Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: ; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn:
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Chương 1: Lý luận chung về Trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án
đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Chương 2: Thực trạng về
trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại tại Việt Nam. Chương 3: Đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại và
sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Keywords: Tòa án; Trọng tài thương mại; Tranh chấp thương mại; Luật kinh tế; Pháp
luật Việt Nam
Content
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện
được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề khác nhau thì việc
liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh
những hợp đồng hợp tác, những giao kết "thuận buồm xuôi gió" vẫn còn tồn tại khá nhiều
những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ
đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật
ngữ "tranh chấp thương mại" hay "tranh chấp kinh doanh" đã là thuật ngữ quen thuộc trong
đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở
nước ta trong mấy năm gần đây.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt
động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra
cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt
Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương
thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Trọng tài thương mại ra đời và phát triển từ rất sớm, ở nhiều nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thì phần lớn các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại thường
được giải quyết thông qua phương thức trọng tài. Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết
tranh chấp khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển. Tại Việt Nam, tuy mới được hình thành, nhưng trọng tài cũng được khuyến khích sử
2
dụng trong một loạt các luật như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài có 4 ưu thế so với giải quyết bằng con
đường tòa án. Thứ nhất là thủ tục giải quyết đơn giản và nhanh. Thứ hai là bảo đảm bí mật
(xử kín). Điều này rất quan trọng đối với DN vì nó liên quan đến vấn đề uy tín, thương hiệu
của DN. Thứ ba, các trọng tài viên là những chuyên gia hàng đầu. Ưu thế thứ tư, xét xử bằng
cơ chế trọng tài chỉ một lần nên nó là chung thẩm. Quyết định của trọng tài buộc các bên phải
thi hành ngay, nếu không sẽ được chuyển sang cơ quan thi hành án dân sự thi hành.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách nhanh chóng, hiệu
quả và cũng làm giảm bớt gánh nặng cho tòa án. Trong thực tế, vì Trọng tài là một cơ quan
phi Chính phủ nên vẫn cần có sự trợ giúp của Tòa án. Tòa án hỗ trợ giám sát rất lớn đối với
việc thực thi các phán quyết của trọng tài, hỗ trợ trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời… Có thể nói trọng tài không thể hoạt động tốt nếu thiếu sự hỗ trợ của tòa án. Vì vậy
việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, thực trạng về trọng tài và sự hỗ trợ của tòa án
đối với hoạt động trọng tài là cần thiết trong giai đoạn hiện nay để đảm bảo cho việc giải
quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thực sự đạt hiệu quả. Chính vì vậy tác giả chọn đề
tài "Sự hỗ trợ của toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt
Nam" để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này nhưng cũng chỉ nói
chung mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về trọng tài thương mại, bản chất thỏa
thuận trọng tài cũng như thực trạng về thỏa thuận trọng tài thương mại ở nước ta. Trong xu
thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết
thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Trong nội dung trình bày đề tài sẽ tập trung nghiên cứu lý luận chung về trọng tài thương
mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài, sau đó tác giả sẽ đưa ra những nhận
xét, đánh giá thực trạng pháp luật về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài về 5 nội
dung:
- Tòa án hỗ trợ trong việc thi hành thỏa thuận trọng tài
- Sự hỗ trợ của tòa án trong việc lựa chọn trọng tài viên
- Tòa án xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài về tính hợp pháp của thỏa thuận trọng
tài, về thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp.
- Sự hỗ trợ của tòa án trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Sự hỗ trợ của tòa án trong việc hủy quyết định của trọng tài
Qua đó nêu lên những điểm đổi mới hoàn thiện của Luật Trọng tài thương mại.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về sự hỗ trợ của tòa án đối với
việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Trước tiên, nghiên cứu về trọng tài thương mại, thực trạng và sự phát triển của trọng tài
thương mại nói chung. Sau đó tập trung nghiên cứu và đưa ra quan điểm đổi mới hoàn thiện
3
pháp luật về sự hỗ trợ của tòa án và thực trạng sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết
tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại ở nước ta.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời cũng kết hợp với các
phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh… để nghiên cứu.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía
cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại ở Việt Nam
Thứ hai: Luận văn đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại thông qua một số ví dụ cụ thể.
Thứ ba: Đưa ra quan điểm đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa
án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương
Chương 1: Lý luận chung về Trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương 2: Thực trạng về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Chương 3: Đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thƣơng mại
1.1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại
Một là, Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp.
Hai là, Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại
* Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp
Một là, Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước thành lập
nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước.
Hai là, thẩm quyền giải quyết của trọng tài đối với tranh chấp thương mại cụ thể không tự
nhiên mà có, không do pháp luật ấn định mà còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể
tranh chấp.
4
Ba là, phán quyết trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử, vừa
thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên.
