Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.1 KB, 15 trang )

Trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do
nhà nước gây ra cho doanh nghiệp

Tô Hoàng Phúc

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS Dương Đăng Huệ
Năm bảo vệ: 2009

Abstract: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại
do công chức gây ra cho doanh nghiệp. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm tài sản
của Nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp. Một số giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường đối với những thiệt hại do
công chức nhà nước gây ra cho doanh nghiệp.

Keywords: Doanh Nghiệp; Luật kinh tế; Nhà nước; Pháp luật Việt Nam; Trách nhiệm
tài sản

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng được
những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có
pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ,
công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ như Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi
2001); Bộ luật Dân sự năm 1995 đã dành hai điều 623 và 624 để quy định trách nhiệm bồi
thường của các cơ quan nhà nước và các quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật
Dân sự năm 2005 (Điều 619 và Điều 620). Để cụ thể hóa các quy định nêu trên, đến nay, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 47/CP ngày 3 tháng
5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức


nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 47); Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388). Các Bộ, ngành có liên
quan cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành về việc giải quyết bồi thường thiệt hại
do cán bộ, công chức nhà nước và người tiến hành tố tụng (sau đây gọi chung là người thi
hành công vụ) gây ra.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do người thi hành
công vụ gây ra còn có nhiều hạn chế, bất cập như: hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý

2
không cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ
gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
nói chung mà chỉ coi là trách nhiệm bồi thường của từng cơ quan nhà nước cụ thể (cơ quan
quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại); cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi
thường trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa quy định cụ thể
trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nên việc giải quyết bồi
thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi
thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp
lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách
nhiệm hoàn trả của công chức chưa được quy định rõ ràng.
Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý
độc lập, khi tham gia các quan hệ pháp lý với Nhà nước mà bị thiệt hại do cơ quan, công
chức, viên chức nhà nước gây ra, về nguyên tắc và theo quy định của Điều 74 Hiến pháp, là
một chủ thể có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trách nhiệm của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp là
một loại trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng nhằm bù đắp những thiệt hại mà nhà nước
gây ra cho doanh nghiệp trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Riêng
trong lĩnh vực tố tụng hình sự, do pháp luật Việt Nam chưa quy định trách nhiệm hình sự

của pháp nhân nên doanh nghiệp không phải là một chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự
và quan hệ pháp luật tố tụng trong trường hợp người đại diện hợp hình. Thiệt hại và việc bồi
thường thiệt hại mà doanh nghiệp phải gánh chịu pháp của doanh nghiệp bị bắt, giam giữ,
truy tố, xét xử, thi hành án oan chưa được quy định cụ thể trong các văn bản hiện hành, kể
cả Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11.
Cùng với việc kiện toàn hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của tiến trình hội nhập
quốc tế, nhà nước ta đã và đang nỗ lực cùng với hệ thống chính trị cải thiện môi trường kinh
doanh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Một trong những nỗ lực cải thiện môi trường kinh
doanh là hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại đối với doanh nghiệp trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về trách nhiệm bồi thường nhà nước đã được nhiều nghiên cứu đề cập như PGS.TS Trịnh
Đức Thảo (2008), Hai lý thuyết và hai loại trách nhiệm bồi thường nhà nước, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 113, tháng 1/2008; Bộ Tư pháp, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản, Kỷ yếu
các tọa đàm về Luật Bồi thường nhà nước, Dự án hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Việt
Nam và Nhật Bản (2003-2006); TS. Nguyễn Minh Đoan (2008), Bồi thường nhà nước: từ quan
điểm đến pháp luật và khả năng thực hiện, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 129, tháng
8/2008; PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2008), Một số ý kiến về dự Luật Bồi thường nhà nước,
trong Hội thảo Luật Bồi thường nhà nước nhìn từ góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền
trong tiến trình cải cách tư pháp, Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2008…
Nghiên cứu trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp chưa có nhiều, có thể
kể đến công trình của GTZ MPI - GTZ SME Development Programme, Bộ Tư pháp, Câu lạc bộ
pháp chế doanh nghiệp, Báo cáo đánh giá tác động về quy định trách nhiệm bồi thường nhà
nước đối với doanh nghiệp, tháng 5 năm 2007 là tương đối toàn diện nhằm đánh thực trạng
các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường nhà nước nói chung, trách nhiệm

