thế nào?
+ Chân chim như thế nào?
+ Mỏ chim giống cái gì?
+ Tiếng hót của chim nghe thế nào?
+ Hằng ngày, chim thường làm gì?
+ Em có tình cảm như thế nào với lồi chim đó?
2.3.3. Tăng khả năng sử dụng vốn từ và dùng các biện pháp nghệ thuật trong
miêu tả:
a. Hướng dẫn học sinh tích luỹ, mở rộng vốn từ:
Như ta đã biết vốn từ của học sinh lớp 2 rất ít thậm chí có thể nói là nghèo
nàn. Do vậy khi làm văn các em chưa có và chưa biết lựa chọn từ ngữ để miêu
tả. Xuất phát từ lí do đó tơi thấy việc mở rộng vốn từ cho học sinh là việc làm
rất quan trọng và cần thiết, việc làm này cần được tiến hành thường xuyên và
mang tính lâu dài. Có thể kết hợp với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt
để cung cấp nhiều vốn từ cho học sinh.
Tôi đã áp dụng một vài cách khi dạy Tập làm văn và thấy hiệu quả của
việc làm đó tương đối tốt.
Ví dụ 1: Tuần 31 – Bài tập 3 ((TV2, tập 2- trang 114)

Viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu về ảnh Bác Hồ.
Khi tả về hình dáng Bác Hồ, các em học sinh chưa biết cách chọn từ.
Nhiều học sinh miêu tả “Vầng trán Bác to” hay “Tóc Bác trắng phau”, “Da Bác
trắng muốt”. Từ việc chọn từ khơng hợp lí, câu văn các em miêu tả sẽ không hay
khiến người đọc sẽ hiểu sai nội dung các em muốn tả. Tôi hướng dẫn học sinh
như sau:
+ Để miêu tả vầng trán của Bác Hồ các em có thể thay thế từ to bằng từ nào cho
hợp lí? (cao, rộng)
+ Em có thể lựa chọn từ ngữ nào hay hơn để miêu tả tóc của Bác cho? (bạc phơ)
+ Từ trắng muốt có dùng để chỉ màu da của Bác hay không? Ta có thể thay thế
từ nào cho hợp lí? (hồng hào)
Hoạt động trị chơi trong dạy học ln thu hút học sinh và luôn mang lại
kết quả cao. Tôi đã tổ chức hoạt động trò chơi khi dạy bài Tập làm văn tuần 15
Ví dụ 2: Tuần 15– Bài tập 3 ((TV2, tập 1- trang 126)
11

download by :


Hãy viết từ 3 đến 4 câu kể về anh chị em ruột (hoặc anh chị em họ) của
em.
Tôi đã tổ chức để các em thi tìm những từ miêu tả vóc dáng, đơi mắt, màu
da, tính tình ... của nhân vật sẽ tả. Tôi đã lập một bảng phân loại để các nhóm
điền vào, sau đó đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả.
Bước tiếp theo giáo viên và các nhóm khác nhận xét, bổ sung, lựa chọn
tìm ra những từ đúng và hay.
Thông qua hoạt động này các em đã tìm được nhiều từ và
ghi nhớ nhanh. Cụ thể:
Vóc dáng
Xinh xắn, lom

khom, dong
dỏng, nhỏ
nhắn, mập
mạp, vạm vỡ,
thanh mảnh,
gầy đét…

Mái tóc
Đen nhánh,
óng ả, đen
mượt, lơ thơ,
bạc phơ, hoa
râm, tóc dài
óng mượt,
óng ả ...

Đơi mắt
Trịn xoe, đen
láy, tinh anh,
sáng ngời, sắc
sảo, linh lợi,
mắt sáng long
lanh ...