* Trọng tài thương mại với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh
thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một
Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất.
Hai là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên
đối với các bên đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm,
vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận.
1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại
* Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết.
* Trọng tài thƣờng trực (Trọng tài quy chế)
Khác với trọng tài adhoc, trọng tài thường trực luôn tồn tài không phụ thuộc vào
tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có điều
lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên. Trọng tài thường trực được tổ chức
dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các
viện trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ biến vẫn là các Trung tâm Trọng tài.
1.1.4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
1. Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm
điều cấm và trái đạo đức xã hội.
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách
nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác.
5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm.
1.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với phương thức thương
lượng, hòa giải và tòa án:
* So với thương lượng, hòa giải:
Một là, mặc dù các bên đương sự có quyền định đoạt cao về quá trình giải quyết tranh
chấp nhưng các trọng tài viên khi được các bên lựa chọn có quyền xét xử và ra quyết định một
cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở quy định của pháp luật.
Hai là, giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
mang tính tài phán.
Ba là, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải tuân thủ theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ,
trong khuôn khổ luật định, nếu vi phạm quyết định trọng tài sẽ bị hủy theo quy định của pháp
luật.
5
* So với tòa án:
Một là, tố tụng trọng tài diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và đảm bảo dân chủ trong quá
trình giải quyết tranh chấp, hạn chế mức cao nhất sự gián đoạn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Hai là, với tố tụng trọng tài sẽ đảm bảo yếu tố bí mật kinh doanh và bảo vệ được uy tín
của các bên đương sự trên thương trường.
Ba là, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nói chung thấp hơn so với việc
giải quyết tại tòa án.
1.2. Khái quát sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thƣơng mại
1.2.1.Đối với việc thay đổi trọng tài viên
Theo Điều 43 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì tòa án chỉ hỗ trợ việc thay đổi
trọng tài viên trong trường hợp trọng tài vụ việc giải quyết còn việc chỉ định trọng tài viên
hoặc thay đổi trọng tài viên mà vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài thì do
Chủ tịch Trọng tài quyết định. Việc thay đổi trọng tài viên (Hội đồng trọng tài vụ việc thuộc
thẩm quyền của tòa án là tòa án nơi có Hội đồng giải quyết tranh chấp thực hiện (điểm b khản
2 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại).
1.2.2. Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về
thẩm quyền
Nếu Hội đồng trọng tài đã xem xét và giải quyết khiếu nại của một bên về việc Hội đồng
trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; mà một trong các bên đương sự
không đồng ý giải quyết thì có quyền khởi kiện ra tòa án, để yêu cầu xem xét lại yêu cầu
quyết định của trọng tài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu tòa án quyết định vụ tranh chấp không
thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì các bên có quyền khởi kiện ra tòa án có thẩm
quyền để giải quyết theo thủ tục chung.
1.2.3. Về việc triệu tập người làm chứng
Đây là một điểm mới trong Luật Trọng tài thương mại 2010, theo Điều 48 thì Hội đồng
trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên hợp giải quyết tranh chấp. Trong
trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên
hợp và không có lý do chính đáng về việc vắng mặt của họ gây ảnh hưởng đến việc giải quyết
tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập
người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng tài.
1.2.4. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời cho cả hai cơ quan tài phán hiện nay, đó là, tòa án nhân dân cấp tỉnh -
thành phố trực thuộc trung ương và Hội đồng trọng tài đang giải quyết tranh chấp.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã giao thẩm quyền xem xét để áp dụng, thay đổi,
bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết
tranh chấp.
1.2.5. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc
Theo Điều 62 của Luật Trọng tài thương mại thì tòa án nơi Hội đồng trọng tài vụ việc đã
ra phán quyết trước khi yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án sẽ có đơn yêu
cầu tòa án xem xét phán quyết trọng tài vụ việc.
6
Đây là một chế định hoàn toàn mới của Luật Trọng tại thương mại năm 2010, do đó cần
được Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan có nghị quyết, văn bản hướng dẫn cụ
thể.
1.2.6. Hủy phán quyết trọng tài
Theo Điều 69 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì tòa án có thẩm quyền xem xét
việc hủy quyết định trọng tài khi có yêu cầu của một bên nếu có căn cứ theo đúng qui định
của pháp luật.
Thời hạn yêu cầu để hủy quyết định trọng tài là 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết
trọng tài
Theo Điều 71 của Luật Trọng tài thương mại thì khi một hoặc các bên có yêu cầu hủy
quyết định trọng tài phải có đơn gửi đến tòa án.
Tại Điều 72 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định về thủ tục tòa án xét
đơn yêu cầu phán quyết trọng tài cụ thể.