3
bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp nói riêng. Về cơ bản có thể đánh giá công trình
này đã đề cập tương đối toàn diện về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là Báo cáo đánh giá tác động về quy định trách nhiệm bồi thường nhà

nước đối với doanh nghiệp nên Báo cáo mới chỉ dành phần lớn nội dung để đánh giá thực
trạng, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh
nghiệp, do đó, nhiều vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp
chưa được đề cập nhiều hoặc đề cập ở mức độ khái quát.
Việc Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông
qua ngày 18 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, thể hiện
quyết tâm của nhà nước trong việc nâng cao trách nhiệm của mình đối với nhân dân cũng như
đối với doanh nghiệp đặt ra vấn đề cần tìm kiếm các giải pháp để thực thi tốt đạo luật quan
trọng này. Đây là nội dung chưa được công trình nào đề cập. Do vậy, việc lựa chọn đề tài
"Trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do Nhà nước gây ra cho doanh nghiệp" làm
luận văn thạc sĩ luật học là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước, luận văn tập
trung vào xây dựng các vấn đề lý luận pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với
doanh nghiệp; phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước, khái quát
nội dung Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009 và đề xuất nhóm giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích làm rõ bản chất trách nhiệm bồi thường nhà nước, căn cứ
truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp. Trên cơ sở
các vấn đề lý luận này, Luận văn phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường
nhà nước đối với doanh nghiệp, khái quát nội dung cơ bản Luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước và đề xuất các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi Luật Bồi thường nhà
nước trong thực tiễn đối với các doanh nghiệp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp
phân tích, so sánh, phương pháp lịch sử để chỉ rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi
thường nhà nước, trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm chỉ rõ những
bất cập, hạn chế trong việc thực thi pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh
nghiệp trong thời gian qua, trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các quy định tương tự trong pháp

luật của một số nước trên thế giới.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã khái quát được hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước;
xây dựng các luận cứ cho việc xác định trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với những
thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp; nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước đối
với việc truy cứu trách nhiệm bồi thường của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho
doanh nghiệp;
- Luận văn khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật trách nhiệm bồi
thường nhà nước, pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây

4
ra cho doanh nghiệp. Chỉ rõ những kết quả đã đạt được trong quá trình thực thi pháp luật
trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp làm tiền
đề lý luận cho việc đề xuất các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp.
- Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, luận văn đã chỉ rõ những cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước
đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp trong bối cảnh đã có Luật trách nhiệm bồi
thường nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu làm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do
công chức gây ra cho doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm tài sản của Nhà nước đối với những thiệt
hại gây ra cho doanh nghiệp.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường
đối với những thiệt hại do công chức nhà nước gây ra cho doanh nghiệp
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM TÀI SẢN

CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO CÔNG CHỨC GÂY RA CHO
DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm tài sản của Nhà nƣớc đối với những thiệt
hại gây ra
1.1.1. Trách nhiệm tài sản của nhà nước - một dạng trách nhiệm bồi thường ngoài hợp
đồng
1.1.1.1. Bản chất của bồi thường nhà nước
Phân tích, tham khảo các quan niệm cũng như quy định về trách nhiệm bồi thường nhà
nước Luận văn đưa ra định nghĩa trách nhiệm bồi thường nhà nước như sau: trách nhiệm bồi
thường nhà nước là việc Nhà nước thừa nhận và thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ.
1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường nhà nước
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường của nhà nước là loại trách nhiệm ngoài hợp đồng
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường nhà nước là loại trách nhiệm gắn liền với hoạt động thi
hành công vụ
Thứ ba, mục đích của việc thiết lập trách nhiệm bồi thường nhà nước không chỉ là để bù đắp
những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà nhà nước đã gây ra cho tổ chức, cá nhân khi thi hành
công vụ mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao ý thức trách nhiệm của công chức khi thi
hành công vụ
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp và ảnh hưởng của chúng đối với việc xây dựng Luật
Trách nhiệm bồi thường nhà nước
1.1.2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp với tư cách là chủ thể được bồi thường

5
Doanh nghiệp là một chủ thể cơ bản, có vai trò đặc biệt quan trọng và được coi là tế bào,
là đơn vị sản xuất ra và trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường; thu hút chủ yếu nguồn
lực của xã hội tạo ra thu nhập quốc dân.
Một số đặc điểm của doanh nghiệp có tác động đến việc bồi thường nhà nước như sau:
Một là, doanh nghiệp là một chủ thể của pháp luật, nghĩa là doanh nghiệp cũng tham gia
vào các quan hệ pháp luật nó có thể gây thiệt hại và bị gây thiệt hại như những chủ thể pháp

luật khác. Khi bị người khác gây thiệt hại, doanh nghiệp cũng có quyền yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Hai là, với tư cách chủ thể kinh doanh lấy hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận trên
thị trường nên nếu bị gây thiệt hại sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Ba là, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thông qua người đại diện
theo pháp luật
1.1.2.2. Một số quy định đặc thù trong chế định bồi thường nhà nước đối với doanh
nghiệp
Các quy định pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước thừa nhận quyền yêu cầu Nhà
nước bồi thường những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp. Theo các quy định của pháp luật
hiện hành, có thể tạm chia ra hai loại bồi thường nhà nước.
Loại thứ nhất, có thể coi là bồi thường đặc biệt, là bồi thường cho những trường hợp bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11
ngày 17/03/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết 388).
Loại bồi thường nhà nước thứ hai, có thể gọi là bồi thường chung, chịu sự điều chỉnh của
Điều 619 về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra và Điều 620 về bồi thường
thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Bộ luật Dân sự 2005
và hướng dẫn thi hành tại Nghị định 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 về việc giải quyết bồi
thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra (Nghị định 47) và Thông tư số 54/1998/TT-BTCCBCP ngày 04 tháng 06
năm 1998 của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (Thông tư 54).
1.2. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm tài sản của nhà nƣớc đối với những thiệt
hại gây ra cho doanh nghiệp
1.2.1. Đặc thù trách nhiệm tài sản nhà nước đối với những thiệt hạ gây rai doanh
nghiệp
Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể có quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý độc lập, khi
tham gia các quan hệ pháp lý với Nhà nước mà bị thiệt hại do cơ quan, công chức, viên chức nhà
nước gây ra, về nguyên tắc và theo quy định của Điều 74 Hiến pháp, thì có quyền yêu cầu Nhà