Màu da
Nõn nà, trắng
trẻo, trắng
hồng, trắng
mịn, nhăn
nheo, nhẵn

nhụi, căng
bóng…

Tính cách
Vui vẻ, hoạt
bát, nhanh
nhẹn, cởi mở,
quan tâm,
siêng năng,
lười biếng,

Để tăng vốn từ cho học sinh, vào các tiết học buổi chiều tôi đã đọc cho
học sinh nghe một số đoạn văn hay miêu tả về màu sắc để các em thấy được sự
khác nhau:
Ví dụ 3: Luá chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả vàng hoe. Trong
vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không thấy cuống, như những chuỗi
tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Từng chiếc lá mít vàng xẫm. Tàu đu đủ, chiếc lá
sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi. Buồng chuối đốm quả chín vàng. Những tàu
lá chuối vàng ối xỗ như những đi áo, vạt áo... Bụi mía vàng xọng, đốt ngần
phấn trắng. Dưới sân, rơm và thóc vàng dịn. Quanh đó, con gà con chó cũng
vàng mượt. Mái nhà phủ một màu rơm vàng mới. (Tơ Hồi)
b. Sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào việc viết văn miêu tả:
Muốn có một đoạn văn hay, sinh động, thu hút, hấp dẫn người đọc cần
phải sử dụng nghệ thuật trong miêu tả.
Miêu tả không chỉ liệt kê, kiểu trả lời câu hỏi, tơi khích lệ các em đưa
hình ảnh so sánh, nhân hố vào đoạn văn để bài văn miêu tả hay hơn.
Thông qua một số câu hỏi gợi ý tôi đã hướng dẫn các em nói câu văn có
sử dụng biện pháp so sánh.
Ví dụ 1: Tuần 26– Bài tập 2 (TV2, tập 2- trang 76)
12


download by :


+ Em thấy mặt trời giống cái gì? (Mặt trời ửng đỏ đang dần nhơ lên như một
quả bóng trịn xoe).
+ Mặt biển giống như gì? (Mặt biển như một chiếc thảm xanh khổng lồ)
Ví dụ 2: Tuần 21– Bài tập 3 ((TV2, tập 2- trang 30)
+ Sờ vào bộ lơng chim em có cảm giác như thế nào? (Mềm mượt như nhung)
+ Chân chim giống như cái g? ( Đôi chân nhỏ như hai que tăm)
Tôi đặt ra câu hỏi để các em có thể hiểu cách miêu tả có sự so sánh sẽ
sinh động hơn, lơi cuốn người đọc hơn. Từ đó giáo viên giúp học sinh nắm rõ
hơn về so sánh. Khi miêu tả muốn làm cho sự vật đẹp hơn thì ta phải so sánh sự
vật đó với một sự vật khác với những nét độc đáo, nổi bật hơn cái thực, cái được
nhìn thấy cụ thể. Cách so sánh phải ví von và thể hiện được sự liên tưởng độc
đáo riêng của người viết.
Mỗi một biện pháp tu từ trong văn miêu tả đều có cái hay riêng của nó.
Nếu như so sánh giúp người đọc hiểu rõ hơn về văn miêu tả thì nhân hoá lại
giúp người đọc cảm nhận được cái hay, cái ngộ nghĩnh của sự vật.
Tôi cho học sinh so sánh các cặp câu cùng tả một sự vật, để các em lựa
chọn.
Cách thứ nhất
Đàn chim hót véo von vào mỗi buổi
sáng
Mùa hè, sân trường đỏ rực màu hoa
phượng
Những chùm cam bóng mượt, nặng
trĩu

Cách thứ hai

Những chú chim đua nhau ca hát chào
đón bình minh
Mùa hè, sân trường khốc chiếc áo
hoa đỏ rực
Chị cam bóng mượt, khoe những
chùm quả nặng trĩu

Khi đưa ra so sánh, đa số các em đều có chung nhận xét cách miêu tả ở
câu văn thứ hai hay hơn. Tôi đã mạnh dạn đưa ra câu hỏi Vì sao nó hay hơn? (vì
hình ảnh của con chim, sân trường, chùm cam có những cử chỉ giống như con
người, ngộ nghĩnh, đáng u). Từ đó tơi giải thích và hướng dẫn các em: Cách
miêu tả ở câu văn thứ hai được sử dụng biện pháp nhân hoá, tức là sử dụng
những từ tả người để gọi, tả các sự vật.
Từ việc học sinh nắm được cái hay khi sử dụng biện pháp nhân hố trong
viết văn, tơi giới thiệu cho các em cách nhân hoá các sự vật:
* Cách gọi tên sự vật:
Có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Anh trống choai, chú mèo
mun, cô mây, bác mặt trời, chú chim ...
* Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật:
- Anh trống choai kiêu ngạo.
13

download by :


