Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.01 KB, 16 trang )

Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà
có trong luật hình sự Việt Nam


Nguyễn Triệu Như Thường


Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: PGS.TSKH. Lê Văn Cảm
Năm bảo vệ: 2008


Abstract. Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội hợp pháp hóa tiền, tài
sản do phạm tội mà có như cấu thành tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự
Trình bày thực trạng tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có và thực tiễn
giải quyết các vụ án này tại Việt Nam trong những năm qua. Làm rõ bản chất, mức
độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam. Từ đó, phân tích, so
sánh với các dấu hiệu tương tự trong tội rửa tiền, nêu bật ưu điểm của việc quy định
trong Bộ luật hình sự tội rửa tiền so với tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội
mà có để thấy sự cần thiết phải thay thế tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội
bằng tội rửa tiền. Xây dựng mô hình lý luận của kiến giải lập pháp về cấu thành tội
phạm tội rửa tiền thay thế cho tội hợp pháp hóa tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có
như: hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến tội rửa tiền, tăng cường hợp
tác quốc tế trong đó có tham gia các Điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống
tội phạm rửa tiền, hoàn thiện các thiết chế thực thi hoạt động phòng, chống rửa tiền.

Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Phạm tội; Tội rửa tiền



Content
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên những cơ sở lý luận sau:
Thứ nhất, Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có - với bản chất là rửa tiền - là
một loại tội chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam, thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Về mặt khoa học luật hình sự, lý luận về tội này còn mờ nhạt, chưa có hệ thống quan
điểm nhất quán khiến nhiều người chưa hiểu rõ và chưa nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm của
tội này, từ đó chưa có cơ sở khoa học vững chắc trong việc giải quyết vụ án trên thực tiễn.
+ Về mặt luật thực định, việc quy định tội danh Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội
mà có chưa phản ánh hết được sự nghiêm trọng, đa dạng, phức tạp và những tác hại nguy
hiểm của hoạt động rửa tiền đối với nền kinh tế. Do đó, cần thiết nghiên cứu và đưa ra mô
hình lý luận mới trong đó mở rộng phạm vi chủ thể, hành vi khách quan của tội này nhằm
tránh bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, hiện nay trên thế giới các quốc gia đều sử dụng khái niệm tội Rửa tiền. Vì vậy,
việc quy định trong Bộ luật hình sự tội danh mới này không những làm cho pháp luật Việt
Nam hài hòa với pháp luật quốc tế mà còn khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc đấu
tranh phòng và chống rửa tiền vốn đang được các nước nhất là các nước phát triển rất quan
tâm.
Thứ tư, Rửa tiền là một trong những loại tội phạm tài chính đang ngày càng gia tăng
trên thế giới và tại Việt Nam. Nó là một loại tội phạm phái sinh, có tính toàn cầu và đe dọa
nghiêm trọng sự phát triển lành mạnh của các nền kinh tế. Thuật ngữ Rửa tiền thể hiện đầy
đủ hành vi và tính chất nguy hiểm hơn so với thuật ngữ Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có đang được Bộ luật hình sự 1999 sử dụng hiện nay, đòi hỏi phải sớm thay thế tội
Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội Rửa tiền.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Đề tài được thực hiện dựa trên các cơ sở thực tiễn sau:
Thứ nhất, Việt Nam là nơi có nhiều điều kiện lý tưởng để tội rửa tiền xâm nhập, tồn tại
và phát triển. Nếu nó xâm nhập vào sự lành mạnh của hệ thống tài chính thì sớm muộn sẽ làm

sụp đổ hệ thống này, phá vỡ nền kinh tế của đất nước. Vì vậy, cần thiết phải quy định tội Rửa
tiền để ngăn chặn và xử lý hiệu quả các hành vi rửa tiền phát sinh trong nước, để Việt Nam
không trở thành nơi các tổ chức tội phạm quốc tế lợi dụng làm địa điểm tẩy rửa tiền, tài sản
có nguồn gốc bất hợp pháp.
Thứ hai, các tội phạm tạo ra các nguồn tiền, thu nhập bất hợp pháp như tham nhũng,
buôn lậu, cờ bac, mại dâm ở Việt Nam còn nhiều và việc ngăn chặn chưa đạt được những kết
quả cần thiết. Vì vậy, những khoản thu nhập này sẽ có nhu cầu được “làm sạch” và do đó sẽ
làm gia tăng hoạt động rửa tiền ở Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong đấu tranh phòng và chống tội rửa tiền. Do
đó, cần quy định tội Rửa tiền trong BLHS nhằm tăng cường cảnh giác với các hình thức của
tội phạm rửa tiền và nâng cao kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống loại tội này.
Thứ tư, với việc hội nhập nền kinh tế thế giới và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế
lớn, Việt Nam phải cam kết thực hiện nhiều vấn đề, trong đó có việc chỉnh sửa hệ thống pháp
luật, tham gia vào các tổ chức quốc tế trong đó có tổ chức về chống rửa tiền và tài trợ khủng
bố như FATF. Nếu không tham gia vào cuộc chiến mang tính quốc tế về chống rửa tiền, Việt
Nam sẽ mất đi sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế và là đối tượng bị áp dụng nhiều biện pháp
gây bất lợi cho nền kinh tế. Việc quy định tội Rửa tiền thay cho tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có là một trong những cơ sở tất yếu giúp Việt Nam thực hiện các cam kết
quốc tế trong hội nhập và toàn cầu hóa.
1.2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm các mục đích sau:
- Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do
phạm tội mà có như cấu thành tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự v.v
- Nghiên cứu thực trạng tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có và thực tiễn
giải quyết các vụ án này tại Việt Nam những năm qua.
- Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam. Từ đó, tác
giả phân tích, so sánh với các dấu hiệu tương tự trong tội Rửa tiền, làm bật ưu điểm của tội
Rửa tiền so với tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có để thấy sự cần thiết phải

thay thế tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội Rửa tiền.
- Xây dựng mô hình lý luận hiệu quả, có tính khả thi cao và hình phạt phù hợp về tội
“Rửa tiền” thay cho tội “Hợp pháp hóa tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có”.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do
phạm tội mà có tại Việt Nam từ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay và xu
hướng phát triển loại tội này trong thời gian tới.
- Về không gian: nghiên cứu tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có tại Việt
Nam trong sự so sánh, liên hệ với loại tội này trên thế giới.
1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp lịch sử
1.4. Điểm mới về mặt khoa học
Nếu đề tài được thực hiện thành công và đạt các mục đích đề ra sẽ có đóng góp mới về
mặt khoa học như sau:
- Làm rõ bản chất của tội Rửa tiền.
- Xây dựng mô hình lý luận về tội "Rửa tiền" thay cho tội "Hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có" trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam.
- Góp phần hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam.
1.5. Kết cấu của Luận văn
Lời nói đầu
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: 34 trang, gồm 02 mục
Chương 2: 20 trang, gồm 04 mục
Chương 3: 15 trang, gồm 04 mục
Kết luận
Tài liệu tham khảo