nước bồi thường thiệt hại.
1.2.2. Quyền yêu cầu trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra
cho doanh nghiệp
Để bảo đảm thực thi trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với doanh nghiệp, luật pháp
phải ghi nhận quyền này trong các văn bản pháp luật của mình. Pháp luật của các nước cũng
như Việt Nam quy định khá cụ thể quyền yêu cầu nhà nước phải chịu trách nhiệm đền bù

6
những tổn thất do hành vi thực thi công vụ của công chức gây ra đối với doanh nghiệp. Trên
cơ sở những phân tích trên đây, có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau đây:
Một là, trách nhiệm đền bù tổn thất do hành vi thực thi công vụ của nhà nước đối với
doanh nghiệp là tất yếu, vì nhà nước là sản phẩm của con người nên trong hoạt động của nó
cũng mắc phải những sai lầm nhất định;
Hai là, việc ghi nhận quyền yêu cầu nhà nước đền bù những tổn thất gây ra cho doanh
nghiệp thể hiện quyết tâm của các nhà nước trong việc nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
thực thi công vụ nhằm tạo lập môi trường kinh doanh an toàn, hiệu quả cho các doanh nghiệp;
Ba là, quyền yêu cầu nhà nước đền bù những tổn thất về những thiệt hại gây ra cho doanh
nghiệp là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần vào bù đắp những thiệt hại phát sinh góp phần
bảo toàn tài sản của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
1.2.3. Căn cứ phát sinh và các yêu cầu đối với trách nhiệm tài sản của nhà nước đối
với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp
Để giúp cho việc thực thi trách nhiệm đền bù những tổn thất gay ra cho doanh nghiệp của
nhà nước được thực thi trên thực tế, chế định trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những
thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, kịp thời, công khai và đúng pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, thời gian
đối với các doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, bởi nếu thủ tục giải quyết đòi đền
bù những tổn thất mà nhà nước gây ra cho doanh nghiệp không được tiến hành kịp thời sẽ gây
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trên thực tiễn.
Các trình tự thủ tục đòi bồi thường tổn thất cần được quy định cụ thể, công khai để các doanh
nghiệp nếu bị thiệt hại có thể dễ dàng yêu cầu mà không gặp bất cứ trở ngại nào.

Thứ hai, phải bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện quyền yêu cầu
nhà nước đền bù những tổn thất gây ra cho doanh nghiệp, nhất là phải bảo đảm duy trì hoạt
động bình thường của doanh nghiệp trong suốt quá trình thực hiện quyền yêu cầu nhà nước
đền bù những tổn thất gây ra cho doanh nghiệp. Để có thể yêu cầu nhà nước đền bù những tổn
thất gây ra cho doanh nghiệp, các cơ quan có trách nhiệm giải quyết phải tiến hành nhanh
chóng, không làm cản trở đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn cũng đã có
không ít trường hợp, do doanh nghiệp thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền như kê biên tài sản, thanh tra, kiểm tra, ra quyết định xử lý trái với quy định của pháp
luật hoặc có những hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Thứ ba, các quy định về đền bù tổn thất do nhà nước gây ra đối với doanh nghiệp phải
được tiến hành trên cơ sở bình đẳng giữa nhà nước và doanh nghiệp yêu cầu trên cơ sở tôn
trọng sự thoả thuận về mức đền bù giữa cơ quan gây thiệt hại và doanh nghiệp trên tinh thần
hợp tác, cùng có lợi. các quy định pháp luật về đền bù tổn thất những thiệt hại mà nhà nước
gây ra cho doanh nghiệp về uy tín, độ tin cậy của đối tác, khách hàng đối với doanh nghiệp
cần có những cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc nhà nước đền bù qua loa, không thỏa đáng
cũng như doanh nghiệp lợi dụng tính trừu tượng của vấn đề này để đòi hỏi mức đền bù quá
cao
1.2.4. Các lĩnh vực phát sinh trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại
gây ra cho doanh nghiệp