- Luỹ tre bần thần
- Chị gió mải chơi.
- Chú mèo mun tinh nghịch.
- Ngọn mía múa reo trước gió.
2.3.4. Khuyến học sinh viết đoạn văn khác nhau:

Ở lớp 2, yêu cầu của phân môn Tập làm văn chưa cao. Các em chỉ cần
miêu tả sự vật đơn giản, sơ lược, đúng nội dung đề bài đưa ra thì bài văn đã đạt
yêu cầu. Mặt khác, thời gian làm bài ở lớp ít, các em lại bị tri phối bởi hệ thống
câu hỏi gợi ý để tự trả lời theo kiểu chắp đi rồi hồn chỉnh bài văn của mình.
Vì vậy mà bài văn của các em thường hay giống nhau, khơng đúng cú pháp,
hình ảnh khơng sinh động, khơng có sự sáng tạo. Vậy làm thế nào để các em có
thể viết một đoạn văn miêu tả sinh động, giàu hình ảnh cảm xúc, sáng tạo, đúng
cú pháp mà bài làm của các em khác nhau. Tôi đã áp dụng cách làm như sau:
Ví dụ :
Tuần 13– Bài tập 3 (TV2, tập 1- trang 110)
Dựa vào các câu trả lời ở bài tập 2, viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5
câu) kể về gia đình em.
Bài tập này gồm các câu hỏi gợi ý như sau:
+Gia đình em gồm mấy người? Đó là những ai?
+ Nói về từng người trong gia đình em
+ Em yêu quý những người trong gia đình em như thế nào?
Các em thường viết về gia đình mình như sau:
(1) Nhà em có bốn người. Bố em làm nghề thợ xây. Mẹ em hay ra đồng trồng
lúa, cắt cỏ. Em học lớp 2 và em gái em 4 tuổi. Em rất yêu gia đình của mình.
(2) Gia đình em gồm ba người. Bố mẹ em đều làm nghề nông nghiệp. Năm nay
em 7 tuổi, đang học lớp 2. Mọi người trong gia đình em rất yêu thương nhau.
Học sinh lớp 2 còn nhỏ, các em rất thật thà. Do vậy khi làm văn các em
sẽ khơng chép văn mẫu và cũng khơng nhìn nhau nhưng ta sẽ thấy học sinh lớp
2 kể về gia đình gần giống nhau. Dễ tìm ra nguyên nhân: vì các em cùng làm
một đề bài, cùng một gợi nên bài văn tương tự nhau là điều hiển nhiên.
Để bài viết của các em có những cảm xúc chân thực, hay hơn tôi đã
hướng dẫn thêm cho học sinh một số câu hỏi:
+ Ngồi cách trả lời gia đình em có 4 người ta có thể nói cách nào khác?(Nếu
tham gia đội chơi có bốn người thì gia đình em có thể lập được một nhóm)
+ Người ta thường ví ba người trong một nhà như cái gì? (Ai cũng bảo mọi

người trong gia đình em như một cái kiềng ba chân vững chắc)
14

download by :