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN
DO PHẠM TỘI MÀ CÓ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu cơ bản của tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có
1.1.1. Khái niệm
Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có là một tội mới, được quy định lần đầu
tiên trong Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 251. Điều luật quy định như sau:
Điều 251: Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
1. Người nào thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để
hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc sử dụng tiền, tài sản đó vào việc tiến hành
các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động kinh tế khác, thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
năm:
a. Có tổ chức;
b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c. Phạm tội nhiều lần.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ tám năm đến mười
lăm năm.
4. Người phạm tội có thể bị tịch thu tài sản, phạt tiền đến ba lần số tiền hoặc giá trị tài
sản được hợp pháp hóa, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.
Như vậy, điều luật trên rất chung chung, chỉ quy định hai nhóm hành vi khách quan mà
không nêu ra hành vi cụ thể nào của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có, và
hoàn toàn chưa đưa ra khái niệm Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
1.1.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội “Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có”
* Chủ thể:
Chủ thể của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có là chủ thể đặc biệt. Tính
đặc biệt được thể hiện trước tiên ở chỗ: trước khi trở thành chủ thể của tội phạm này, người

phạm tội phải là chủ thể của tội khác. Họ phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội khác,
có được tiền, tài sản từ việc thực hiện tội phạm đó và người đó đã sử dụng các biện pháp
nghiệp vụ về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để làm cho
đồng tiền có được từ hoạt động phạm tội trước đây của mình trở thành đồng tiền hợp pháp.
Yếu tố chủ thể là dấu hiệu cơ bản để phân biệt tội “Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có” với tội: “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định
tại Điều 250 Bộ luật hình sự 1999. Nếu tiền, tài sản được hợp pháp hoá là tiền tài sản do
chính người hợp pháp hóa phạm tội mà có thì hành vi hợp pháp hoá cấu thành tội Hợp pháp
hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 1999. Còn nếu tiền,
tài sản đó là do người khác phạm tội mà có thì người hợp pháp hoá không phạm tội này mà
phạm tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều
250 Bộ luật hình sự 1999.
Người phạm tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có phải là người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi quy định ở
khoản 2, khoản 3; từ đủ 16 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi quy định ở bất kỳ khoản nào của
Điều 251 BLHS.
* Khách thể:
Tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có xâm phạm trật tự quản lý nhà nước
đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có.
* Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội “Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có” là lỗi cố ý.
Khi thực hiện hành vi phạm tội này, người phạm tội luôn có mục đích làm cho tiền, tài
sản có nguồn gốc bất hợp pháp trở thành tiền, tài sản hợp pháp. Do đó, mục đích là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm này, không phụ thuộc vào việc người phạm tội có đạt được
mục đích của mình hay không.
* Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan
Điều 251 Bộ luật hình sự 1999 không nêu cụ thể các hành vi hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có mà chỉ quy định rất chung chung hai nhóm hành vi sau:
+ Thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp

hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, hoặc
+ Sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động kinh tế khác.
Việc Bộ luật Hình sự quy định hai nhóm hành vi như trên còn bộc lộ nhiều hạn chế
như: quy định các hành vi khách quan còn chung chung, chưa bao quát hết được các hình
thức, biến thái của hoạt động rửa tiền trên thực tế, không miêu tả các phương thức thực hiện
hành vi tẩy rửa tiền, không quy định rõ người nào thực hiện hành vi hợp pháp hóa tiền, tài
sản do phạm tội mà có sẽ bị trừng trị, do đó dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
*Hình phạt: Theo quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, tội Hợp pháp hóa tiền,
tài sản do phạm tội mà có có ba (3) khung hình phạt: khung cơ bản từ một năm đến năm năm
tù; khung tăng nặng từ ba năm đến mười năm tù hoặc từ tám năm đến mười lăm năm tù.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như tịch thu tài sản, phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm.
* Hậu quả: không quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt.
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả của tội phạm: việc
thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp phải có
mối quan hệ và là nguyên nhân làm cho tiền, tài sản đó có nguồn gốc hợp pháp.
1.1.3. Khung pháp lý về tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
Hiện nay, tội “Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có” được quy định duy nhất
tại Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, chưa có văn bản nào hướng dẫn thi hành về tội này.
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu cơ bản của tội Rửa tiền
1.2.1. Một số vấn đề chung về rửa tiền:
* Nguồn gốc thuật ngữ "rửa tiền"
Rửa tiền (tiếng Anh: Money laundering) - là cách nói nhằm chỉ sự "làm sạch đồng tiền"
phù hợp theo luật pháp, là hoạt động giao dịch tài chính đặc biệt để giấu tên, nguồn và nơi
đến của đồng tiền. Nói một cách dễ hiểu, Rửa tiền là hành vi che giấu hoặc đánh lừa việc
nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm cho tiền này có bề ngoài hợp pháp.
Tuy nhiên, thuật ngữ "rửa tiền" chỉ chính thức ra đời ở thế kỷ XX, xuất phát từ các
Mafia Mỹ trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.

