Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.92 KB, 21 trang )

Vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền
Việt Nam

Nguyễn Huyền Ly

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TSKH Nguyễn Đăng Dung
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Xác định nội hàm của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, những đặc
điểm của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, vị trí trung tâm của
toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp. Nghiên cứu một số vai trò quan trọng và nổi
bất của toà án trong nhà nước pháp quyền. Phân tích một số quy định pháp lý về vị trí,
vai trò của toà án; một số quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật tố
tụng toà án và pháp luật liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động xét xử của toà án và
thực tiễn hoạt động xét xử của toà án trong thời gian từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở
những luận điểm đã nêu ra và những đánh giá vai trò của toàn án ở nước ta hiện nay, qua
đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà
nước pháp quyền Việt Nam.

Keywords: Lịch sử nhà nước; Nhà nước pháp quyền; Pháp luật Việt Nam; Tòa án


Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân
công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản
thực hiện công cuộc đổi mới hệ thống chính trị nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong ba nhánh


quyền lực nói trên, thì nhánh quyền tư pháp là nhánh quyền được tổ chức để thực hiện họat động xét
xử và những họat động phục vụ trực tiếp cho họat động xét xử như điều tra, công tố, bổ trợ tư pháp.
Tòa án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, họat động xét xử của Tòa án cũng
chính là họat động thể hiện chất lượng họat động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp và toàn thể
bộ máy nhà nước. Với ý nghĩa đó, việc cải cách Tòa án ở nước ta phải được xây dựng trên cơ sở
những quan điểm đúng đắn và đầy đủ về vị trí, vai trò của Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước,
trong bộ máy nhà nước đặc biệt là trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về vị trí,
vai trò của Tòa án trong việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công
dân, Qua thực tiễn họat động của Tòa án cho thấy rằng, họat động xét xử của Tòa án trong thời gian
qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng họat động xét xử được nâng cao, tình trạng xét xử
sai, gây oan cho người vô tội đã giảm đi đáng kể; Tòa án đã xét xử nghiêm minh các vụ án lớn,
nghiêm trọng. Vị trí, vai trò của Tòa án trong nhận thức, tâm thức của người dân đã và đang dần
được cải thiện.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về vị
trí, vai trò của Tòa án trong việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
công dân, quyền con người và bảo đảm quyền tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì Tòa án ở nước
ta cần phải tiếp tục được cải cách một cách mạnh mẽ, toàn diện từ nhận thức, vấn đề pháp lý, đến
nguồn lực vật chất để phục vụ cho họat động xét xử.
Từ những vấn đề trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp
quyền Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn là thông qua việc làm rõ một số vấn
đề lý luận và đánh giá vị trí, vai trò của Toà án ở nước ta trong thời gian qua. Qua đó, luận văn đề
xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai trò của Toà án trong nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi những định hướng cải cách tư pháp mà trung tâm là cải cách Toà án được đề cập
trong các văn kiện chính thức của Đảng, Toà án đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
công trình khoa học ở nước ta, như đề tài cấp nhà nước do TS. Trịnh Hồng Dương làm chủ
nhiệm hoàn thành năm 1996 “ Vị trí, vai trò và chức năng của Toà án nhân dân trong Bộ máy

nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam” MS: 95-98-048/ĐT, đề tài cấp nhà nước do
TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm hoàn thành năm 2006, “Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện
hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân”; luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thanh Bình “Thẩm quyền giải
quyết của Toà án nhân dân trong giải quyết khiếu kiện hành chính”; luận án tiến sĩ của TS Tô
Văn Hoà “Tính độc lập của Toà án- nghiên cứu pháp lý về khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức,
Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam”. Toà án còn là đối tượng trung tâm của
nhiều công trình khoa học đề cập đến lĩnh vực đổi mới cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư
pháp, như Luận án tiến sĩ của TS. Trần Huy Liệu “Đổi mới và tổ chức hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”. Ngoài ra có rất nhiều bài
viết, nhiều ấn phẩm khoa học pháp lý, sách, tạp chí, báo… đã được xuất bản có nội dung đề cập
đến toà án từ nhiều góc độ khác nhau.
So với trước đây, những vấn đề lý luận về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, vị trí,
vai trò của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp, trong bộ máy nhà nước, mô hình tổ chức
hệ thống toà án đã được kiến giải tương đối toàn diện và đầy đủ.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về
vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN vẫn chưa thật đầy đủ, còn nhiều vấn đề
phải bàn luận tiếp. Do đó, trong thời gian tới cần được tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn
nhằm góp phần tạo nên hệ thống lý luận đầy đủ và toàn diện về tư pháp, bảo đảm cho quyền tư
pháp làm cơ sở phục vụ chiến lược cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TW,
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn có mục đích là làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vị trí, vai trò của
Toà án ở nước ta kể từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra phương hướng và một
số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản sau
đây:

- Xác định nội hàm của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, những đặc điểm của
quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, vị trí trung tâm của toà án trong việc
thực hiện quyền tư pháp.
- Từ những tiền đề lý luận trên, Luận văn khẳng định một số vai trò quan trọng và nổi bất
của toà án trong nhà nước pháp quyền.
- Luận văn đồng thời phân tích một số quy định pháp lý về vị trí, vai trò của toà án; một số
quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng toà án và pháp luật liên quan
trực tiếp đến tổ chức và hoạt động xét xử của toà án và thực tiễn hoạt động xét xử của toà án
trong thời gian từ năm 2002 đến nay.
- Trên cơ sở những luận điểm đã nêu ra và những đánh giá vai trò của toàn án ở nước ta
hiện nay, qua đó luân văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
toà án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Luận văn chỉ đánh giá thực tiễn chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà án từ năm 2002 trở
lại đây.
Để có tính thuyết phục cho những quan điểm nêu ra, luận văn có sự so sánh với một số
quan điểm có tính phổ biến ở các nước tư sản phát triển về vị trí, vai trò của quyền tư pháp, hoạt
động xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền.
5. Những điểm mới của luận văn.
Luận văn là một đề tài nghiên cứu trực tiếp và có tính chất chuyên biệt về vai trò cơ bản
của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đề tài sẽ đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về thực tiễn chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Toà án nước ta từ năm 2002 trở lại đây.
Luận văn sẽ đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của toà án trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân
6.Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của luận văn là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài ra để làm rõ
những nội dung của quy định pháp luật, những luận điểm chưa phổ biến ở nước ta, luận văn đã

sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp mô tả kết hợp với phương pháp so sánh.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có
2 chương:
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN VIỆT NAM
I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà nƣớc
ở Việt Nam.
1. Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở
nƣớc ta.
“Tư pháp” là thuật ngữ Hán Việt có hai nghĩa chính: Thứ nhất là trông coi bảo vệ pháp luật; thứ
hai, tư pháp là pháp đình theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật. Trong khoa học
pháp lý phương Tây, tư pháp là xét xử hay là ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Trên phương diện tổ
chức thực hiện quyền lực Nhà nước, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền
hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử (tài phán) do Toà án thực hiện là quan niệm phổ biến ở nhiều
nước tư sản phát triển.
Ở Việt Nam, trên cơ sở nguyên tắc hiến định: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp” [1, tr.3] qua đó cho thấy quyền tư pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền
lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể của quyền lực Nhà nước thống nhất.
Trong khi hoạt động chủ yếu của hành pháp và lập pháp là Nhà nước ban hành và tổ
chức thực hiện pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân tổ chức trong giới hạn tự do mà pháp
luật xác lập. Tuy vậy, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng xâm hại trật tư
pháp luật và pháp luật luôn xuất hiện trong đời sống xã hội. Trong tác phẩm Nhà nước và cách
mạng, Lênin khẳng định: “sẽ là không tưởng khi cho rằng pháp luật đương nhiên được tất cả
mọi người tuân thủ”. Bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự pháp luật bị xâm hại là một đòi hỏi
khách quan của Nhà nước, của xã hội và mọi người dân. Chính nhu cầu này đã hình thành nên
hoạt động bảo vệ pháp luật là nội dung cơ bản của quyền tư pháp.
Hoạt động xét xử của Toà án là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp. Nội dung