7
a. Trách nhiệm tài sản của nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp
b. Trách nhiệm tài sản của nhà nước trong lĩnh vực tố tụng
1.3. Kinh nghiệm lập pháp của các nƣớc về trách nhiệm tài sản của nhà nƣớc đối với
những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp
1.3.1. Quyền yêu cầu bồi thường nhà nước của doanh nghiệp
Kể từ khi trách nhiệm bồi thường nhà nước được chính thức thừa nhận, phạm vi bồi
thường nhà nước luôn là vấn đề được quan tâm nhiều nhất ở các quốc gia bởi phạm vi bồi

thường theo luật định rộng hay hẹp, phù hợp hay không phù hợp ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người bị thiệt hại, đồng thời còn là tiêu chí nổi bật để đánh giá mức độ dân chủ
của quốc gia.
Những nghiên cứu so sánh kinh nghiệm của các nước trên thế giới về phạm vi bồi thường
nhà nước trên đây cho thấy Việt Nam trước hết phải xác định được quan điểm lập pháp chính
thống về phạm vi bồi thường nhà nước. Quan điểm bồi thường toàn diện, triệt để xuất phát từ
lợi ích của người dân của Nhật Bản, quan điểm duy trì một phần quyền miễn trừ quốc gia của
Hoa Kỳ và chủ trương bồi thường có hạn chế của pháp luật Trung Quốc là những kinh
nghiệm tham khảo đáng quý đối với Việt Nam. Tôn trọng và cố gắng bảo vệ tối đa quyền lợi
của người bị thiệt hại nhưng cũng cần tính đến khả năng thực thi (bao gồm cả năng lực thực
thi của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và khả năng tài chính của quốc gia) và đảm bảo
nguyên tắc không hạn chế việc ra quyết định nhanh chóng, hiệu quả của các cơ quan nhà nước
là những vấn đề quan trọng cần cân nhắc trong quá trình xác định phạm vi trách nhiệm bồi
thường nhà nước. Còn về cách thức quy định, hướng thay đổi khả thi hơn cả là đưa ra các quy
định rõ ràng, cụ thể về các trường hợp được bồi thường trong từng lĩnh vực cụ thể và quy định
về thẩm quyền mở rộng thêm các trường hợp được bồi thường của tòa án khi cần. Đối với các
doanh nghiệp, cũng như các cá nhân và tổ chức khác, nếu những đề xuất này được thực thi,
chắc chắn quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ bảo vệ hiệu quả hơn so với hiện nay.
1.3.2. Lĩnh vực hoạt động của nhà nước chịu sự điều chỉnh của pháp Luật Bồi thường
nhà nước
Cùng với quyền khởi kiện, vấn đề quan trọng thứ hai đối với các doanh nghiệp là liệu nhà
nước sẽ bồi thường thiệt hại cho các doanh nghiệp trong những lĩnh vực nào.
Nhật Bản là nước quy định phạm vi điều chỉnh của pháp Luật Bồi thường nhà nước rộng
nhất trong ba nước được chọn để nghiên cứu. Điều 17, Hiến pháp Nhật Bản quy định: "mọi
người có thể yêu cầu, theo quy định của pháp luật, đòi nhà nước hoặc cơ quan công quyền bồi
thường thiệt hại mà họ phải gánh chịu do những hành vi trái pháp luật của các quan chức nhà
nước gây ra".
Hoa Kỳ đã thừa nhận trách nhiệm bồi thường bằng việc ban hành Luật Khiếu kiện Bồi
thường Liên bang năm 1946. Vốn là một quốc gia theo học thuyết miễn trừ quốc gia, nên cho
đến trước năm 1946, luật pháp Hoa Kỳ không cho phép công dân kiện chính quyền liên bang

về những thiệt hại do các cơ quan nhà nước hoặc nhân viên của những cơ quan này gây ra
Trung Quốc là một trường hợp rất đặc biệt khác hẳn với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Về nguyên
tắc doanh nghiệp có quyền yêu cầu bồi thường nhưng thực tế không phải trường hợp nào có
thiệt hại cũng có thể thực thi quyền này. Bằng phương pháp liệt kê cụ thể các trường hợp

8
được bồi thường của pháp luật Trung Quốc đã bó hẹp quyền yêu cầu bồi thường của doanh
nghiệp, hạn chế nhiều trường hợp đáng ra có quyền yêu cầu bồi thường.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM TÀI SẢN CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI THIỆT HẠI GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng nhà nƣớc đối với các thiệt hại
gây ra cho doanh nghiệp trƣớc ngày 01 tháng 01 năm 2010 - ngày luật bồi thƣờng nhà
nƣớc có hiệu lực thi hành
2.1.1. Các văn bản pháp luật về trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do nhà
nước gây ra cho doanh nghiệp
Trước khi ban hành Luật bồi thường Nhà nước, Việt Nam cũng đã ban hành một hệ thống
tương đối nhiều các văn bản điều chỉnh hoạt động bồi thường nhà nước. Cụ thể là:
- Điều 72, 74 Hiến pháp 1992 quy định: Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái
pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý
nghiêm minh. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được
bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
- Điều 623, 624 Bộ luật dân sự 1995 sau này là Điều 619, 620 Bộ luật dân sự 2005;
- Nghị định 47/CP ngày 3 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường
thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra;
- Thông tư 38/1998/TT-BYC ngày 30 tháng 3 năm 1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc
lập dự toán, sử dụng và quyết toán Ngân sách Nhà nước cho bồi thường thiệt hại do công

chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra;
- Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 4 tháng 6 năm 1998 của Ban Tổ chức cán bộ
Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định 47/CP ngày 3
tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên
chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra;
- Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về việc hồi thường thiệt hại cho người bị do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng gây ra;
- Thông tư liên tịch 01/2004/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25 tháng
3 năm 2004 hướng dẫn thi hành Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm
2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc hồi thường thiệt hại cho người bị hại do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra;
- Thông tư liên tịch 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 22 tháng
11 năm 2006 hướng dẫn thi hành Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3
năm 2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc hồi thường thiệt hại cho người bị hại do
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra thay thế cho Thông tư 01/2004/ TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BTP-BQP-BTC ở trên.

9
2.1.2. Hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm tài sản của nhà
nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp
2.1.2.1. Trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
về doanh nghiệp còn chung chung, các quy định về bồi thường thiệt hại theo quy định hiện
hành rất khó vận dụng cho các doanh nghiệp bị thiệt hại
2.1.2.2. Bồi thường trong hoạt động tố tụng
Thời gian qua, số lượng đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại ít hơn nhiều so với thống kê của
các cơ quan tố tụng về số lượng người bị oan sai, cụ thể: tính đến ngày 30/5/2005 toàn ngành
kiểm sát rà soát được 321 trường hợp bị oan mà ngành kiểm sát có trách nhiệm bồi thường
nhưng ngành chỉ nhận được 96 đơn yêu cầu bồi thường; từ 1996 đến 12/2005 có 640 trường

hợp Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội, số lượng đơn yêu cầu bồi thường gửi đến
các tòa trên toàn quốc là 73. Số lượng đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại được chấp nhận giải
quyết không nhiều và trong số đó mới chỉ có một tỷ lệ nhỏ giải quyết xong. Toàn ngành kiểm
sát giải quyết xong 46/49 đơn yêu cầu bồi thường (tính đến 30/5/2005); toàn ngành tòa án
chấp nhận 65/73 đơn yêu cầu bồi thường và chỉ giải quyết xong 20 trường hợp. Tại các địa
phương đã khảo, tỷ lệ đơn yêu cầu bồi thường/đơn được chấp nhận bồi thường/ đơn đã giải
quyết xong(chung cho cả 3 cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án) tương ứng là: Hà Nội: 12/7/2;
Thành phố Hồ Chí Minh: 31/15/08; Đà Nẵng: 10/6/2; Lạng Sơn: 9/2/2; Tiền Giang: 10/7/2.
Lý do chủ yếu để từ chối đơn yêu cầu bồi thường là: không thuộc đối tượng được bồi thường
theo Nghị quyết 388. Thực tế cho thấy do sự chưa rõ ràng của các quy định pháp luật nên các
cơ quan tố tụng và người dân có liên quan đều gặp khó khăn trong việc hiểu và áp dụng thống
nhất NQ 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị quyết 388 để xác định: người bị oan
thuộc diện được bồi thường (do không thực hiện hành vi phạm tội; khi một người bị khởi tố,
truy tố, xét xử về nhiều tội); thời điểm tính thời hạn yêu cầu (từ khi có quyết định minh oan
hay từ khi người bị oan nhận được quyết định đó) và thời điểm hết thời hạn yêu cầu bồi
thường thiệt hại (liên quan đến sự không rõ ràng trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của
Nghị quyết 388). Các trường hợp thuộc diện được chấp nhận bồi thường nhưng chưa giải
quyết xong chủ yếu là vì cơ quan tố tụng phải bồi thường và người bị oan không thỏa thuận
được về mức bồi thường, do đó, người bị oan tiếp tục khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự tại
tòa án.
2.1.2.3. Bồi thường nhà nước trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
Mặc dù Bộ luật Dân sự và Nghị định số 47/CP quy định chung về trách nhiệm của các cơ
quan tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra, không phân
biệt trong hoạt động tố tụng hình sự hay các loại tố tụng khác, nhưng cho đến nay, kết quả
khảo sát thực tiễn cho thấy, các cơ quan tố tụng vẫn cho rằng mỗi lĩnh vực tố tụng đều có
những đặc thù của mình nên cần có văn bản pháp luật điều chỉnh riêng giống như Nghị quyết
388 điều chỉnh riêng trách nhiệm bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự. Đây chính là lý
do mà các cơ quan tố tụng thường đưa ra để từ chối chấp nhận đơn yêu cầu bồi thường thiệt
hại trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Qua nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự, tố tụng
hành chính có thể bước đầu nhận diện những loại hành vi trái pháp luật tố tụng gây thiệt cho

cá nhân, tổ chức sau:
- Tòa án chậm thụ lý hoặc không chịu thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình;