Với vai trò là một thuật ngữ pháp lý, "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào năm
1982 khi Tòa án Mỹ xử vụ án rửa tiền số 551F Supp.314 ở New York. Sau đó, thuật ngữ "rửa
tiền" xuất hiện khắp nơi trên thế giới.
* Đặc điểm của hoạt động rửa tiền và tác động của rửa tiền tới nền kinh tế - xã
hội
Khái niệm “Tiền” trong thuật ngữ "rửa tiền" cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả
tiền và tài sản do phạm tội mà có chứ không phải chỉ bao gồm tiền là phương tiện lưu thông,
thanh toán.
Dưới khía cạnh tài chính hay pháp lý, rửa tiền đều là hành vi che giấu hoặc đánh lừa
việc nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm cho tiền này có bề ngoài hợp pháp.
- Chu trình rửa tiền bao gồm ba khâu sau:
+ Nạp: Tài sản tội ác đi vào hệ thống tài chính. Tiền bẩn thường được chia nhỏ để ít
gây sự chú ý.
+ Tẩy rửa: tiền bẩn được phân chia theo những tầng cấp giao dịch tài chính với các mức
độ phức tạp khác nhau nhằm mục đích cuối cùng là làm cho rất khó hoặc không thể tìm ra
dấu vết dẫn về nguồn gốc “bẩn” của tiền.
+ Trà trộn: Sau khi đã cho tiền chạy loanh quanh theo những đường phức tạp, tiền bẩn
được thu gom và trà trộn vào nền kinh tế hợp pháp như mua cổ phiếu, hoạt động kinh doanh,
mua bất động sản hoặc mua các thứ xa xỉ v.v
- Các hình thức rửa tiền: cơ cấu lại; đổi tiền; mua tài sản; thông qua người môi giới cổ
phiếu; chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền; rửa tiền trong các sòng bạc; kinh
doanh hợp pháp v.v
* Tác động của rửa tiền đối với nền kinh tế, xã hội: Về mặt phát triển kinh tế, khối
lượng tiền rửa sẽ có tác động xấu đến nền kinh tế qua các khía cạnh chính như sau: làm tăng
tội phạm và tham nhũng, làm xói mòn hệ thống tài chính, làm giảm hiệu quả của khu vực
chính thức và tác động xấu đến khu vực nước ngoài bằng cách bóp méo giá cả và làm chệch
hướng các dòng vốn quốc tế.
* Các quan điểm khác nhau về khái niệm rửa tiền dưới khía cạnh pháp lý
- Theo Công ước về kiểm soát ma túy của Liên hợp quốc (Công ước Viên) rửa tiền gồm
các hành vi:

i. Chuyển hoán hoặc chuyển nhượng tài sản mà biết rằng tài sản đó có nguồn gốc từ
hành vi phạm tội buôn bán bất hợp pháp ma túy nhằm mục đích che giấu nguồn gốc bất hợp
pháp của tài sản hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào tham gia thực hiện hành vi buôn bán
bất hợp pháp ma túy để tránh những hậu quả pháp lý do hành động của người đó gây ra;
ii. Che dấu bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, sự dịch chuyển, các
quyền liên quan, hoặc quyền sở hữu tài sản mà biết rằng tài sản đó có nguồn gốc từ tội phạm
buôn bán ma túy;
iii. Có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản mà biết rằng tài sản đó có nguồn gốc từ
tội phạm buôn bán ma túy
Định nghĩa về hành vi phạm tội rửa tiền của Công ước Viên được chấp nhận rộng rãi
nhất và được sử dụng trong tất cả các văn bản pháp luật quốc tế hiện hành về lĩnh vực này.
Hội đồng châu Âu đã chấp thuận các quy định của Công ước Viên trong Công ước của
mình về rửa tiền, khám xét, thu giữ và tịch thu tiền, tài sản do phạm tội mà có (Công ước
Strasbong ký ngày 08/10/1990).
Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) - một tổ chức được công nhận
là tổ chức đặt tiêu chuẩn quốc tế cho những nỗ lực về chống rửa tiền - đưa ra định nghĩa súc
tích cho thuật ngữ “rửa tiền” là “việc xử lý… tiền do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn
gốc bất hợp pháp của chúng” nhằm “hợp pháp hóa” những món lợi thu được một cách bất
chính từ hành vi phạm tội”.
Sử dụng định nghĩa của Công ước Viên, Điều 6, Công ước về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia của Liên hợp quốc (Công ước Palécmô năm 2000) mở rộng định nghĩa
rửa tiền.
Tại Việt Nam, rửa tiền còn là một khái niệm mới và chưa được thống nhất trong khoa
học pháp lý cũng như luật thực định.
Trong khoa học pháp lý, hiện tồn tại một số quan điểm sau đây về khái niệm “Rửa
tiền”:
Quan điểm của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: “Rửa tiền là hoạt động tội phạm nhằm mục
đích che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản cho phép chủ nhân của tài sản được hưởng
dụng tài sản một cách hoàn toàn hợp pháp, để kinh doanh kiếm lời hoặc để cung cấp tài
chính cho các hoạt động phạm tội khác.”

Quan điểm của PGS.TS Nguyễn Hoà Bình: “Rửa tiền là quá trình hợp pháp hoá những
khoản tiền thu được từ hoạt động tội phạm”.
Trong luật thực định của nước ta, “Rửa tiền” là thuật ngữ được quy định duy nhất tại
khoản 1, Điều 3, Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về Phòng,
chống rửa tiền như sau:
"Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau:
a. Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do
phạm tội mà có;
b. Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng,
vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
c. Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách
khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí,
quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có."
1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội rửa tiền
- Chủ thể
Chủ thể của tội Rửa tiền là chủ thể đặc biệt vì chỉ những người dùng tiền, tài sản có
nguồn gốc bất hợp pháp (có được từ hoạt động phạm tội) để thực hiện các hành vi làm cho
tiền, tài sản đó trở nên hợp pháp mới là chủ thể của tội phạm này.
So với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có, tội rửa tiền có phạm vi chủ thể
rộng hơn. Nếu như trong tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, chủ thể tội phạm
là người làm hợp pháp hóa tiền, tài sản do chính mình phạm tội mà có thì chủ thể của tội Rửa
tiền có thể là người “làm sạch đồng tiền” do chính mình phạm tội mà có, có thể là người “làm
sạch đồng tiền” do người khác phạm tội mà có. Điều này có nghĩa là chủ thể tội rửa tiền bao
gồm chủ thể của cả hai tội được quy định trong Điều 250 và 251 BLHS.
- Khách thể: khái niệm “tiền” trong thuật ngữ “rửa tiền” được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm cả tiền và tài sản nên khách thể của tội rửa tiền là trật tự quản lý nhà nước đối với tiền,
tài sản có nguồn gốc từ tội phạm.
- Mặt chủ quan: lỗi của người rửa tiền là lỗi cố ý. Người rửa tiền nhận biết được hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả xảy ra và mong muốn đạt được