1.2.7. Một số vấn đề cần được lưu ý trong quá trình tòa án giải quyết quyết các vụ việc
liên quan tới trọng tài thương mại
Cần xem xét để lựa chọn trung tâm trọng tài phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đến giải
quyết tranh chấp
Một số vấn đề cần được lưu ý là khi có yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời các doanh nghiệp cần phải chú ý đến thời gian.
Các bên thỏa thuận hoặc các bên có thỏa thuận về trọng tài nhưng có thỏa thuận sai về tên
trung tâm trọng tài hoặc có thỏa thuận về trọng tài nhưng dẫn chiếu tên không chính xác.
Địa vị pháp lý của người ký thỏa thuận trọng tài
Cần phải tìm hiểu rõ đối tác trước khi ký kết hợp đồng kinh tế.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI
VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng Pháp luật và thực tiễn áp dụng Trọng tài thƣơng mại tại Việt Nam:
2.1.1. Thực trạng Pháp luật Trọng tài thương mại tại Việt Nam
Trọng tài đang dần dần được doanh nghiệp Việt Nam sử dụng trong hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, do lịch sử cũng như do nhận thức, trọng tài chưa có một vai trò đúng như nó cần phải
có. Mấy chục năm qua, do ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, các doanh
nghiệp đã không quan tâm đến trọng tài. Nhiều doanh nghiệp không phân biệt được sự khác nhau
giữa trọng tài kinh tế (Nhà nước) với trọng tài phi Chính phủ, không tín nhiệm trọng tài vì thiếu
hiệu lực cưỡng chế quyết định trọng tài. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp không "mặn
mà" với trọng tài
Tại Việt Nam hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động của trọng tài thương mại được
tạo thành bởi quy định trong các văn bản sau đây:
1. Quyết định 264/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt Nam.
7
2. Nghị định 16/NĐ-CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng
tài kinh tế.
2. Quyết định 114/TTg ngày 16/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng thẩm
quyền cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
3. Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các Quyết định của Trọng tài
nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của công ước đã được luật hóa tại Bộ
luật Tố tụng dân sự 2004.
4. Bộ luật Dân sự năm 2005
5. Bộ luật tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004 có hiệu
lực từ ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các việc dân sự liên
quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sau: Chương XXI thủ tục xét
đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài).
6. Luật thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI ngày 14/05/2005 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2006, quy định việc giải quyết tranh chấp với hình thức trọng tài tại Điều 317.
7. Pháp lệnh Thi hành án dân sự số 13/2004/PL-UBTVQH11 được Ủy ban thường vụ
quốc hội thông qua ngày 14/01/2004 có hiệu lực từ ngày 01/07/2004, trong đó, có quy định về
tổ chức thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam và quyết định của Trọng tài Thương mại Việt Nam.
8. Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11 được UBTVQH khóa XI
thông qua ngày 25/02/2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2003.
9. Nghị quyết số 05/2003/ HĐTP/TANDTC của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao ngày 31/07/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp lệnh Trọng tài Thương mại
2003.
10. Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 5/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
11. Luật trọng tài thương mại năm 2010
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật Trọng tài thương mại tại Việt Nam
Về tổ chức:
Sự phát triển của tổ chức trọng tài gắn liền với sự phát triển kinh từ - xã hội của đất nước
và có thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1994:
Xét về mặt lịch sử, đây là giai đoạn hình thành tổ chức trọng tài với tính cách là một thiết
chế giải quyết các tranh chấp kinh tế. Trong giai đoạn này, tổ chức trọng tài được gọi là trọng
tài kinh tế.
Bên cạnh trọng tài kinh tế nhà nước, vào giai đoạn này ở Việt Nam còn tồn tại trọng tài
phi Chính phủ.
Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại:
Trong giai đoạn này, tình hình vê tổ chức trọng tài có những thay đổi cơ bản, cụ thể là:
Tòa án kinh tế được thành lập trong hệ thống tòa án nhân dân;
Trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể;
8
Như vậy, tại Việt Nam tính đến thời điểm này tồn tại hai mô hình trọng tài phi Chính phủ,
hoạt động theo hai văn bản khác nhau.
Giai đoạn từ khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại.
Về đội ngũ trọng tài viên:
Tổng số trọng tài viên của các trung tâm trọng tài là 207 người, trong đó:
Theo kết quả khảo sát của Bộ Tư Pháp cho thấy: 30% số trọng tài viên được hỏi nói rằng
mình chưa từng tham gia giải quyết một vụ tranh chấp thương mại nào; 11,4% ý kiến trả lời
đã từng tham gia giải quyết một vụ tranh chấp; số trọng tài giải quyết từ 02 vụ đến 05 vụ
chiếm 37,15; số trọng tài giải quyết từ 06 đến 10 vụ chiếm 18,6% và số trọng tài giải quyết
trên 10 vụ tranh chấp chỉ chiếm 2,9%
Theo thống kê năm 2007 về giải quyết vụ tranh chấp về dân sự, kinh doanh thương mại
và lao động, thì tòa án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử lý được 80.773 vụ. Ngoài ra, có
1.280 vụ được kháng cáo lên tòa án tối cao. Những con số này, ngoài việc cho thấy sự phổ biến
việc xử lý các tranh chấp bằng tòa án mà còn thấy phần nào sự quá tải của hệ thống tòa án.