của hoạt động xét xử của Toà án là so sánh các hành vi, tranh chấp pháp lý liên quan đến con người
với các chuẩn mực pháp luật, phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi, tranh chấp. Trên cơ
sở đó, Toà án nhân danh Nhà nước ra phán quyết bắt buộc mọi người phải thi hành, khôi phục lại các
giá trị pháp luật bị vi phạm, bảo vệ và duy trì các giá trị văn minh của pháp luật.
Thực tế đã chứng minh rằng, trong thực thể quyền lực Nhà nước thống nhất, quyền tư
pháp có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ quyền tư pháp vừa là bộ phận cùng với lập pháp và
hành pháp hợp thành quyền lực Nhà nước vừa là thể chế bảo vệ quyền lực Nhà nước. Vị trí và
vai trò đặc biệt của quyền tư pháp được được J.J. Russeau diễn đạt như sau: “luật đã mất thiêng
thì mọi cái đều hết hy vọng. Luật không còn hiệu lực thì không một cái gì hợp lý có thể duy trì
sức mạnh được nữa”
Như vậy, có thể thấy rằng quyền tư pháp có nội dung là bảo vệ pháp luật. Hoạt động này
được thực hiện tập trung nhất tại toà theo phương thức tài phán.
Với nội hàm trên, quyền tư pháp có những đặc điểm cơ bản sau:
- Quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật của toà án theo phương thức tài phán.
- Quyền tư pháp là một bộ phận của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội và chỉ được thực
hiện khi có vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý cần đến phán quyết của Nhà nước
- Quyền tư pháp được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc lập với các chức năng riêng,
diễn ra liên tục theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục nghiêm ngặt dựa
trên phương thức đặc thù là tài phán, phục vụ hoạt động trung tâm là xét xử của toà án. [34,
tr.26]
Để những đặc trưng của quyền tư pháp được bảo đảm trong quá trình thực hiện quyền tư
pháp, Nhà nước đã trao nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp cho nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội khác nhau cùng thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ, dân chủ và công khai, trong
đó Toà án thực hiện hoạt động xét xử, cơ quan công tố (Viện kiểm sát nhân dân) thực hiện quyền
truy tố, cơ quan điều tra thực hiện hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh một hành vi
vi phạm pháp luật hình sự, cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ thi hành các bản án quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của toà án; các cơ quan giám định tư pháp, công chứng, luật sư
thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp nhằm mục đích phục vụ hoạt động xét xử khách quan,
chính xác, đúng pháp luật, công bằng.
Do đó, hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế thực hiện chức năng chủ

yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài phán
công bằng, công khai, cụ thể gồm cơ quan tài phán (Toà án) và các cơ quan khác có chức năng chủ
yếu là phục vụ trực tiếp cho hoạt động tài phán.
Như vậy, quyền tư pháp mà trọng tâm là quyền xét xử thực hiện chức năng bảo vệ pháp
luật của Nhà nước. Bằng hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh
chấp mâu thuẫn trong đời sống xã hội, hệ thống các cơ quan tư pháp mà trung tâm là toà án ngày
càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong Nhà nước pháp quyền. Vị trí, vai trò của Tòa án được
thể hiện ở chỗ: Toà án không chỉ là công cụ bảo vệ pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ, bảo đảm
cho quyền con người được tôn trọng và thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
A.Vị trí của Toà án trong bộ máy Nhà nƣớc Việt Nam.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì Toà án có vị trí đặc biệt so với các cơ quan Nhà
nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng, thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, toà án xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước để đưa ra
các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với từng vụ việc cụ thể.
Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức năng kiểm tra hành vi pháp lý của
các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền con người. Xa hơn là Toà án bảo vệ cho trật tự xã
hội ổn định, an toàn và có môi trường phát triển lành mạnh, bền vững.
Ở nước ta, việc xác định Toà án có vị trí trung tâm trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư
pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử là một trong những quan điểm cơ bản
định hướng hoạt động cải cách tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW,
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020. Tuy
nhiên, việc luật hoá quan niệm này vào pháp luật vẫn chưa được thực hiện triệt để. Trong pháp
luật Việt Nam, vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước có những đặc điểm sau:
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002) và các văn
bản pháp luật hịên hành có liên quan đến tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước thì địa vị
pháp lý của toà án Việt Nam chịu sự tác động của nhóm quan hệ cơ bản sau:
- Thứ nhất, quan hệ giữa Toà án với các cành quyền lực khác.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định “quyền lực Nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân”
và nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” [1, tr.3] thì Toà án ở nước ta