Khi nói về cơng việc của từng người trong gia đình, giáo viên giúp học
sinh tìm hiểu những từ ngữ nói về đặc điểm, tính chất cơng việc của người đó
như: đảm đang, thức khuya dậy sớm, tần tảo, bận rộn, cần cù...
(1) Hằng ngày mẹ luôn bận rộn với công việc đồng áng nhưng không quên lo
cho chúng em từng bữa ăn, giấc ngủ.
(2) Còn bố chẳng lúc nào được nghỉ tay với đàn lợn con, với vườn cây ăn quả.
Với cách làm trên, tôi đã giúp học sinh viết được đoạn văn có cảm xúc,
giàu hình ảnh, chân thực, sáng tạo mà các đoạn văn khác nhau nhưng vẫn đảm
bảo yêu cầu của đề bài.
2.3.5. Thường xuyên nhận xét, chữa bài cho học sinh.
Việc nhận xét, chữa bài cho học sinh là việc làm diễn ra thường xuyên,
liên tục. Thông qua việc chữa bài học sinh sẽ phát hiện ra lỗi sai, sẽ tìm thấy
hướng làm dúng cho bài văn. Nó giúp học sinh có thể tự rút kinh nghiệm cho bài
làm của mình, học tập được cái hay của bạn, phát huy được cái tốt, khắc phục
được lỗi sai của mình. Muốn làm tốt việc này, giáo viên cần:
- Chấm chữa bài thật tỉ mỉ, chỉ lỗi cụ thể và có những nhận xét chính xác cho
từng phần, từng câu.
- Mặc dù sửa lỗi sai cho học sinh nhưng tơi chỉ nhắc nhẹ, khơng phê bình một
bài cụ thể nào trước lớp. Tơi ln động viên, khích lệ các em.
+ Tôi đưa ra một số câu văn tối nghĩa, mắc lỗi cơ bản về ngữ pháp, cách sử dụng
từ ngữ, lỗi chính tả, đưa lối nói vào bài văn. Từ các câu văn đó cả lớp phát hiện
lỗi và tìm cách sửa chữa:
(1) Chị Mái tơ có thân hình cường tráng
Từ cường tráng dùng để miêu tả thân hình của gà trống. Có thể sửa: Chị mái tơ ì

ạch/ Chị mái tơ hiền lành
(2) Trên sân trường, hoa phượng vĩ nở đỏ chót vót
Từ chót vót thường dùng để nói về độ cao. Có thể sửa như sau: Trên sân trường,
hoa phượng vĩ nở đỏ chót (đỏ thắm)
(3) Và em thấy chú chích bơng rất chi là đẹp. Sửa thành: Em thấy chú chích
bơng rất đẹp
Từ cách làm trên, các em sẽ tự rút kinh nghiệm, học hỏi được nhiều điều
hay, các em biết cách chọn lọc để có thể làm tốt hơn trong những bài sau.
2.4. Xây dựng nền nếp học tập cho học sinh.
Đặt ra yêu đối với các em là thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Việt cả
khi ở lớp và ở nhà.

15

download by :


Yêu cầu các em phải đọc bài, xem bài trước khi đến lớp. Mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp. Khuyến khích các em đọc sách, báo, tham khảo một số bài văn
trong sách văn mẫu ….
Học sinh phải đọc trước bài, chuẩn bị đối tượng quan sát như tranh ảnh,
vật thật mang đến lớp; quan sát đối tượng trước theo yêu cầu của giáo viên.
2.5. Nâng cao khả năng viết văn qua các phân môn khác trong Tiếng Việt
a. Phân môn Tập đọc:
Văn miêu tả trong phân môn Tập đọc chiếm tỉ lệ cao. Vì vậy khi học các
bài Tập đọc học sinh sẽ cảm nhận được thế giới muôn hình, mn vẻ, vạn vật
sinh động, nhiều màu sắc.
Ví dụ 1: Cây xồi của ơng em (TV2, tập 1- trang 89)
Câu hỏi 1: Tìm những hình ảnh đẹp của cây xồi (Cuối đơng, hoa nở
trắng cành. Đầu hè, quả sai lúc lỉu. Từng chùm quả đu đưa theo gió)