10
- Tòa án kéo dài thời gian giải quyết vụ án so với quy định của pháp luật;
- Người tiến hành tố tụng quyết định, thay đổi hay hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trái pháp luật (tự ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường
hợp không cần thiết áp dụng; không áp dụng trong trường hợp phải áp dụng; áp dụng không
đúng hoặc vượt quá yêu cầu của các đương sự );
- Người tiến hành tố tụng vi phạm các thủ tục tố tụng, cố ý đánh giá sai chứng cứ, cố ý ra
quyết định, bản án sai pháp luật.
- So với tố tụng dân sự, điểm đặc thù trong việc xác định trách nhiệm bồi thường của cơ
quan tiến hành tố tụng hành chính (tòa hành chính) là nếu bản án hành chính công nhận tính
hợp pháp của quyết định, hành vi hành chính (là đối tượng bị khởi kiện) đã được thi hành
nhưng sau đó bản án này bị tuyên hủy thì cả cơ quan, cá nhân đã thực hiện quyết định, hành vi
hành chính sai trái lẫn tòa án hành chính đã ra bản án sai đều phải chịu trách nhiệm bồi
thường về thiệt hại gây ra cho cá nhân, tổ chức.
2.2. Những nội dung cơ bản của luật trách nhiệm bồi thƣờng nhà nƣớc
Để xây dựng và thông qua Luật này, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp thành lập Ban soạn
thảo gồm đại diện lãnh đạo các cơ quan: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ và đã
chỉ đạo cơ quan chủ trì. Ngày 18 tháng 6 năm 2009 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Có thể khái quát nội dung Luật trách
nhiệm bồi thường nhà nước qua những khía cạnh sau đây:
Một là, trước khi Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước được ban hành, trách nhiệm bồi
thường nhà nước được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên dễ dẫn đến tình
trạng mâu thuẫn chồng chéo. Nhìn chung, các văn bản này là các văn bản dưới luật, cụ thể
hóa trách nhiệm bồi thường nhà nước ở từng lĩnh vực khác nhau. Việc quy định cùng vấn đề ở

các văn bản pháp luật khác nhau đã làm ảnh hưởng đến tính thống nhất của các quy định pháp
luật. Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đã tạo hành lang pháp lý thống nhất cho việc yêu
cầu nhà nước bồi thường những thiệt hại gây ra.
Hai là, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước quy định cụ thể về đối tượng được bồi
thường; quyền yêu cầu bồi thường; thời hiệu yêu cầu bồi thường; căn cứ xác định trách nhiệm
bồi thường; nguyên tắc giải quyết bồi thường; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có trách
nhiệm bồi thường; quyền, nghĩa vụ của người bị thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của người thi hành
công vụ đã gây ra thiệt hại; trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường cũng như
các hành vi bị cấm
Ba là, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước quy định cụ thể trình tự, thủ tục yêu cầu đòi
bồi thường thiệt trong các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự và thi hành án
Tóm lại, pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước đã được nhà nước ta quan tâm xây
dựng nhằm tạo lập hành lang pháp lý thống nhất bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do
hành vi của công chức, viên chức, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, người tiến hành
tố tụng gây ra. Những quy định này thể hiện quan điểm tiến bộ, trách nhiệm của Nhà nước
trong hoạt động.

11
Các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý quan trọng cho doanh
nghiệp - chủ thể trong các quan hệ kinh tế dân sự, đối tượng quản lý của nhà nước để yêu cầu
nhà nước phải bù đắp những tổn thất gây ra cho doanh nghiệp, người quản lý điều hành hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Những quy định này đã góp phần đáng kể vào việc xác
lập môi trường kinh doanh an toàn, bình đẳng, tạo lập niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp
vào cơ chế, chính sách, pháp luật của nhà nước.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật này vẫn còn khó vận dụng trong thực tế giải quyết yêu
cầu bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp có đơn yêu cầu, như thủ tục rườm rà, còn nhiều
mâu thuẫn chồng chéo, các quy định pháp luật còn trong tình trạng vô hiệu hóa lẫn nhau hoặc
xác định thiệt hại xuất phát từ hành vi vi phạm của công chức, viên chức, người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước, người tiến hành tố tụng gây ra liên quan đến hoạt động kinh
doanh, thương hiệu, lượng khách hàng của doanh nghiệp…