có sự phụ thuộc khá nhiều vào Quốc hội. Tiến sĩ Tô Ngọc Hoà khẳng định: bản chất của mối
quan hệ này là cấp trên và cấp dưới - trong đó Quốc hội là cấp trên và Tòa án là cấp dưới [27, tr.
419]. Điều này thể hiện rõ ở những điểm sau:
Quốc hội có quyền ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức hoạt
động của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp
luật của toà án trái với Hiến Pháp, luật pháp hay Nghị quyết của mình.
Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức chánh án TANDTC. Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín
nhiệm đối với vị trí này. Chánh án TANDTC phải báo cáo hàng năm trước Quốc hội; phải trả lời
chất vấn của đại biểu Quốc hội nếu có yêu cầu của đại biểu Quốc hội.
Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động hằng năm của Toà án.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước
Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt Nam. Trong mối
quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm tra chất lượng hoạt động của Toà án
thông qua báo cáo của chánh án TANDTC. Ngoài ra chủ tịch nước còn tham gia vào quá trình ra
phán quyết của toà án thông qua cơ chế xét ân xá trong các vụ việc hình sự có tuyên án tử hình.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với Chính phủ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa toà án và Chính phủ được xem là
mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời cũng là mối quan hệ mang tính rường cột trong
hệ thống quyền lực nhà nước. Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, do thực trạng
toà án phải áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ trong quá trình xét xử
dẫn đến toà án có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và
cấp huyện), toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương. Chánh án toà án nhân dân các cấp địa phương phải chịu trách nhiệm, báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Thứ hai, quan hệ giữa toà án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan tƣ pháp.
Như đã khẳng định ở trên, trong hệ thống các cơ quan tư pháp, toà án có vị trí trung tâm.
Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính đúng đắn các hành vi pháp lý của cơ quan
điều tra, phán xử hành vi truy tố của Viện kiểm sát có đúng quy định pháp luật hay không và đưa

ra phán quyết để cơ quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối quan hệ bên
trong này, xét xử là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất bản chất của quyền
tư pháp.
Mặc khác, pháp luật trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động
tuân thủ pháp luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên toà. Chính quy định này đã có ảnh
hưởng đến tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Như vậy, trong pháp luật nước ta, toà án có vị trí độc lập tương đối trong bộ máy Nhà
nước. Qua phân tích cho thấy rằng: sự phụ thuộc của toà án vào hệ thống cơ quan quyền lực
Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) là tương đối lớn.Tính chất trung tâm của toà án
trong hệ thống các cơ quan tư pháp chưa được bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát
nhân dân thông qua quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính những đặc điểm này về
vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước đã ảnh hưởng đến hoạt động của toà án, đặc biệt là yêu
cầu có tính nguyên tắc hiến định của hoạt động tài phán- toà án phải độc lập chỉ tuân theo pháp
luật trong quá trình xét xử.
2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam.
a. Nhân danh Nhà nƣớc xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp
trong đời sống xã hội
Kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ bản của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện hoạt động này bằng chuẩn mực pháp luật thông qua các cơ quan thực hiện
quyền lực Nhà nước. Việc phân công trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã trao cho cơ
quan lập pháp thực hiện giám sát tối cao đối với việc thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp tổ
chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội một cách thường
xuyên. Khi có những hành vi, tranh chấp có nguy cơ đe doạ làm sai lệch tính hợp lý, công bằng
của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại đến trật tự,
an toàn xã hội thì được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động kiểm tra,
kiểm soát xã hội của toà án có những đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh chấp màcá nhân, tổ
chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.
- Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân chủ và bình đẳng giữa
các bên tại toà án.

- Có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán quyết xử lý.
b. Bảo vệ pháp luật
Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là thiết chế trung tâm
của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ pháp luật. Trong nhà nước pháp
quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội.
Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền luôn mang trong mình những nguyện vọng, quyền và lợi ích của mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống những chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người
phù hợp với trình độ văn minh của xã hội, để nhân dân tự điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống
sinh họat, trong giao lưu dân sự cũng như trong mối quan hệ với cơ quan công quyền, đồng thời thể
hiện lợi ích và ý chí chung của toàn thể nhân dân lao động, của toàn thể xã hội và cùng với các quy
phạm xã hội khác là một trong những phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội và điều hoà, phối hợp các
lợi ích xã hội khác nhau.
Ngoài ra, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN, có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với sự
phát triển, mở rộng, củng cố và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tính tích cực về chính trị, tính
sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân. Ngược lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt
đời sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú thêm các quyền tự do
của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó. Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa
không thể tồn tại tách rời nhau. Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa
của chế độ xã hội chủ nghĩa- tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những hành vi xâm hại các
chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình
đẳng xã hội, dân chủ XHCN. Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn đơn
thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành họat động quan trọng nhất, cao nhất
và có tính cuối cùng để nhà nước và nhân dân bảo vệ các giá trị cao đẹp của nhà nước pháp quyền, bảo
vệ công bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ
XHCN.
Vai trò bảo vệ pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
-Toà án áp dụng pháp luật:
Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật
khỏi sự vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử, toà án đưa các hành vi tranh chấp pháp lý liên