Các số liệu nói trên cùng với số lượng tương đối lớn trọng tài viên vừa mới được đưa vào
danh sách cho thấy trọng tài viên rất ít có cơ hội được cọ xát với thực tiễn nghề nghiệp để tích
luỹ kinh nghiệm, trau dỗi kỹ năng hành nghề. Đối với những trọng tài viên chưa từng tham
gia giải quyết một vụ tranh chấp nào, thì thời gian làm trọng tài viên có thể là rất nhiều năm,
nhưng vẫn chưa thể hiện được năng lực thực tế của họ.
Về hoạt động trọng tài:
Số lượng vụ tranh chấp thương mại do các tổ chức trọng tài thương mại Việt Nam giải
quyết cho đến thời điểm hiện tại là rất ít.
Số vụ tranh chấp đưa ra các Trung tâm trọng tài của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, có
trung tâm trọng tài từ ngày thành lập đến nay chưa giải quyết vụ nào. Chỉ có Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Việt Nam là tổ chức có số vụ tranh chấp thụ lý nhiều nhất, tuy nhiên, tính bình
quân thì số vụ thụ lý khoảng 20 vụ / năm. Trong khi đó, số vụ tranh chấp tại tòa án ngày càng
quá tải, số vụ tranh chấp đưa ra tòa kinh tế năm sau luôn tăng gấp đôi so với năm trước.
2.1.3. Những điểm hạn chế của pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003
Về phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài:
Tuy nhiên, trong quá trình thi hành Pháp lệnh, đã có cách hiểu khác nhau về thuật ngữ
"thương mại" trong Pháp lệnh. Điều này dẫn đến tranh cãi trong việc xác định phạm vi giải
quyết tranh chấp của trọng tài. Vấn đề gây tranh cãi đó là những tranh chấp nội bộ phát sinh
trong nội bộ doanh nghiệp, tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu có
được giải quyết bằng trọng tài không?
Vấn đề chủ thể được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
Theo quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh chỉ có các chủ thể là "tổ chức, cá nhân kinh
doanh" mới có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Thứ nhất, về thuật ngữ "cá nhân kinh doanh". Do Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thị
hành Pháp lệnh không giải thích thế nào là cá nhân kinh doanh nên có nhiều cách hiểu khác
nhau về thuật ngữ này.
Thứ hai, về thuật ngữ tổ chức kinh doanh. Trong thực tế, có rất nhiều tổ chức không phải
là tổ chức kinh doanh và trên thế giới các chủ thể này hoàn toàn có quyền lựa chọn trọng tài
9
để giải quyết tranh chấp, tuy nhiên tại Việt Nam lại không được phép lựa chọn trọng tài vì
không phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh
Về thỏa thuận trọng tài:
Pháp lệnh chưa làm rõ vấn đề tranh chấp phát sinh từ "quan hệ ngoài hợp đồng" có được
giải quyết bằng trọng tài hay không. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
thẩm quyền của trọng tài cũng như việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
Về hình thức của thỏa thuận trọng tài đã xác định được tiêu chí hình thức bắt buộc đó là
thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm "văn bản"
vẫn còn hẹp so với Luật Mẫu và luật trọng tài các nước.
Việc quy định thỏa thuận trọng tài vô hiêu khi thỏa thuận trọng tài quy định "không xác
định rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp" (Điều 10 Khoản 4) là không
hợp lý và không phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài quốc tế.
Pháp lệnh đã bỏ sót một chế định rất cơ bản đó là vấn đề thỏa thuận trọng tài "không thực
hiện được hoặc không thể thực hiện được". Đây là vấn đề rất phổ biến trong thương mại quốc
tế.
Vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng
Trọng tài (Điều 30)
Theo quy định của Điều 30 thì khi có khiếu nại của một bên về việc Hội đồng Trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các
bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác. Tuy nhiên, có một số vấn đề còn chưa rõ, đó là:
- Trường hợp một bên khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài ra Tòa án theo Điều 30.
- Trong trường hợp chưa có quyết định của Hội đồng Trọng tài mà một bên khiếu nại ra
Tòa án về vấn đề thẩm quyền thì Hội đồng trọng tài có tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp hay
dừng việc giải quyết tranh chấp.
Vấn đề địa điểm xét xử còn chưa hợp lý.