Từ việc đọc bài và trả lời câu hỏi, các em sẽ biết thêm cách tả cây cối.
Ví dụ 2: Bé Hoa (TV2, tập 1- trang 121)
Đoạn 1: Miêu tả em Nụ (Em Nụ mơi đỏ hồng, mắt to trịn và đen láy)
Qua bài này học sinh biết cách tả người, điều này giúp các em thực hiện
tốt yêu cầu của tiết Tập làm văn tuần 15 (Kể về anh chị em)
Ví dụ 3: Chuyện bốn mùa (TV2, tập 2- trang 4)
Học sinh nắm được đặc điểm của từng mùa, từ đó có thể làm tiền đề cho
tiết Tập làm văn tuần 20 (Tả ngắn về bốn mùa)
Ví dụ 4: Tơm Càng và Cá Con (TV2, tập 2- trang 68)
Đoạn 1: Miêu tả Cá Con (Con vật thân dẹt, trên đầu có hai mắt tròn xoe,
khắp người phủ một lớp vẩy bạc óng ánh)
Qua bài này học sinh biết thêm cách tả con vật
b. Phân môn Luyện từ và câu:
Phân môn Luyện từ và câu trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản
về từ và câu, tăng vốn từ cho các em. Rèn cho các em kĩ năng dùng từ và đặt
câu. Mặt khác, bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành
câu. Trong phân môn này, tôi đặc biệt chú ý giúp học sinh hiểu đúng nghĩa câu
từ thông qua việc dạy học các bài Mở rộng vốn từ, các kiểu câu… Từ việc hiểu
đúng nghĩa từ sẽ giúp các em nhớ từ, chọn đúng từ để miêu tả.
Ví dụ 1 : Tuần 15 - MRVT: Từ chỉ đặc điểm (TV2, tập 1- trang 122)
Qua bài tập 2 học sinh sẽ tìm được từ chỉ đặc điểm của người và vật
+ Đặc điểm về tính cách của một người: tốt, xấu, ngoan, chăm chỉ, chịu khó,
siêng năng, cần cù, khiêm tốn, dịu dàng...

16

download by :


+ Đặc điểm về màu sắc của một vật: trắng, trắng muốt, xanh lè, đỏ tươi, đỏ

chói, đen sì, nâu sẫm, hồng nhạt...
+ Đặc điểm về hình dáng của người, vật: dong dỏng, mập mạp, múp míp, trịn
xoe, gầy nhom, cao kều, thấp, to, ngắn, dài...
Ví dụ 2 : Tuần 29 - MRVT: Từ ngữ về cây cối (TV2, tập 2- trang 95)
Qua bài tập 2 học sinh sẽ tìm được từ miêu tả cây cối
+ Thân cây: bạc phếch, thấp, cao, chắc ....
+ Rễ cây: dài, uốn lượn, màu nâu sẫm ...
+ Gốc cây: to, nhỏ, nhám, cứng, sần sùi, xù xì ...
+ Cành cây: um tùm, cong queo, sum xuê ...
+ Hoa: đỏ rực, thơm ngát, trắng tinh ...
+ Quả: tròn, màu vàng, xanh lơ ...
+ Lá: màu xanh, sum xuê, khô ...
+ Ngọn cây: thẳng tắp, mảnh dẻ, chót vót ...
2.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong cơng tác giáo dục.
Kinh nghiệm nhiều năm dạy học cho thấy sự phối hợp của phụ
huynh với thầy cô giáo vô cùng quan trọng. Nếu phụ huynh kết hợp tốt cùng nhà
trường sẽ giúp nhiều cho việc dạy học. Cần quán triệt nâng cao nhận thức của
học sinh và phụ huynh để họ thấy rõ tầm quan trọng của việc viết văn miêu tả.
Ngay trước khi bước vào ngày học chính thức tơi đã tổ chức họp phụ
huynh. Tôi đã đề nghị và yêu cầu phụ huynh thống nhất mua đủ đồ dùng, sách
vở để phụ vụ năm học, thông báo cho phụ huynh biết cần phải mua những loại
đồ dùng nào, nếu phụ huynh không mua được thì có thể nhờ giáo viên mua hộ.
u cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc đọc bài ở nhà của con
em mình. Hướng dẫn phụ huynh cách dạy học, hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em
mình ở nhà. Tôi đã tổ chức một buổi họp riêng nhằm hướng dẫn cho phụ huynh
cách chỉnh sửa lỗi sai của con em họ, giúp học sinh viết văn tốt hơn.
Ví dụ: Khuyến khích việc quan sát của các em bằng các câu hỏi đơn giản như:
+ Bầu trời màu gì?
+ Lá cây màu gì?
+ Dáng con gà mái trơng như thế nào?