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, môi trường kinh doanh của nước ta đã có những bước
cải thiện đáng kể, song hiện tượng nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp vẫn còn khá phổ biến đã làm suy giảm lòng tin của doanh nghiệp vào chính sách, pháp
luật của nhà nước. Do vậy, việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về trách nhiệm tài sản của nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế là vấn đề cấp thiết, có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO CÔNG
CHỨC NHÀ NƢỚC GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP
3.1. Những tác động của luật bồi thƣờng nhà nƣớc đối với quyền yêu cầu bồi thƣờng
thiệt hại do nhà nƣớc gây ra cho doanh nghiệp
Thứ nhất, Luật bồi thường nhà nước ngoài việc khắc phục những bất cập, hạn chế trong
các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Thứ hai, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo đảm quyền
công dân, quyền con người, trong đó có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại do cán bộ,
công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ đã được quy định tại Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X
cũng như tạo tiền đề chính trị tư tưởng cho việc thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại của
doanh nghiệp.
Thứ ba, Luật bồi thường nhà nước góp phần nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong khi
thi hành công vụ theo nguyên tắc, nhà nước cũng là một chủ thể trong đời sống xã hội, nếu
gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ thì cũng phải bồi thường,
nhất là trong bối cảnh những tác động của kinh tế thị trường vào hoạt động công vụ của công
chức ngày càng đa dạng phức tạp dưới nhiều sắc thái khác nhau.
Thứ tư, Luật bồi thường nhà nước có tác động trực tiếp đến ý thức trách nhiệm của các bộ
công chức trong khi thi hành công vụ, nhất là trong hoạt động quả lý hành chính nhà nước.

12

3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm
bồi thƣờng đối với những thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nƣớc gây ra cho doanh
nghiệp
3.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường
nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp
Thứ nhất, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, an toàn bình đẳng cho các doanh
nghiệp hoạt động.
Thứ hai, nâng cao vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thi hành công vụ.
3.2.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm
bồi thường nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp
Một là, khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ra đời là dân chủ hóa đời sống xã hội. Luật này đặt
vai trò, địa vị pháp lý của người dân ngang bằng với Nhà nước. Nghĩa là Luật cho phép người
dân kiện, Nhà nước phải bồi thường khi các công chức, viên chức của mình có lỗi. Điều này
có ý nghĩa to lớn tới tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính của đất nước
Luật quy định cụ thể, Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về công tác
bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án; phối hợp với Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng;
ban hành theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; hàng năm, thống kê, tổng kết việc thực
hiện bồi thường; báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác bồi thường khi
có yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện
nhiệm vụ trên.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường; hàng năm, báo cáo Bộ Tư pháp
về công tác bồi thường của bộ, ngành, địa phương mình. Bộ Tài chính có trách nhiệm xây
dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn

bản quy phạm pháp luật về việc sử dụng và quyết toán ngân sách nhà nước về bồi thường.
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình quản lý công tác bồi thường và phối hợp với Chính phủ trong việc thực hiện quản lý
nhà nước về công tác bồi thường; hàng năm, thông báo cho Bộ Tư pháp về công tác bồi
thường của ngành mình. Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 11
Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Tuy nhiên, quản lý nhà nước trong lĩnh vực bồi thường nhà nước là rất phức tạp, có ảnh
hưởng trực tiếp đến uy tín của nhà nước trước nhân dân. Do đó, dễ cho các quy định pháp luật
đi vào trong đời sống thực tế, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan nhà
nước phải khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Đây là việc cần

13
tiến hành ngay để tránh tình trạng "chờ" văn bản hướng dẫn thi hành luật như đã từng xảy ra ở
nước ta thời gian qua.
Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, phổ biến pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước
đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp
Công tác giáo dục, phổ biến pháp luật luôn là công việc được tiến hành thường xuyên,
nhằm từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, trong đó có các doanh nghiệp.
Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động kinh doanh, đầu tư
Bốn là, đẩy mạnh cải cách tư pháp để hạn chế tình trạng oan sai trong hoạt động tố tụng
hình sự, dân sự đối với doanh nghiệp cũng như người quản lý điều hành doanh nghiệp

KẾT LUẬN
Trách nhiệm bồi thường nhà nước là một vấn đề quan trọng trong pháp luật Việt Nam và
thế giới. Sự tồn tại của chế định pháp lý về trách nhiệm bồi thường nhà nước một mặt phản
ánh trình độ phát triển và tính dân chủ của một quốc gia, mặt khác, là công cụ góp phần đảm
bảo pháp chế. Nghiên cứu pháp luật các nước về trách nhiệm bồi thường nhà nước cho thấy,
trách nhiệm bồi thường nhà nước là một dạng đặc biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Phân tích, tham khảo quy định về trách nhiệm bồi thường nhà nước thì, trách

nhiệm bồi thường nhà nước là việc Nhà nước thừa nhận và thực hiện trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ.
Ở Việt Nam, trước khi Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước được ban hành năm 2009,
trách nhiệm bồi thường nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001), Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 29,
30); Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ cũng cụ thể hóa các quy định trong
Bộ luật Dân sự năm 1995 về việc bồi thường thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức phải gánh
chịu do cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm quyền của các cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra; Nghị quyết số 388/2003/ NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ra về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Tuy nhiên, Nghị quyết 388 chỉ giải quyết trách nhiệm
bồi thường nhà nước trong lĩnh vực tố tụng hình sự đối với các trường hợp bị oan. Tuy nhiên,
các quy định này còn tản mạn, chưa thống nhất với các văn bản pháp luật được ban hành trong
thời gian gần đây. Không những thế, thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà
nước cho thấy, các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước chưa thật sự hiệu quả.
Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đã tạo hành lang pháp lý thống nhất cho việc yêu
cầu nhà nước bồi thường những thiệt hại gây ra. Luật này quy định trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại;
quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả
của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.
Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ra đời thể hiện bước tiến trong quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội. Luật này đặt vai trò, địa vị pháp lý của người dân ngang bằng với Nhà