quan đến những con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối
tương quan giữa cái cá biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn chung là quy phạm
pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh
chấp, từ đó đi đến một phán quyết có tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi
ích liên quan.
- Toà án tuân thủ pháp luật:
Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam nói riêng là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến Pháp, pháp luật. Toà án là một bộ phận
cấu thành nên bộ máy Nhà nước nên quyền hạn, nhiệm vụ và chức năng của toà án được xác định
trong Hiến Pháp và các văn bản pháp luật. Vì thế, toà án tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật đặc biệt là tuân
thủ các nguyên tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được vận dụng
trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối thượng của Hiến Pháp và pháp luật trong hoạt động
của Nhà nước và đời sống xã hội công dân; các quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp
luật; trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người trong quá trình xét xử;
quyền lực Nhà nước thống nhất và có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp; tôn trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước
đã ký kết hoặc tham gia…. là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật của Toà án.
c. Giám sát, kiểm tra hoạt động của Bộ máy Nhà nƣớc
Trong Nhà nước dân chủ, quyền lực Nhà nước là quyền lực của dân, chính quyền không
chỉ phải lấy dân làm gốc, mà những công bộc được dân giao phó phải biết dựa vào dân, phục vụ
nhân dân vô điều kiện. Đảm bảo quan trọng nhất để chính quyền làm tốt trách nhiệm là việc các
cử tri kiểm soát trực tiếp chính quyền của mình thông qua việc quyết định lá phiếu trong các
cuộc bầu cử các cơ quan quyền lực dân cử. Hình thức thứ hai để người dân có thể giám sát hoạt
động của bộ máy Nhà nước là thông qua chính hoạt động các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ
trực tiếp kiểm tra, giám sát mức độ tuân thủ pháp luật của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà
nước trong quá trình thực hiện công vụ.
d. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời.
Các quyền và tự do của con người không chỉ là các giá trị tinh thần cao quý nhất được
thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có cội nguồn xã hội và tư tưởng từ rất lâu đời trong

quá trình phát triển của lịch sử hàng nghìn năm qua mà chúng còn là khát vọng, ước mơ và lý
tưởng của các dân tộc trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại các chế độ bất công,
tàn bạo, chuyên chế và cực quyền. Vì vậy bảo vệ và phát triển các quyền và tự do của con người
trong hoạt động xét xử cũng như việc đưa ra mục tiêu hoạt động xét xử phải hướng đến bảo vệ
các quyền và tự do của con người là một tất yếu của nền tư pháp, của toà án trong Nhà nước
pháp quyền.
e. Góp phần thực hiện các cam kết quốc tế, xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài.
- Góp phần thực hiện các cam kết quốc tế
Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật nên toà án là một trong những
cơ quan Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các cam kết quốc tế mà quốc gia là
thành viên. Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là hoạt động áp dụng pháp luật có tính đặc
thù, đó là chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có yêu cầu của một trong các bên
tranh chấp; kết quả của hoạt động xét xử là những phán quyết có nội dung bắt buộc thi hành
những biện pháp cưỡng chế vì thế tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức. Do
đó, yêu cầu tuân thủ và vận dụng các cam kết quốc tế của quốc gia không chỉ đến từ Nhà nước
mà còn đến từ cá nhân tổ chức, đặc biệt cá nhân, tổ chức là người nước ngoài. Do vậy, thẩm quyền
xét xử của Tòa án ngày càng được mở rộng và trở thành chủ thể có vai trò trung tâm trong việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của bộ máy Nhà nước. Đồng thời Tòa
án ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của một quốc gia.
Tòa án vừa là cơ quan trực tiếp áp dụng các cam kết quốc tế mà quốc gia là thành viên vừa là cơ
quan có trách nhiệm giám sát và trực tiếp phân xử một hành vi pháp lý có vi phạm các cam kết
mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia hay không (điều này được thực hiện khi công dân có yêu
cầu Tòa án phân xử hành vi công quyền của cơ quan Nhà nước khi công dân cho rằng Nhà nước
đã vi phạm các cam kết quốc tế).
- Giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn có yếu tố nước ngoài.
Theo quy của Điều 127, Hiến pháp năm 1992, Điều 405 về "nguyên tắc áp dụng các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2005", Điều 410 "Quy định chung về thẩm quyền xét xử toà án Việt Nam giải
quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài" Điều 411 "Về thẩm quyền riêng biệt của toà án Việt
Nam" thì các tranh chấp, mâu thuẫn có yếu tố nước ngoài diễn ra ở nước ta hoặc đối tượng tranh chấp ở