Vấn đề cách tính thời hiệu khởi kiện chưa được quy định rõ ràng:
Tuy Pháp lệnh đã có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ tranh chấp giải quyết bằng trọng
tài là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp (Điều 21). Tuy nhiên, trong trường hợp tranh chấp
phát sinh, một bên đã khởi kiện ra trọng tài trong thời hạn quy định và việc giải quyết tranh
chấp phát sinh, một bên đã khởi kiện ra trọng tài trong thời hạn quy định là việc giải quyết
tranh chấp tại trọng tài đã được kết thúc bằng một quyết định của Hội đồng Trọng tài. Nhưng
sau đó, quyết định trọng tài lại bị Toà án quyết hủy. Như vậy, thời hiệu khởi kiện được tính từ
khi nào? Thời gian giải quyết tranh chấp tại trọng tài có được trừ vào thời hiệu khởi kiện
không? Vấn đề này cần được quy định rõ.
Một số trình tự thời gian:
Một số quy định của Pháp lệnh còn quá chung chung. Ví dụ Điều 24 Khoản 3 cho phép
thời hạn nộp bản tự bảo vệ của Bị đơn quá dài.
Tương tự là các vấn đề hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp Pháp lệnh cũng không
quy định rõ thế nào là lý do chính đang và thời hạn đưa ra yêu cầu hoãn là bao nhiêu lâu trước
ngày hội đồng trọng tài mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
2.2 Thực trạng sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng con
đƣờng Trọng tài thƣơng mại tại Việt Nam
10
2.2.1.Thực trạng sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại tại Việt Nam
Qua kết quả khảo sát đối với cán bộ trong cơ quan quản lý về trọng tài thì đa số ý kiến
cho rằng, trọng tài chưa có được sự hỗ trợ cần thiết cho hoạt động trọng tài hoặc họ không
biết đã có sự hỗ trợ nào hay chưa.
Các cán bộ quản lý nhà nước cũng nêu ra một số nguyên nhân dẫn đến việc tòa án chưa
có sự hỗ trợ cho hoạt động trọng tài. 84,3% ý kiến cho rằng nguyên nhân chủ yếu là các hoạt
động trọng tài quá ít. Còn có các nguyên nhân khác như quy định pháp luật hiện hành chưa
phù hợp (35,3%), tòa án không có thời gian cho hoạt động liên quan đến trọng tài (43,1%) và
trọng tài viên chưa yêu cầu tòa án hỗ trợ (43,1%).
2.2.2. Những hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại trong vấn đề hỗ trợ của tòa
án đối với trọng tài thương mại
Thời điểm áp dụng: Thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là rất
quan trọng trong hầu hết các trường hợp. Kiểm kê và niêm phong, cấm chuyển nhượng hoặc
thay đổi tình trạng hiện tại của tài sản tranh chấp đối với nguyên đơn nhiều khi còn giá trị hơn
cả phán quyết cuối cùng. Pháp lệnh đã không dự liệu đến khoảng thời gian từ khi tố tụng
trọng tài bắt đầu đến khi thành lập Hội đồng Trọng tài, vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời không được đặt ra. "Kẽ hở" này đang bị bên bị kiện lợi dụng để tẩu tán tài sản, chứng
cứ…
Thu thập chứng cứ do người thứ ba nắm giữ: Trọng tài viên không thể ra lệnh cho một
bên thứ ba, đặc biệt là cơ quan Nhà nước phải cung cấp chứng cứ. Tòa án, trong thời hạn pháp
luật quy định, phải có hành động can thiệp thích hợp. Nhưng vấn đề này chưa được quy định
thích đáng trong Pháp lệnh Trọng tài năm 2003.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Một trong những nguyên nhân khiến cho tố tụng trọng
tài kém hấp dẫn hơn so với tòa án đó là việc Pháp lệnh Trọng tài thương mại hiện hành quy định
Tòa án chỉ được thực hiện 6 loại biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Triệu tập nhân chứng: Pháp luật hiện hành cũng không quy định việc hỗ trợ của Tòa án
đối với việc yêu cầu của người làm chứng tham gia vào tố tụng trọng tài.
Trách nhiệm của Tòa án khi từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Vấn đề trách
nhiệm của Tòa án trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu áp dụng lại không được quy
định cụ thể, theo đó nếu Tòa án không chấp nhận yêu cầu thì thủ tục giải quyết sẽ như thế
nào?
Hỗ trợ của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền của trọng tài: Theo quy định tại điều
54 Pháp lệnh Trọng tài thương mại nếu bên yêu cầu chứng minh được. Hội đồng Trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì có thể yêu cầu Tòa án hủy quyết định trọng tài
mà không có bất cứ sự hạn chế nào.
Hủy quyết định trọng tài: Trên thực tế nhiều khi các bên sử dụng quyền này như một
chiến thuật để trì hoãn việc thi hành phán quyết trọng tài. Một trong những nguyên nhân
khiến cho số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu hủy gia tăng đó là cơ chế hủy quyết định trọng
tài quá đơn giản.