+ Lơng con chó màu gì và sờ vào thấy thế nào? ….
Trong giao tiếp hằng ngày, phụ huynh u cầu con em mình phải nói đủ
câu, trả lời đủ ý, rõ nghĩa. Nếu học sinh chưa thực hiện được, phụ huynh phải
chỉ ra điểm sai và sửa cho các em.

17

download by :


Mỗi gia đình phải có góc học tập cho các em. Khuyến khích phụ huynh
mua bàn ghế để các em học bài, tránh tình trạng học sinh nằm ra sàn nhà để đọc
bài.
Do đặc điểm tâm sinh lí, ở giai đoạn này các em cịn ham chơi. Vì vậy tơi
đề nghị phụ huynh bố trí thời gian học tập cho con em mình bằng cách xây dựng
thời gian biểu khoa học, hợp lí.
Ngồi thời gian ở trường, phần lớn thời gian còn lại các em ở nhà và giao
tiếp với mọi người bằng tiếng dân tộc. Để giảm thiểu tình trạng đó tơi đã khuyến
khích mỗi gia đình nên giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt. Đồng thời nhắc phụ
huynh luôn ủng hộ con em họ tham gia các hoạt động nhằm nâng cao vốn từ
tiếng Việt. Làm được điều này phụ huynh sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc tăng
cường khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh, hạn chế việc nói sai của học
sinh. Từ đó các em sẽ viết đúng cú pháp, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
2.7. Làm tốt cơng tác khen thưởng, khích lệ học sinh
Như Bác Hồ đã nói: “Thi đua khen thưởng là động lực phát triển và là
động lực để phát triển con người mới. Thi đua yêu nước phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục hằng ngày”. Trong dạy học cũng vậy, nếu sự cố gắng, nỗ
lực của bản thân học sinh được đánh giá đúng, được động viên, khích lệ kịp thời
thì học sinh sẽ có tâm trạng phấn khích hơn, kết quả học tập tốt hơn.
Hàng tuần, hàng tháng tôi tổ chức các phong trào thi đua để giúp các em

thi đua học tốt. Mỗi khi các em viết được đoạn văn hay tôi đều tuyên dương các
em, khơi dậy cho các em ý thức phấn đấu, hồn thiện việc viết văn của mình.
Tơi tổ chức cho các em thi đua từng cá nhân, từng tổ, cả lớp và đã thấy
được nhiều em chăm chỉ hơn, viết văn tốt hơn.
Tôi đã áp dụng phương pháp nêu gương bằng cách cho các em viết văn
chưa tốt nhận xét bài văn của các em viết tốt từ đó các em nhận ra và có ý thức
phấn đấu hơn. Các em tự hiểu nếu cố gắng thì sẽ sửa được lỗi viết văn và viết
văn tốt như bạn. Qua đó tôi thấy học sinh tiến bộ rất nhanh.
2.8. Tham mưu cho nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, rèn kĩ năng sống.
Tôi đã tham mưu cho nhà trường hàng tuần, hàng tháng nên tổ chức các
buổi hoạt đọng ngoại khoá, rèn kĩ năng sống cho các em. Từ các buổi này học
sinh sẽ mạnh dạn hơn, kĩ năng nói tốt hơn, do vậy khi viết văn câu từ sẽ hồn
chỉnh hơn.
Tơi đã tổ chức một số trị chơi học tập cho các em. Tôi đặc biệt chú ý lựa
chọn những trò chơi đơn giản, đảm bảo các tiêu chuẩn: dễ chơi, có tính giáo dục
cao, phù hợp với điều kiện vật chất.
18

download by :