trên lãnh thổ Việt Nam hoặc bị đơn đang cư trú, làm việc ở Việt Nam hoặc có trụ sở ở Việt Nam hoặc
các bên tranh chấp là người Việt Nam đều do toà án thực hiện khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức
trong nước hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài. Toà án nước ta không giải quyết tranh chấp dân sự có
yếu tố nước ngoài trong trường hợp được quy định tại Điều 413 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.
- Xét xử hành vi phạm tội có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật Hình sự năm 1999, thì ngoài những người được
hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt
Nam mà thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều
bị áp dụng Bộ luật hình sự để truy tố và xét xử; và "Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt
Nam theo Bộ luật này”.
3. Yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đối với Toà án.
Toà án giữ vai trò trung tâm thực hiện quyền tư pháp trong tổng thể quyền lực Nhà nước
thống nhất nên tổ chức và hoạt động xét xử của toà án trong Nhà nước pháp quyền phải mang đầy đủ
bản chất và những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN, đó là:
- Bảo đảm tính độc lập của toà án.
- Toà án phải thể hiện bản chất của Nhà nước Việt nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân; bảo đảm thực sự chủ quyền thuộc về nhân dân.
- Hoạt động của toà án phải đảm bảo nguyên tắc: "Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp".
- Nhà nước pháp quyền đòi hỏi Toà án phải là cơ quan giữ vị trí trung tâm thức hiện vai trò
đảm bảo pháp luật có địa vị thống trị thực sự trong đời sống xã hội, Nhà nước quản lý mọi
mặt đời sống xã hội chủ yếu bằng pháp luật
- Toà án trong Nhà nước pháp quyền phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con
người, các quyền công dân được ghi nhận trong Hiến Pháp.
- Hoạt động xét xử phải công khai, nghiêm minh, công bằng, nhân đạo, trách nhiêm trước
dân, trước nhà nước.
4. Những yếu tố đảm bảo vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt
Nam.

Yếu tố chính trị pháp lý.
- Quan điểm của Đảng
- Nhận thức của nhân dân
Yếu tố pháp luật.
- Thứ nhất, pháp luật về nội dung phải đồng bộ, thống nhất, minh bạch, phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội để khi xét xử.
- Thứ hai, pháp luật về tổ chức và tố tụng Tòa án có tác dụng rất lớn đến chất lượng xét xử
vì thế các chế định pháp lý trong lĩnh vực này phải cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của
hoạt động xét xử, các nguyên tắc về tổ chức hoạt động của Tòa án, các nguyên tắc cơ bản
của tổ chức bộ máy Nhà nước.
Yếu tố con ngƣời.
Yếu tố vật chất.
Yếu tố khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
I. Đánh giá vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam.
1. Xét xử hành vi phạm tội
Theo Điều 127 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 “Tòa án nhân
dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật
định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, và Điều 26 Bộ
luật hình sự năm 1999 nêu rõ "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định
trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định". Như vậy, Tòa án Việt Nam là cơ quan có quyền
nhân danh Nhà nước xét xử một hành vi vi phạm pháp luật hình sự là tội phạm và có quyền nhân
danh Nhà nước áp dụng các hình phạt nhằm trừng trị, giáo dục người phạm tội.
2. Giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động
- Điều 132, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định Tòa án nhân dân là cơ
quan duy nhất có quyền xét xử [1, tr.47]. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Bộ luật tố tụng

dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định thẩm quyền xét xử cụ thể của từng loại Tòa án
trong hệ thống các cơ quan Tòa án, cụ thể: Thẩm quyền về việc dân sự, kinh tế và lao động được
quy định từ Điều 25 đến Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự. Sơ bộ có thể phân biệt ba loại thẩm
quyền đó như sau:
- Thẩm quyền về dân sự.
- Thẩm quyền của tòa kinh tế.
- Thẩm quyền của tòa lao động.
3.Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc.
Căn cứ vào đối tượng kiểm tra, giám sát thì hoạt động giám sát, kiểm tra hoạt động thực
hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta có hai loại:
- Kiểm tra, giám sát lập pháp và hành pháp.
- Hoạt động kiểm tra, giám sát quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ,
công chức và cơ quan Nhà nước.
4. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời.
Như đã phân tích ở chương 1, Tòa án thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua
ba nội dung cơ bản, gồm: kiểm soát quyền lực của lập pháp và hành pháp nhằm đảm bảo hai
cành quyền lực này tôn trọng và không xâm hại quyền con người và các quyền công dân đã được
hiến định; Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế pháp lý nhằm trừng trị,
ngăn ngừa hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân và khôi phục lại những quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước bị xâm hại; Tòa án tuân thủ pháp luật đặc biệt
là tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong quá trình xét xử.Bảo vệ quyền công dân thông qua hoạt
động Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế pháp lý nhằm trừng phạt
người thực hiện hành vi xâm hại quyền con người, quyền công dân và khôi phục, duy trì bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước.
II. Những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam
1. Phƣơng hƣớng cải cách toà án nhằm nâng cao vai trò của toà án trong Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự, dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

- Hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng toà án bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân.
- Tổ chức hệ thống toà án hợp lý, khoa học bảo đảm toà án có vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm của
hoạt động thực hiện quyền tư pháp.
- Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, công chức
ngành toà án đặc biệt là thẩm phán.
- Tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử, công luận và nhân dân đối với hoạt động xét xử
của toà án.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam.
Thứ nhất: Xây dựng một hệ thống các quan điểm lý luận hoàn chỉnh và đầy đủ về tư pháp,
quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp và hệ thống các nguyên tắc, thiết chế thực hiện
quyền tư pháp mà trung tâm là quyền xét xử của Tòa án.
Thứ 2: Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, người dân và tòan xã hội về vị trí và vai
trò đặc biệt quan trọng của Tòa án trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng,
bình đẳng xã hội, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người dân, quyền con người và củng cố
phát triển tự do dân chủ trong xã hội.
Thứ 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng Tòa án.
Thứ 4: Cải cách mô hình tổ chức hệ thống Tòa án theo hai cấp xét xử
Thứ 5: Xây dựng đội ngủ thẩm phán chất lượng cao, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xét xử
trong tình hình mới.
Thứ 6: Bỏ quyền giám sát họat động xét xử của Viện Kiểm sát trong phiên tòa.
Thứ 7: Phải công khai hóa hồ sơ các bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

KẾT LUẬN
Cải cách Toà án trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân là quá trình đổi mới nhằm mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của Toà
án ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của hoạt động
xét xử, phù hợp với nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đáp ứng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và nhà nước ta trong bối
cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục đích của luận văn này là xác định một số quan điểm lý luận về vị trí, vai trò của Toà án
trong nhà nước pháp quyền XHCN và những biểu hiện trong thực tiễn các vai trò của Toà án. Luận văn
còn hướng đến phân tích một số yếu tố tác động trực tiếp đến vị trí, vai trò của Toà án nhằm xác định
những nguyên nhân hạn chế. Qua đó đưa ra những phương hướng nâng cao vai trò của Toà án phù hợp
với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Kết quả của luận văn là đưa ra một số giải pháp hướng đến mục đích đảm bảo tính độc
lập, dân chủ và công khai trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt
động xét xử - yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng, hiệu quả thực hiện các vai trò của Toà án.
Để hoạt động xét xử của Toà án có chất lượng, hiệu quả cao, đảm bảo công lý, công bằng, công
khai, dân chủ, bình đẳng xã hội và bảo vệ quyền công dân, quyền con người, cần có những yếu
tố bảo đảm chung, đó là:
1. Xây dựng hệ thống lý luận hoàn chỉnh, đầy đủ về vị trí, vai trò của các thiết chế thực hiện quyền
lực tư pháp đặc biệt là vị trí, vai trò của Toà án theo nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phù hợp với đặc điểm của nước ta trong
thời kỳ đổi mới, trong điều kiện một Đảng lãnh đạo và "đậm tính nhân dân trong toàn bộ tổ chức và hoạt
động của hệ thống tư pháp". [34, tr318].
2. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và pháp luật tố
tụng Tòa án, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động xét xử của toà
án và đảm bảo cho Toà án độc lập.
- Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
và giải quyết tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Pháp luật
vừa là cơ sở, là công cụ, là phương tiện vừa là mục tiêu bảo vệ của hoạt động xét xử. [34, tr.318]
Đảm bảo toà án thực hiện các vai trò trong nhà nước pháp quyền XHCN thì yếu tố đầu tiên là
phải xây dựng và hoạt thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và tố tụng toà án đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân dễ dàng tiếp cận với hoạt động xét xử khi có nhu cầu.
- Chính sách và pháp luật hình sự, dân sự phải rõ ràng, đầy đủ để Toà án áp dụng khi
xem xét, đánh giá, phán xet các hành vi vi phạm pháp luật, và giải quyết các tranh chấp pháp

lý; pháp luật tố tụng Toà án quy định các nguyên tắc, tổ chức quản lý toà án, mối quan hệ của
toà án với các cơ quan tư pháp, mối quan hệ của Toà án với hành pháp và lập pháp, mối quan
hệ giữa quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng giữa thẩm phán với lãnh đạo toà án, thẩm quyền
của toà, thao tác nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo thẩm phán độc lập tuân
thủ pháp luật và chỉ hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
3. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển đội ngủ thẩm phán có trình độ pháp luật cao,
đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét xử trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và đòi
hỏi của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.