hậu quả đó.
- Mặt khách quan:Rửa tiền là loại tội được tiến hành qua nhiều công đoạn. Vì vậy một
mình ai đó không thể tẩy rửa hết nguồn gốc bất chính của tiền. Do đó, hành vi khách quan
của tội này sẽ phải bao gồm tất cả các thao tác, hành vi tham gia hoặc hỗ trợ vào quá trình rửa
tiền.
- Hình phạt: Mức hình phạt như quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự đã đủ sức răn đe
đối với người phạm tội nên trong tội Rửa tiền có thể giữ nguyên các khung hình phạt này.
1.2.5. Khung pháp lý về đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền trong nền kinh tế
thị trường Việt Nam hiện nay
Khung pháp lý để đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền ở Việt Nam hiện nay bao
gồm:
- Bộ luật Hình sự: Điều 251 và các điều luật khác có liên quan (Điều 194, 153, 161,
154, 250, 178, 279, 280, 283, 284, 289, 290, 181, 268). Bộ luật hình sự là văn bản quy phạm
pháp luật quan trọng nhất trong việc đấu tranh phòng, chống rửa tiền vì Bộ luật hình sự quy
định biện pháp hình sự là biện pháp nghiêm khắc nhất.
- Các văn bản pháp luật khác:
+ Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 08/06/2005 của Chính phủ về Phòng chống rửa tiền
+ Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật phòng chống mại dâm, Luật phòng chống ma túy,
Luật phòng chống tham nhũng. Các văn bản quy phạm pháp luật này quy định việc kiểm soát
đối với hoạt động rửa tiền trong các lĩnh vực như giao dịch tài chính, đầu tư, thành lập doanh
nghiệp hay kiểm soát đối việc hình thành các khoản tiền hoặc thu nhập hợp pháp từ hoạt
động phạm tội như mại dâm, ma túy…
- Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Việt Nam đã ký kết các công ước quốc tế liên quan đến phòng, chống rửa tiền như:
Công ước Palermo về chống tội phạm xuyên quốc gia, Công ước Viên về chống buôn lậu ma
túy và các chất hướng thần, Công ước về chống tham nhũng, Công ước về chống tài trợ cho
khủng bố. Quan trọng nhất là tháng 5/2007, Việt Nam đã gia nhập thành viên Nhóm Châu Á-
Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) và cam kết thực hiện 40+9 Khuyến nghị của Lực
lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF).


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN DO PHẠM TỘI MÀ CÓ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM
2.1. Điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam - môi trƣờng thuận lợi làm phát sinh tội
Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
Nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới là điều kiện tốt
để hoạt động rửa tiền diễn ra. Mỗi năm hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới
trong đó không có gì đảm bảo rằng những đồng vốn đưa vào kinh doanh ở những doanh
nghiệp được thành lập mới này là những đồng tiền không do phạm tội mà có.
Vấn đề thứ hai làm phát sinh hoạt động rửa tiền ở Việt Nam đó là nguồn tiền bất hợp
pháp rất lớn từ các hoạt động tội phạm như tham nhũng, mại dâm, cờ bạc, buôn bán ma túy
v.v làm phát sinh nhu cầu “rửa” những đồng tiền bất hợp pháp này.
Một nguyên nhân cũng làm cho hoạt động rửa tiền có thể dễ dàng được thực hiện ở
Việt Nam đó là việc thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Ngoài ra, việc mở rộng đầu tư nước ngoài cũng là một nguyên nhân dẫn đến gia tăng
hoạt động rửa tiền.
Ngoài hoạt động đầu tư trực tiếp, các hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua thị trường
chứng khoán cũng là nguyên nhân dẫn đến gia tăng hoạt động rửa tiền.
Những điều kiện kinh tế xã hội trên vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với hoạt động
phòng chống rửa tiền ở Việt Nam
2.2. Thực trạng tội phạm Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong nền
kinh tế thị trƣờng Việt Nam
2.2.1. Tình hình tội phạm Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong nền
kinh tế thị trường Việt Nam
Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền cũng
như độ lớn của nó trong nền kinh tế.
Kể từ khi được thành lập (tháng 3/2007) đến nay, Trung tâm thông tin về phòng chống
rửa tiền mới chỉ xác định được khoảng 20 giao dịch nghi ngờ có dấu hiệu rửa tiền nhưng
chưa có một vụ nào được kết luận là hành động rửa tiền.

2.2.2. Thực tiễn giải quyết một số vụ án cụ thể
Từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự Việt Nam mới xử lý hình sự 02 vụ án về tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Gần đây nhất Công an thành phố Đà Nẵng đã phát hiện và bắt giữ hai đối tượng: Baggio
Carlitos Linska, Massamba Lendebe Visquốc tịch Mozambique, đã có hành vi rửa 295.650
bảng Anh (khoảng 8,9 tỷ đồng) tiền đánh cắp từ tài khoản ở nước ngoài tại hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Đây là tiền do bọn tội phạm đánh cắp từ nước ngoài gửi vào Việt Nam cho
hai đối tượng trên.
Vụ án và các đối tượng liên quan đã được giao lại cho Bộ Công an và Interpol xử lý theo
đúng quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
2.3. Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Hợp tác phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế
Một trong những hệ thống luật quốc tế đầu tiên là Uỷ ban Basel về các luật lệ ngân
hàng và các quy tắc thực hành giám sát năm 1988.
Trên bình diện quốc tế, chống rửa tiền được liên kết và có liên quan đến nhiều tổ chức,
từ Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới (WB) đến Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Bộ máy có tính
hệ thống cao và ràng buộc chặt chẽ hiện là Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền
(FATF), được nhóm G-7 thành lập tại Paris năm 1989. Hiện tại, FATF có 34 quốc gia thành
viên, 2 quốc gia quan sát viên và 5 tổ chức khu vực là thành viên liên kết. FATF được coi là
bộ máy chống rửa tiền hiệu quả nhất hiện nay bởi liên hệ không chỉ chính phủ sở tại mà còn
nhiều cơ quan chuyên trách chống tội phạm (chẳng hạn Cảnh sát Quốc tế - Interpol).
Năm 1990, FAFT đã ban hành 40 khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền, được sửa đổi
vào năm 1996, 2000 và năm 2003. Vào tháng 10/2001, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải
quyết các vấn đề về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8 khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ
khủng bố. Vào tháng 10/2004, FATF đã thông qua khuyến nghị đặc biệt 9 liên quan đến
người vận chuyển tiền mặt qua biên giới.
2.3.2. Phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam
Tại điều 251, Bộ Luật hình sự 1999 của nước ta đã quy định tội danh hợp pháp hoá
tiền, tài sản do phạm tội mà có, được coi là cơ sở để xây dựng Nghị định 74/2005/NĐ-CP về
phòng, chống rửa tiền hiện nay. Luật chống tham nhũng, Luật phòng, chống ma tuý, Luật