Ví dụ: Trị chơi Ai đúng – Ai nhanh
Tơi đưa cho học sinh các câu lửng:
Bàn tay mẹ
dài thướt tha, dun dáng
Mùa hè tới
lợi hại, trơng như một vũ khí
Cái đi
gầy gầy, xương xương
Bộ móng vuốt

như những ánh sao đêm
Mũi cao và cái miệng
mặt trời chói chang, gay gắt
Những chiếc thuyền câu
chúm chím, dễ thương
lúc ẩn, lúc hiện
Từ các câu đó chưa đầy đủ ý, học sinh sẽ ghép thành những câu có nghĩa.
Sau thời gian quy định các em sẽ đọc những câu mình ghép được. Từ đó các em
sẽ biết lựa chọn, ghi nhớ cách miêu tả hay.
3. Hiệu quả của vấn đề:
Phụ huynh quan tâm hơn đến phân mơn Tập làm văn. Nhiều gia đình đã
có góc học tập đẻ con em học bài.
Học sinh có hứng thú, có ý thức trong việc viết văn miêu tả. Khắc phục
một số lỗi khi viết văn của học sinh. Từ chỗ các em chưa biết cách làm các bài
văn, các em đã viết được những đoạn văn hay, giàu hình ảnh, cảm xúc, thu hút
được người đọc.
Kết quả phân môn Tập làm văn lớp đạt được như sau:
Kết quả đạt được
Thời
Biết viết đoạn
Chưa viết được
Sĩ số
Viết đoạn văn tốt
gian
văn
đoạn văn
SL
TL:%
SL
TL:%

SL
TL:%
Tuần 31
26
16
61,5
10
38,5
0
0
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
I. Kết luận.
Qua thời gian tìm tịi, nghiên cứu các biện pháp, tơi đã rút ra được một số
kinh nghiệm sau:
- Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, giáo viên cần phải xác
định rõ tầm quan trọng, vị trí của việc viết văn miêu tả trong phân môn Tập làm
văn. Mặt khác phải chuẩn bị tốt mọi điều kiện cho tiết dạy; hướng dẫn học sinh
nắm vững yêu cầu của đề bài; hướng dẫn học sinh biết cách quan sát đối tượng
miêu tả; biết lựa chọn linh hoạt từ ngữ, hình ảnh và các biện pháp nghệ thuật
phù hợp; quan tâm nhiều đến việc nhận xét, chữa bài cho học sinh; biết lồng
ghép vào các phân môn khác để dạy miêu tả. Người giáo viên phải có tâm huyết
19

download by :


với nghề, yêu học sinh như con đẻ của mình. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội
dung bài dạy, tìm tòi thêm nhiều tài liệu hỗ trợ cho bài dạy. Mặt khác, phải tích
cực đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức hình thức dạy học phù hợp với mỗi
hoạt động và đối tượng học sinh.

- Khi hướng dẫn, giáo viên cần kiên trì, tỉ mỉ, khơng nơn nóng. Chỉ bảo
tận tình những gì học sinh chưa biết, chưa làm được để các em tiếp thu thoải
mái, đạt hiệu quả cao.
- Học sinh cần có sự chuẩn bị tốt cho bài học theo yêu cầu của giáo viên;
chuẩn bị bài trước khi đến lớp; đọc kĩ đề bài để nắm vững yêu cầu của đề; quan
sát và ghi chép chọn lọc những điều quan sát được; sáng tạo trong việc sử dụng
từ ngữ, hình ảnh khi viết bài; đưa các biện pháp nghệ thuật vào bài viết; thể hiện
được cảm xúc riêng của mình trong bài viết.
- Giáo dục học sinh lòng say mê, biết yêu cái hay, cái đẹp. Nếu có lịng
say mê kết quả học tập sẽ tốt hơn.
- Người giáo viên thường xuyên động viên, khuyến khích các em tìm
những từ ngữ, hình ảnh hay, giàu cảm xúc.
II. Kiến nghị.
Đối với nhà trường: Cần bổ sung thêm đồ dùng để phục vụ cho môn học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tơi trong q trình giảng dạy Tập làm
văn miêu tả ở lớp 2. Ngoài kinh nghiệm của bản thân tôi luôn muốn học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp để góp phần vào sự nghiệp giáo dục. Rất mong được
các đồng nghiệp góp ý kiến để tơi có thể thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ngày một
tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thạch Lâm, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Xác nhận của nhà trường
HIỆU TRƯỞNG

Người viết

Bùi Văn Quang


Phùng Thị Hương

20

download by :



×