Chương 3
11
ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƢƠNG MẠI
3.1 Đổi mới nhận thức về trọng tài thƣơng mại trong giải quyết tranh chấp
3.1.1 Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
Điều 2 Luật trọng tài thương mại đã khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi
thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại. Luật Trọng tài thương mại đã
dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều
loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên.
3.1.2. Thỏa thuận trọng tài
- Thỏa thuận trọng tài vô hiệu: Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài
thương mại năm 2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài. Điều 18 của
Luật Trọng tài thương mại giới hạn 6 tình huống theo đó thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài không hoặc không thể thực hiện được: Điều 6 Luật Trọng tài
thương mại quy định: "Tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài. Trong
trường hợp tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án
phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài
không thể thực hiện được".
3.1.3. Một số điểm mới về quy định trọng tài viên
Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật Trọng tài thương mại có
các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội ngũ
trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Khắc
phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại
không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam.
3.1.4. Một số điểm tiến bộ khác
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái niệm
"Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài" do Pháp lệnh năm 2003 quy định.
Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài
phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp
dẫn đối với các bên tranh chấp.
- Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại
Việt Nam.
- Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu
thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47,
248, 49 và 50).
- Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù
hợp của Pháp lệnh Trọng tài thương mại như quy định về quyền của một bên được gửi đơn
lên Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài nếu "không đồng ý với quyết định trọng tài"
- Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy định của
Luật hoặc của thỏa thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và
không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc
Tòa án.
12
- Luật Trọng tài thương mại có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong
việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
3.2 Đổi mới nhận thức về sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thƣơng mại
Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật Trọng tài thương mại là thể hiện rõ nét mối
quan hệ giữa Trọng tài với Tòa án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên.
Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác
định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của
Tòa án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán
quyết trọng tài; tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;
giải quyết và yêu cầu hủy phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên
quan đã cụ thể hóa nội dung những thẩm quyền này của Tòa án. Quy định này đã khắc phục được
những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng
trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần
tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
3.2.1. Hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời
- Thời điểm áp dụng: Bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời là mang tính nhanh chóng,
khẩn trương, kịp thời. Vì vậy, biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy quyền lợi
hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến khi khởi kiện hoặc
Hội đồng trọng tài được thành lập.
- Về trách nhiệm của Tòa án khi từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Điều 48 Luật trọng tài có quy định "Trước hoặc sau khi khởi kiện tại trọng tài, nếu quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, các bên có
quyền làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời".
Theo quy định tại Điều 26 Pháp lệnh Trọng tài thương mại về hỗ trợ Tòa án trong việc chỉ
định Trọng tài viên, pháp luật chỉ quy định thời gian chánh án giao việc cho thẩm phán, mà
không quy định thời gian thẩm phán phải giải quyết yêu cầu của các bên. Đây là lý do gây
gián đoạn quá trình tố tụng trọng tài. Do đó Luật Trọng tài thương mại cần quy định thời gian
cụ thể cho thẩm phán giải quyết vụ việc. Tác giả nhất trí với quy định của khoản 5 điều 41
Luật Trọng tài "Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Chánh
án tòa án có thẩm quyền phải phân công một thẩm phán chỉ định trọng tài viên và thông báo
cho các bên". Theo tôi phải quy định rõ hơn là "Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn yêu cầu, Chánh án tòa án có thẩm quyền phải phân công một thẩm phán chỉ
định trọng tài viên và phải thông báo được cho các bên biết về trọng tài viên đó", từ đó mới
có căn cứ để các bên quyết định có lựa chọn hay thay đổi trọng tài viên.
Ngoài ra pháp luật về Trọng tài thương mại còn thiếu hướng dẫn về các vấn đề: chuyển hồ sơ
cho Tòa án như thế nào khi có yêu cầu hủy quyết định Trọng tài; Nguyên tắc xác định khoản tiền
bảo đảm mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp; Yêu cầu áp dụng loại
biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự mà pháp lệnh không quy định.
- Về thẩm quyền của Hội động trọng tài áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 48 Luật Trọng tài quy định rất rõ các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, có thể là Tòa án hoặc Hội đồng trọng tài tùy theo sự lựa chọn của các bên
tranh chấp, theo đó bên cạnh thẩm quyền đương nhiên của Tòa án, Hội đồng trọng tài cũng có
13
thẩm quyền yêu cầu các bên tranh chấp (và chỉ các bên đó mà thôi và không là yêu cầu đối
với cá nhân hay cơ quan khác) áp dụng sáu biện pháp khẩn cấp tạm thời như được quy định.
Đồng thời Điều 50 của Luật Trọng tài cũng buộc bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời chứng minh và chịu trách nhiệm về sự cần thiết áp dụng biện pháp đó.