phòng chống mại dâm cũng đã quy định về các tội phạm là tội phạm nguồn của rửa tiền. Điều
19, Luật các Tổ chức tín dụng đã quy định trách nhiệm của các định chế tài chính đối với các
khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp. Chúng ta đã tham gia Hiệp ước về tổ chức cảnh sát
hình sự quốc tế và tham gia một số điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống rửa tiền như
Công ước Viên về kiểm soát ma túy và các chất hướng thần, Công ước Palecmo về chống tội
phạm xuyên quốc gia, Công ước về chống tham nhũng và gia nhập Công ước quốc tế về
chống tài trợ cho khủng bố năm 1999.
2.4. Sự cần thiết phải thay đổi tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
thành tội Rửa tiền
Việc thay thế tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội Rửa tiền dựa
trên các căn cứ sau:
Thứ nhất, như phân tích ở trên, hành vi khách quan của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản
do phạm tội mà có không bao quát hết các hành vi rửa tiền xảy ra trên thực tế, vẫn còn nhiều
hành vi chưa được hình sự hoá, do đó, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, việc thay thế tội
Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội mới với việc bổ sung thêm các hành vi
khách quan là hết sức cần thiết.
Thứ hai, về sự bất hợp lý của Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, trước hết đó là đã đặt ra
nghĩa vụ chứng minh của cơ quan tư pháp hình sự quá cao, trong khi đó lại có những điều
không thể chứng minh được.
Thứ ba, Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đưa ra
yêu cầu bắt buộc là các quốc gia phải hình sự hoá các hành vi rửa tiền, còn cách thức hình sự
hoá như thế nào là tuỳ thuộc vào thực tiễn lập pháp và tập quán của mỗi quốc gia. Việc tham
gia Công ước này đòi hỏi Việt Nam phải sớm quy định tội Rửa tiền trong Bộ luật hình sự.
Thứ tư, hiện nay trên thế giới các quốc gia đều sử dụng khái niệm tội Rửa tiền. Vì vậy,
việc quy định trong Bộ luật hình sự tội danh mới này không những làm cho pháp luật Việt
Nam hài hòa với pháp luật quốc tế mà còn khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc đấu
tranh phòng và chống rửa tiền vốn đang được các nước nhất là các nước phát triển rất quan
tâm.

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
3.1. Thay thế tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội Rửa tiền
3.1.1. Quy định thống nhất khái niệm rửa tiền trong hệ thống pháp luật
Khoa học pháp lý và luật thực định hiện nay của Việt Nam chưa có một khái niệm
chuẩn và thống nhất về khái niệm "Rửa tiền". Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả loại tội
này trong thực tiễn cần thiết phải quy định thống nhất khái niệm "Rửa tiền" trong các văn bản
pháp luật.
3.1.2. Một số kiến nghị về việc quy định mới tội Rửa tiền trong Bộ luật Hình sự
* Định nghĩa khoa học về "Rửa tiền"
Theo quan điểm của tác giả thì khái niệm rửa tiền được quy định trong Nghị định
74/2005/NĐ-CP của Chính phủ đã bao quát hết dấu hiệu hành vi khách quan của tội này. Tuy
nhiên, định nghĩa ở Nghị định 74/2005/NĐ-CP quy định chưa đầy đủ yếu tố “nhận thức” của
chủ thể về nguồn gốc của tài sản, thu nhập do phạm tội mà có. Việc Nghị định 74/2005/NĐ-
CP quy định chủ thể phải có dấu hiệu “tìm cách” tức là chủ thể không chỉ biết rõ mà còn tích
cực trong việc hợp thức hóa tiền đã loại bỏ nhiều hành vi cấu thành tội này, tức là chủ thể
trước đó có thể không biết nhưng trong quá trình thức hiện hành vi biết mà không dừng lại.
Vì vậy, khái niệm rửa tiền cần được định nghĩa lại như sau:
"Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức thông qua các hoạt động cụ thể sau:
a. Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do
phạm tội mà có;
b. Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng,
vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
c. Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách
khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí,
quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có
nếu chủ thể biết hoặc có thể biết vào thời điểm thực hiện giao dịch hoặc bất kỳ thời
điểm thực hiện hành vi nào tài sản có nguồn gốc do phạm tội mà có."
* Các yếu tố cấu thành tội phạm:
- Chủ thể

Chủ thể của tội Rửa tiền là bất kỳ chủ thể nào chỉ cần họ là người đã thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Họ không nhất thiết phải là người đã thực
hiện hành vi phạm tội khác, có được tiền, tài sản từ việc thực hiện tội phạm đó và người đó
đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng hoặc các
giao dịch khác để làm cho đồng tiền có được từ hoạt động phạm tội trước đây của mình trở
thành đồng tiền hợp pháp như chủ thể của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Như vậy, chủ thể của tội rửa tiền bao hàm cả phạm vi chủ thể của tội Hợp pháp hoá tiền, tài
sản do phạm tội mà có được quy định ở Điều 251 và chủ thể được quy định ở Điều 250 của
Bộ luật hình sự 1999.
Người phạm tội rửa tiền là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở
lên nếu thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng; từ
đủ 16 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi phạm tội thuộc bất kỳ loại tội nào.
- Khách thể
Tội rửa tiền có khách thể là trật tự quản lý nhà nước đối với tiền, tài sản do phạm tội mà
có.
Tiền, tài sản do phạm tội mà có trong khách thể của tội này không chỉ bao gồm tiền, tài
sản tài sản do chính chủ thể của tội rửa tiền có được từ hoạt động phạm tội trước đó của họ
mà bao gồm tất cả các loại tiền, tài sản có nguồn gốc từ tội phạm nói chung. Như vậy tiền, tài
sản trong khách thể của tội rửa tiền bao gồm cả tiền, tài sản trong khách thể của tội Hợp pháp
hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định ở Điều 251 và tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định ở Điều 250 của Bộ luật hình sự 1999.
- Mặt chủ quan
Lỗi của người phạm tội rửa tiền là lỗi cố ý.
Khi thực hiện hành vi phạm tội này, người phạm tội luôn có mục đích làm cho tiền, tài
sản có nguồn gốc bất hợp pháp trở thành tiền, tài sản hợp pháp. Do đó, mục đích là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm này, không phụ thuộc vào việc người phạm tội có đạt được
mục đích của mình hay không.
- Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội Rửa tiền so với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà
có rộng hơn bao gồm các hành vi sau đây:

+ Thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp
hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, hoặc;
+ Sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động kinh tế khác;
+ Sở hữu, sử dụng, giấu diếm, che dấu, vứt bỏ hay mang vào Việt Nam bất kỳ loại tài
sản nào do phạm tội mà có;
+ Biến đổi hoặc chuyển nhượng tài sản đó hoặc mang nó ra khỏi Việt Nam.
* Hình phạt
Xét về hình phạt, tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định ở
Điều 251 có mức hình phạt cao hơn sơ với tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có được quy định ở Điều 250 của Bộ luật hình sự 1999. Hơn nữa, tội Hợp pháp
hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có quy định ba (3) khung hình phạt trong đó quy định khung
hình phạt cơ bản có mức cao nhất là đến năm (5) năm tù (tội phạm nghiêm trọng) và khung
hình phạt cao nhất (khoản 3) là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng) là mức khung hình
phạt tương đối cao, đủ sức răn đe với loại tội phạm này. Vì vậy, tội Rửa tiền không cần quy
định mức khung hình phạt cao hơn so với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Hơn nữa, hầu hết các nước đều quy định mức tối đa của khung hình phạt đối với tội Rửa tiền
là đến 15 năm tù nên chúng ta không cần thiết phải sửa đổi về mức hình phạt đối với loại tội
này.
* Vấn đề trách nhiệm hình sự
- Trách nhiệm hình sự đối với các loại người đồng phạm: Tội rửa tiền thường là tội
phạm có tổ chức vì vậy vấn đề làm rõ trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm có ý
nghĩa rất quan trọng. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, các loại người đồng phạm bao
gồm: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Tội Rửa tiền cũng bao gồm cả bốn loại người đồng phạm trên, trong đó trách nhiệm
hình sự của người tổ chức là nặng nhất.
- Trách nhiệm của pháp nhân đối với việc xử lý hành vi rửa tiền
Luật hình sự Việt Nam không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vì vậy
không thể đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy nhiên, vì rửa tiền thường
thực hiện thông qua các công ty, vì vậy việc xử lý các công ty vi phạm bằng các biện pháp

khác là hết sức cần thiết. Cụ thể, việc áp dụng các chế tài hành chính và dân sự nghiêm khắc
sẽ có tác dụng răn đe buộc các công ty phải tích cực hơn trong nỗ lực ngăn chặn rửa tiền. Vì
vậy, việc ban hành một Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực rửa tiền với những mức chế tài nghiêm khắc là hết sức cần thiết.
- Trách nhiệm hình sự của người phạm tội nguồn đối với tội rửa tiền
Theo quan điểm của tác giả, thì vấn đề trách nhiệm trách nhiệm hình sự của tội phạm
nguồn như sau:
+ Nếu người thực hiện tội phạm nguồn sau đó tiếp tục thực hiện hành vi rửa tiền thì sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự cả tội phạm nguồn và tội rửa tiền.
+ Nếu người thực hiện tội phạm nguồn nếu không thực hiện hành vi rửa tiền thì chỉ bị
truy cứu trách nhiệm về tội phạm nguồn mà người này đã thực hiện.
- Việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với một số chủ thể nhất định
Tội rửa tiền cần loại trừ trách nhiệm hình sự đối với luật sư tham gia bào chữa cho
người bị buộc tội rửa tiền. Một luật sư không bị coi là tham gia vào một giao dịch rửa tiền
nếu nhận phí bào chữa ngay tình cho một người bị buộc tội rửa tiền hoặc một tội phạm xác
định khác. Việc quy định này là rất cần thiết vì nó tạo ra cơ sở pháp lý để luật sư có thể yên
tâm tham gia các vụ bào chữa liên quan đến những người bị buộc tội rửa tiền hay các tội có
liên quan khác nhằm đảo bào quyền bào chữa của bị can, bị cáo được quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự 2003.
3.1.3. Mô hình lý luận tội Rửa tiền
Trên cơ sở một số kiến nghị được nêu ra trong tiểu mục 3.1.2 nêu trên, có thể nêu ra mô
hình tội rửa tiền trong Bộ luật hình sự như sau:
Điều 251 (sửa đổi): Tội rửa tiền
1. Người nào tham gia vào một giao dịch mà bao gồm tài sản phát sinh từ một tội
phạm; hoặc kiếm được, sở hữu, sử dụng, giấu diếm, che dấu, vứt bỏ hay mang vào Việt Nam
bất kỳ loại tài sản nào như vậy; hoặc biến đổi hoặc chuyển nhượng tài sản đó hoặc mang nó
ra khỏi Việt Nam mà người này biết hoặc có thể biết vào thời điểm tham gia giao dịch hoặc
vào thời điểm thực hiện hành vi rằng tài sản đó có nguồn gốc từ hoặc thu được một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp từ một tội phạm thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười

năm:
a. Có tổ chức;
b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c. Phạm tội nhiều lần;
d. Tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn;
đ. Thu lợi bất chính lớn;
e. Gây hậu quả nghiêm trọng
f. Phạm tội chuyên nghiệp
g. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ tám năm đến mười
lăm năm:
a. Tiền, tài sản phạm tội có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
b. Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
4. Người phạm tội có thể bị tịch thu tài sản, phạt tiền đến ba lần số tiền hoặc giá trị tài
sản được hợp pháp hóa, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.
Như vậy, với việc quy định tội rửa tiền với cấu thành tội phạm như trên, tội rửa tiền sẽ
thay thế hai tội bao gồm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
được quy định ở Điều 250 và tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định
ở Điều 251của Bộ luật hình sự 1999. Rõ ràng với việc thay thế hai tội tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có
được thì số vụ án rửa tiền sẽ được phát hiện và xử lý nhiều hơn ở Việt Nam chứ không chỉ có
một số ít vụ được phát hiện như hiện nay. Điều này sẽ làm tăng nỗ lực thực hiện các cam kết
của Việt Nam trong việc đấu tranh có hiệu quả hoạt động rửa tiền.
3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến tội rửa tiền
- Hoàn thiện pháp luật về phòng chống các tội phạm nguồn của tội Rửa tiền như: tham
nhũng, buôn lậu, ma túy, mại dâm, cờ bạc v.v
- Xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền thay cho Nghị định về Phòng, chống rửa tiền
- Hoàn thiện pháp luật về các định chế tài chính liên quan đến rửa tiền theo hướng nâng

cao vai trò các tổ chức tài chính
3.3. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong đó có tham gia các Điều ƣớc quốc tế liên
quan đến phòng, chống tội phạm rửa tiền
Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền là một trong những giải pháp
quan trọng để phòng, chống rửa tiền có hiệu quả ở Việt Nam. Có thể khẳng định được điều
này bởi vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, rửa tiền là một hoạt động tội phạm có tính chất liên quốc gia. Tiền và thu
nhập hợp pháp thường được phát sinh từ một nước sau đó được đem “rửa” tại một quốc gia
khác. Vì vậy, để phòng chống hoạt động rửa tiền hiệu thì cơ quan có thẩm quyền của một
quốc gia không thể không cần đến sự trợ giúp của cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia
đó. Ở đây sự hỗ trợ về thông tin và truy tìm nguồn gốc của nguồn tiền hay nguồn vốn đầu tư
nào đó là một nhân tố rất quan trọng.
Thứ hai, tội phạm rửa tiền là một loại tội phạm có tổ chức rất cao trong đó các phương
pháp, thủ đoạn ngày càng tinh vi và khó phát hiện. Vì vậy, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
phòng, chống rửa tiền sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền của mỗi quốc gia có thể chia sẻ những
kinh nghiệm quý giá với nhau.
Thứ ba, đối với Việt Nam là một quốc gia còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực rửa tiền
thì tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền còn giúp Việt Nam tranh
thủ những sự hỗ trợ quốc tế trong việc xây dựng hệ thống pháp luật, đào tạo đội ngũ cán bộ
có năng lực và trình độ chuyên môn cao cho các cơ quan chuyên thực thi hoạt động phòng,
chống rửa tiền. Ngoài ra, rửa tiền là hoạt động tội phạm mang tính quốc tế, được các quốc gia
phát triển rất quan tâm. Vì vậy, việc tăng cường hợp tác quốc tế còn khẳng định quyết tâm
của Việt Nam trong việc phòng, chống rửa tiền và do đó, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư
nước ngoài cũng như các định chế tài chính quốc tế khi tiến hành đầu tư hay kinh doanh ở
Việt Nam.
3.4. Hoàn thiện các thiết chế thực thi hoạt động phòng, chống rửa tiền
Hiện nay, cơ quan tham gia thực thi việc phòng chống rửa tiền ở Việt Nam bao gồm: cơ
quan điều tra thuộc Bộ Công an và Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền (trực thuộc
Ngân hàng Nhà nước). Tuy nhiên, để hoạt động phòng, chống rửa tiền có hiệu quả thì việc
xây dựng một cơ quan chuyên trách về phồng chống rửa tiền là hết sức cần thiết.

3.5. Xây dựng chiến lƣợc quốc gia về phòng, chống rửa tiền
Như phân tích ở trên, việc phòng chống rửa tiền là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, đây
không phải là nhiệm vụ dễ dàng mà đòi hỏi sự huy động các lực lượng của xã hội cùng tham
gia. Để làm được điều này thì việc xây dựng một “Chiến lược quốc gia về phòng, chống rửa
tiền đến năm 2020” là hết sức cần thiết.

KẾT LUẬN
Phát triển kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới đã
tạo cơ hội cho hoạt động rửa tiền có cơ hội phát triển ở Việt Nam. Mặc dù, Việt Nam chưa có
một thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền và ước lượng qui mô của nó. Tuy nhiên,
trong một vài năm gần đây một số vụ có dấu hiệu rửa tiền đã được phát hiện ở Việt Nam.
Trong một vài năm tới, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục hội nhập sâu hơn vào hệ thống kinh
tế, tài chính thế giới khi mà các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ của WTO dần có
hiệu lực. Điều này đặt ra các thách thức trong pháp luật, kiểm soát tài chính và nhất thiết là
các công cụ chống rửa tiền chúng ta cần nhanh chóng phải xây dựng. Mặt khác, sự hội nhập
này cũng làm cho hệ thống tài chính của Việt Nam đối mặt nhiều hơn nữa các hành vi rửa
tiền ở cấp độ tinh vi hơn và nó mang tầm cỡ quốc tế. Đây là một trở ngại và thách thức đáng
kể trong phát triển kinh tế của Việt Nam.
Trên bình diện quốc tế, các quốc gia đặc biệt là các nước phát triển ngày càng ý thức
được tác hại của việc rửa tiền vì nó không chỉ làm gia tăng tội phạm nguồn ở các nước này
(nhất là các tội phạm liên quan đến buôn bán ma túy, hội lộ cho quan chức các nước đang
phát triển sử dụng nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) hay các tội phạm liên
quan đến người nhập cư và lao động nhập cư) mà còn đây chính là nguồn tài chính tài trợ cho
bọn khủng bố quốc tế. Vì vậy, nhiều quốc gia đặt vấn đề viện trợ và đầu tư nước ngoài gắn
liền với nỗ lực phòng, chống rửa tiền của nước tiếp nhận viện trợ và tiếp nhận đầu tư. Vì vậy,
đối với một quốc gia vẫn còn phụ thuộc nhiều vào việc tiếp nhận viện trợ phát triển và tiếp
nhận đầu tư như Việt Nam thì việc nỗ lực phòng, chống rửa tiền có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Một trong các công cụ để phòng, chống rửa tiền có hiệu quả đó chính là Bộ luật hình
sự. Mặc dù Bộ luật hình sự 1999 có quy định về tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội

mà có tại Điều 251 nhưng trên thực tế cho đến nay rất ít hành vi phạm tội được phát hiện, xử
lý theo tội được quy định tài Điều 251 này. Ngoài ra, việc không quy định đầy đủ các loại
hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm tội này sẽ dẫn đến khả năng bot lọt tội phạm
hoặc truy cứu hình sự ở một tội danh khác mà không phản ánh hết tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi. Trong khi pháp luật hình sự của nhiều nước quy định tội rửa
tiền và có cả một đạo luật riêng về rửa tiền thì việc Bộ luật hình sự quy định tội rửa tiền thay
thế cho tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có và tiến tới ban hành một đạo luật
riêng về phòng, chống rửa tiền nhằm hài hóa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế là rất
cần thiết.



References
Văn bản, Nghị quyết của Đảng
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/2002/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
3. Bộ Chính trị (2008), Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/03/2008 về tiếp tục tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
Văn bản quy phạm pháp luật
4. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999, Hà Nội.
5. Quốc hội (1997), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 06/1997/QH10 ngày
12/12/1997, Hà Nội.
6. Quốc hội (2003), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng nhà nước Việt
Nam số 10/2003/QH11 ngày 17/06/2003, Hà Nội.
7. Quốc hội (1997), Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QH10 ngày 12/12/1997, Hà Nội.
8. Quốc hội (2004), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số
20/2004/QH11 ngày 24/06/2004, Hà Nội.
9. Quốc hội (2000), Luật phòng chống ma túy số 23/2000/QH10 ngày 09/12/2000, Hà Nội.

10. Quốc hội (2008), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy số
16/2008/QH12 ngày 03/06/2008, Hà Nội.
11. Quốc hội (2005), Luật phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 ngày 09/12/2005, Hà
Nội.
12. Quốc hội (2007), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng
số 01/2007/QH12 ngày 04/08/2007, Hà Nội.
13. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005, Hà Nội.
14. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005, Hà Nội.
15. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh phòng, chống mại dâm số 10/2003/PL-
UBTVQH11 ngày 14/03/2003, Hà Nội.
16. Chính phủ (2005), Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về Phòng, chống rửa
tiền, Hà Nội.
17. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Quyết định số 1727/QĐ-NHNN ngày
23/7/2007 về việc Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Thông tin
phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.
18. Thủ tướng Chính phủ (2002), Công văn số 631/VPCP-NC ngày 23/10/2002 về công tác
phòng, chống khủng bố, Hà Nội.
Sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo
19. Nguyễn Hòa Bình (2004), Đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền ở Việt Nam. NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
20. Bộ Tài chính Mỹ (2007), Mạng lưới thi hành luật pháp về tội phạm tài chính, Ngăn chặn
nạn rửa tiền.
21. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự: phần chung,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22. Lê Văn Cảm (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật trực
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS.TSKH Lê Văn Cảm chủ
biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
23. Lê Văn Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật Hình sự, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,

Hà Nội.
25. Nguyễn Trọng Hoài và Nguyền Hoài Bão (2005), “Rửa tiền: trở ngại cho phát triển kinh
tế”, Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2005.
26. Hà Hoàng Hợp, Phạm Bá Khiêm (2005), Tội phạm tài chính trong hội nhập, NXB Thống
kê, Hà Nội.
27. Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), 49 khuyến nghị về chống rửa
tiền và tài trợ khủng bố.
28. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 1999 (Tập I, Phần chung), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Macximov, A.A. (2004), Tội phạm cổ cồn trắng và công nghệ rửa tiền, Anh Côi dịch,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Minh Nghĩa (2002), “Chính sách nhận biết khách hàng, một chính sách chống rửa tiền
hiệu quả ở Mỹ”, Tạp chí Ngân hàng (11/2002)
31. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2000), Pháp luật về đấu tranh phòng chống tội hợp pháp hóa
tiền, tài sản do phạm tội mà có, Kỷ yếu hội thảo ngày 12, 13, 14/12/2000, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Phụng (2002), “Sự cần thiết phải ban hành nghị định chống rửa tiền ở Việt
Nam”, Tạp chí Ngân hàng (7/2002).
33. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần chung),
NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
34. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần các tội
phạm, tập 9), NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
35. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Chống rửa tiền và đấu
tranh chống tài trợ khủng bố, Kỷ yếu hội thảo ngày 22, 23, 24/03/2005, Hà Nội.
36. Schott, Paul Allan (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài trợ cho
khủng bố, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
37. Hoàng Liên Sơn (2002), “Chống nạn rửa tiền qua ngân hàng tư nhân” Đầu tư chứng
khoán (157, 9/12/2002).
38. Stoyan, Tenev và cộng sự (2003), Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh
ở Việt Nam, NXB Thông tấn, Hà Nội.
39. Nguyễn Thị Tam (2001), “Thái Lan với việc chống rửa tiền”, Tạp chí Ngân hàng

(12/2001).
40. Nguyễn Xuân Yêm (2000 ), Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
41. Financial Action Task Force (2007), Annual Review of Non-Cooperative Countries and
Territories 2006-2007: Eighth NCCT Review,
42. Financial Action Task Force (2008), Money Laundering & Terrorist Financing
Vulnerabilities of Commercial Websites and Internet Payment System,

43. Madinger, J., và Zalopaly S. (1999), Money Laundering: A Guide for Criminal
Investigators, Taylor and Francis, New York
44. Reuter, Peter and Truman, Edwin M. (2004), Chasing Dirty Money: The Fight Against
Money Laundering, Institute for International Economcs Publisher, Washington.
45. United Nations (1988), Convention against Illicit Traffic inNarcotic Drugs and
Psychotropic Substances.
46. United Nations (1999), International Convention for the Suppression of the Financing of
Terrorism
47. United Nations (2000), Convention against Transnational Organized Crime.
48. United Nations (2003), Convention against Corruption
49. Walker, John (1998), Modelling Global Money Laundering Flows - some findings,


Các trang thông tin điện tử
50.
51.
52.
53.
54.
55.
56.

57.





×