14
nước. Nghĩa là Luật cho phép người dân kiện, Nhà nước phải bồi thường khi các công chức,
viên chức của mình có lỗi. Điều này có ý nghĩa to lớn tới tiến trình cải cách tư pháp, cải cách
hành chính của đất nước
Là một lĩnh vực pháp luật mang tính nhạy cảm cao, các quy định pháp luật về trách nhiệm
bồi thường nhà nước có được thực thi có hiệu quả trên thực tế hay không phụ thuộc vào nhận

thức, thái độ của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ. Việc tìm kiếm các giải pháp
nâng cao hiệu quả pháp Luật Bồi thường nhà nước trong các lĩnh vực là việc làm cần được
tiến hành thường xuyên nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực thi
pháp luật, nhất là trong việc bồi thường đối với các doanh nghiệp. Những giải pháp được đề
cập trong Luận văn mới chỉ là bước đầu, vấn đề nâng cao hiệu quả thực thi pháp Luật Bồi
thường nhà nước đối với doanh nghiệp cần được nghiên cứu sâu hơn, nhất là trong bối cảnh
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và triển khai cụ thể các cam kết
quốc tế, thì việc yêu cầu bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp được xem như một biện pháp
cần thiết để nhà đầu tư yên tâm kinh doanh ở Việt Nam.

References
1. Bộ Tư pháp, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản, Kỷ yếu các tọa đàm về Luật Bồi thường
nhà nước, Dự án hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam và Nhật Bản
(2003-2006), Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2007), Dự án điều tra cơ bản trách nhiệm bồi
thường nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hoạt động của các cơ
quan nhà nước gây ra, Báo cáo tổng hợp kết quả, Hà Nội.
3. Chính phủ (1998), Nghị định 97/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 của Chính phủ
về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức, Hả Nội.
4. Nguyễn Đăng Dung, "Bồi thường thiệt hại với tư cách là một chế định của nhà nước chịu
trách nhiệm", www.vibonline.com.vn.
5. Nguyễn Minh Đoan (2008), "Bồi thường nhà nước: từ quan điểm đến pháp luật và khả năng
thực hiện", Nghiên cứu lập pháp, (129).
6. LuËt båi th-êng thiÖt h¹i trong c¸c vô ¸n h×nh sù cña NhËt B¶n.
7. LuËt båi th-êng thiÖt h¹i do bÞ t¹m gi÷, tam giam oan sai cña n-íc Céng hßa Ph¸p, sè 70-
643, ngµy 17-7-1970.
8. LuËt nhµ n-íc båi th-êng thiÖt h¹i cña n-íc Céng hßa nh©n d©n Trung Hoa, ngµy 12-5-
1994.

15

9. Nguyễn Hoài Nam (2009), "Quản lý nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước về bồi
thường nhà nước", Nghiên cứu lập pháp, 4(141).
10. Phạm Duy Nghĩa (2008), "Một số ý kiến về dự Luật Bồi thường nhà nước", Trong Hội
thảo: Luật Bồi thường nhà nước nhìn từ góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền
trong tiến trình cải cách tư pháp, Hà Nội ngày 18 tháng 4.
11. GTZ MPI - GTZ SME Development Programme, Bộ Tư pháp, Câu lạc bộ pháp chế
doanh nghiệp (2007), Báo cáo đánh giá tác động về quy định trách nhiệm bồi
thường nhà nước đối với doanh nghiệp, Hà Nội.
12. Nhà pháp luật Việt Pháp (2007), Tham luận Hội thảo quốc tế pháp luật về bồi thường nhà
nước, Hà Nội, 10-11/09/2007
13. Lê Thái Phương, "Kinh nghiệm pháp luật Nhật Bản về trách nhiệm bồi thường của nhà
nước", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp Luật Bồi thường nhà nước).
14. Quốc hội (1998), Luật khiếu nại, tố cáo, Hà Nội
15. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
16. Đinh Dũng Sỹ, "Một số vấn đề lý luận trong xây dựng dự án Luật Bồi thường nhà nước
và xác định phạm vi điều chỉnh", www.nclp.org.vn.
17. Trịnh Đức Thảo (2008), "Hai lý thuyết và hai loại trách nhiệm bồi thường nhà nước",
Nghiên cứu lập pháp, (113).
18. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học.
19. Nguyễn Cửu Việt, "Phạm vi loại việc phải bồi thường thiệt hại trong hoạt động hành
chính nhà nước và khái niệm oan, sai", www.nclp.org.vn.
20. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
TRANG WEB
21.

×