3.2.2. Hỗ trợ của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài
Quy định mới của Luật trọng tài (điều 13) xác định: "Khi một bên phát hiện có vi phạm quy
định của Luật này hoặc của thỏa thuận Trọng tài mà vẫn thực hiện tố tụng trọng tài và không phản
đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất quyền phản đối tại trọng tài hoặc
Tòa án" Quy định này có khả năng ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố tụng
trọng tài nhằm đề cao trách nhiệm của các bên trong quá trình tố tụng Trọng tài, hạn chế sự lạm
dụng quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định trọng tài để kéo dài thời gian tranh chấp, gây khó khăn
cho phía đối tác.
Khắc phục hạn chế tại điều 30 Pháp lệnh Trọng tài thương mại khi mà các bên không
đồng ý với quyết định của HĐTT và yêu cầu Tòa án giải quyết thì quá trình tố tụng trọng tài
sẽ diễn ra như thế nào? Tác giả xin đưa ra giải pháp như sau: Trong trường hợp này HĐTT
vẫn tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp như bình thường; nếu tòa án quyết định HĐTT không có
thẩm quyền thì HĐTT ra quyết định đình chỉ tố tụng trọng tài. Trường hợp quyết định trọng
tài đã được công bố thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định đó. Nếu Tòa án
quyết định HĐTT có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì đương nhiên quyết định trọng tài
có hiệu lực thi hành. Quy định như vậy không chỉ nhằm giải quyết vụ tranh chấp được nhanh
chóng như là một giải pháp đảm bảo phát huy ưu thế của Trọng tài thương mại về mặt tiết
kiệm thời gian, mà còn phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Điều 16 Luật Mẫu UNCITRAL quy
định: "trong khi yêu cầu đó đang chờ giải quyết thì Ủy ban trọng tài vẫn có thể tiếp tục tiến
hành quá trình tố tụng và đưa ra phán quyết".
3.2.3. Hỗ trợ trong việc triệu tập nhân chứng
Luật trọng tài thương mại 2010 không xác lập cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài trong
việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan trọng trong tố tụng trọng tài.
Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà nhiều trường hợp có liên quan đến người
thứ ba hoặc bên thứ ba. Trong khi Tòa án có thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối
tượng này thì trọng tài lại không có thẩm quyền. Vấn đề này, Luật Trọng tài các nước có quy định
rất rõ Hội đồng trọng tài hoặc một bên được sự đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Tòa án
có thẩm quyền trợ giúp thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại trọng tài. Do không có cơ
chế hỗ trợ nêu trên, các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn khoăn khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để
giải quyết tranh chấp. Do vậy, cần quy định cụ thể, chi tiết "trách nhiệm của Tòa án" trong việc thu
thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu của trọng tài, cụ thể là trong thời
hạn cụ thể mà Tòa án phải xem xét và chỉ định một thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ;
Tòa án thông báo bằng văn bản về việc chỉ định thẩm phán. Đặc biệt phải xác định rõ trách nhiệm
của Tòa án trong việc bảo đảm sự có mặt của người làm chứng, xác định rõ trình tự thủ tục nhanh
chóng, thuận tiện trong việc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời.
3.2.4. Hủy quyết định Trọng tài
Luật Trọng tài đã hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi
những lý do được quy định tại Pháp lệnh năm 2003 như khi Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ
của Trọng tài viên (Khoản 5 điều 54 Pháp lệnh) hoặc quy định về quyền của một bên được
gửi đơn lên Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài nếu "Không đồng ý với quyết định trọng
14
tài ", bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và vì
vậy kém hiệu quả.
Điều 71 Luật Trọng tài cũng bổ sung trường hợp cho phép của Tòa án đối với Trọng tài
đề trọng tài có thể tiến hành các hoạt động cần thiết để loại trừ các cơ sở để hủy quyết định
trọng tài. Điều này làm tăng tính chủ động của Hội đồng trọng tài, góp phần làm giảm số
quyết định trọng tài có thể bị Tòa án hủy, đồng thời làm tăng thêm uy tín của Trọng tài.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, hoạt động thương mại
ngày càng sôi nổi thì tranh chấp thương mại giữa các nhà đầu tư và thương gia ngày càng
nhiều hơn. Đây cũng là vấn đề hết sức bình thường trong đời sống thương mại. Điều quan
trọng nhất là Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý để giải quyết các tranh chấp này. Xuất phát
từ nhu cầu trên và với mục đích thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng về xây dựng Nhà
nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có hoàn thiện cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc phát triển cơ chế giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài, khuyến khích sử dụng
trọng tài trong đời sống kinh tế - xã hội nhằm giảm bớt gánh nặng của tòa án trong hoạt động xét
xử. Luật trọng tài thương mại năm 2010 ra đời đã thể hiện được xu thế phát triển tất yếu của trọng
tài Việt Nam trước những yêu cầu đặt ra trong nước và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại, tòa án giữ vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ các cơ quan trọng tài bằng nhiều phương thức khác nhau. Chúng
có liên đới rất chặt chẽ với nhau, Tòa án có hỗ trợ tốt cho các cơ quan trọng tài thì mới tạo
hiệu quả trong công việc của trọng tài và giảm thiểu được gánh nặng của mình trong hoạt
động xét xử. Điều này thể hiện ở chỗ các quy định về quan hệ giữa Toà án và độngg tài phải
thể hiện được quan điểm Tòa án không can thiệp vào hoạt động của Trọng tài mà phải hỗ trợ
cho các hoạt động trọng tài, mà khi cần thiết Tòa án chỉ xem xét về mặt tố tụng (về vấn đề
hình thức), không xem xét về mặt nội dung các phán quyết trọng tài.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận, nếu như trên thế giới, việc giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua trọng tài là phương thức được các doanh nghiệp ưa chuộng nhất thì tại Việt Nam, còn ít
doanh nghiệp biết đến trọng tài thương mại và chưa mặn mà với cơ chế giải quyết này hoặc bỏ qua
cơ chế giải quyết bằng trọng tài để tìm đến sự can thiệp của cơ quan tài phán nhà nước là Tòa án.
Điều này đang đi ngược lại với thông lệ quốc tế, nhất là trong thời buổi Việt Nam đang hội nhập sâu
và rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay.
Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, để đẩy mạnh và phát huy được những ưu thế của
trọng tài thương mại Việt Nam đòi hỏi phải có sự quan tâm, nỗ lực của toàn Đảng, Nhà nước
và các Bộ, ngành có liên quan, kết hợp với trang bị kiến thức cơ bản cho các doanh nghiệp về
Trọng tài thương mại. Có như vậy, hoạt động trọng tài của ta mới có thể phát triển một cách
phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, từ đó tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các
doanh nghiệp bước vào sân chơi hội nhập.
References
1. Chính phủ (1993), Quyết định số 264/TTg ngày 28/4 của Thủ tướng Chính phủ về tổ
chức Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, Hà Nội.
2. Chính phủ (1994), Nghị định số 116/NĐ-CP ngày 5/9 về tổ chức và hoạt động của trọng
tài kinh tế, Hà Nội.
15
3. Chính phủ (1996), Quyết định số 114/TTg ngày 16/02 của Thủ tướng Chính phủ về mở
rộng thẩm quyền cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Hà Nội.
4. Chính phủ (2004), Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 5/01 quy định chi tiết thi hành một
số điều Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, Hà Nội.
5. Chính phủ (2009), Công văn số 116/CP-PL ngày 07/7 về việc tham gia ý kiến đối với dự
thảo Luật Trọng tài, Hà Nội.
6. "Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài" (2010), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề: Pháp luật về trọng tài thương mại).
7. Vũ Ánh Dương (2010), "Thực trạng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam", Tài liệu Hội thảo: Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế thi
hành phán quyết trọng tài, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Dự án
DANIDA tổ chức, Hà Nội.
8. Lê Hồng Hạnh (2007), "Hoàn thiện pháp luật trọng tài trước yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề về trọng tài thương
mại).
9. Dương Văn Hậu (1999), Trọng tài Thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo số 10/BCTĐ-HLGVN ngày 30/4 về đánh giá tác
động dự kiến của Luật Trọng tài, Hà Nội.
11. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Tờ trình về dự án luật số 10/TTr-HLGVN ngày 4/8, Hà
Nội.
12. Dương Đăng Huệ (2003) "Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng hội
nhập", Nghiên cứu lập pháp, (6).
13. Trần Hữu Huỳnh (Chủ biên) (2007), Các quyết định trọng tài quốc tế chọn lọc, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
14. Đặng Thị Bích Liễu (1998), Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường trọng tài, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. "Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương
mại quốc tế UNCITRAL 1985", (2010), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề: Pháp luật
về trọng tài thương mại).
16
16. Trần Trúc Linh (1965), Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
17. Dương Thanh Mai (Chủ nhiệm đề tài) (2006), Bình luận khoa học Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
18. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (1994), Hiệp định Marrakesh thành lập
WTO, (Bản dịch tiếng Việt), Hà Nội.
19. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
21. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
22. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội
23. Quốc hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội.
24. Nguyễn Đình Thơ (2007), Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
25. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 05/2003/ HĐTP/TANDTC ngày 31/7 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp
lệnh Trọng tài Thương mại, Hà Nội.
26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Thương mại, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
27. Đào Trí Úc (2008), "Tham luận góp ý cho dự thảo Luật trọng tài thương mại", Hội thảo
lấy ý kiến cho Dự thảo Luật Trọng tài thương mại 2010, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tổ chức, Hà Nội.
28. Văn phòng Quốc hội (2009), Báo cáo Tổng kết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003, Hà Nội.
29. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh công nhận tại Việt Nam quyết định của
trọng tài nước ngoài, Hà Nội.
30. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Hà Nội.
31. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
32. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
17