References
1. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb Tp. Hồ Chí Minh
2. Bộ chính trị, Báo cáo tóm tắt kết quả 04 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW,
ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của côngtác tư pháptrong
thời gian tới.
3. Bộ chính trị, Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
4. Bộ chính trị, Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
5. cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Đặng Xuân Đào (2005), Việc giải quyết các vụ án hành chính liên quan
7. quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 06.
8. GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005) Thể chế Tư pháp trong nhà nước pháp
9. quyền. Nxb Tư pháp, Hà Nội.
10. GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà
11. nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội
12. GS. TS Nguyễn Đăng Dung (2007), Trọng tâm của công tác cải cách tư
13. pháp hiện nay là bảo đảm cho nguyên tắc độc lập có hiệu lực trên thực tế, Tạp chí Dân
14. chủ và pháp luật, số 178.
15. TS. Trần Thái Dương (2004), Hỏi đáp những tri thức cơ bản môn lý luận
16. nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội

17. Trịnh Hồng Dương (1996) chủ nhiệm đề tài “ Vị trí, vai trò và chức năng
18. của Toà án nhân dân trong bộ máy nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam”
19. MS: 95-98-048/ĐT. Quyễn 1, Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội.
20. Phạm Hoàng Giang (2007), Vai trò của án lệ với sự phát triển của pháp
21. luật hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02.
22. Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh,
23. TS. Nguyễn Đức Hiệp (2004), Những yêu cầu của cải cách tư pháp và xây
24. dựng nhà nước pháp quyền XHCN đối với họat động xét xử của Tòa án,
25. Tạp chí Pháp lý, số 09.
26. Vũ Thị Thu Hiền, Giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân,
27. Luận án TS Luật học, Đại học Luật Hà Nội
28. TS. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với
29. việc tổ chức Bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội
30. TS. Tô Văn Hoà (2007), Tính độc lập của toà án- Nghiên cứu pháp lý về
31. khia cạnh lý luận, thực tiến ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt
32. nam, Nxb Lao động, Hà Nội
33. TS. Vũ Đức Khiển (2006) chủ nhiệm đề tài, Xây dựng và hoàn thiện hệ
34. thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN vủa dân, do dân,
35. vì dân, MS:KX.04.05, Bộ Tư pháp, Hà Nội
36. Mác- Anghen toà tập, Tập 3, tập 23.
37. Lê Nin toà tập, Tập 18; tập 27.
38. GS.TS. Hoàng Thế Liên (2006), Xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật
39. phục vụ cải cách tư pháp một nhiệm vụ trong tâm của ngành tư pháp, Tạp chí Dân chủ
40. và pháp luật, số 07.
41. TS. Trần Huy Liệu (2005), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
42. Tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án TS, Đại học Luật Hà
Nội
43. TS. Lê Vương Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật,
44. Nxb Tư pháp, Hà Nội
45. TS. Uông Chu Lưu (2006) chủ nhiệm đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp,

46. hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà
47. nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” MS: KX.04.06, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
48. TS. Nguyễn Đình Lộc (2001), Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của
49. các cơ quan tư pháp ở nước ta, Nxb Tư pháp, Hà Nội
50. TS. Phan Công Luận (2006), Uy tín của người thẩm phán, Tạp chí Luật
51. học, số 01.
52. TS. Nguyễn Văn Luyến (2005), Vai trò của Tòa án trong việc phòng ngừa
53. tội phạm, Tạp chí Luật học, số 06.
54. 27.TS. Đoàn Đức Lương (2007), Nâng cao năng lực xét xử các vụ án dân sự của
55. Tòa án trong quá trình cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02.
56. 28.Trần Đức Lương, Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng
57. nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội
58. 29. Hồ Chí Minh (2005), Bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc
59. gia, Hà Nội
60. 30. Mongtesquier, Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội
61. 31. Đổ Mười, (1991), Sửa đổi Hiến pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền
62. Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
63. 32. Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi, Nxb
64. Chính trị quốc gia, Hà Nội
65. 33. Phan Đăng Nhật (2007), Tòa án phong tục- Một kiểu vận dụng luật tục có hiệu quả, Tạp
chí Nhà nứơc và pháp luật, số 03.
66. 34. TS. Đổ Nguyên Phương, Xây dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền, Nxb Tư
pháp, Hà Nội
67. 35. TS. Lê Kim Quế (1981), Tìm hiểu Bộ máy nhà nước- Toà án nhân dân, Nxb. Pháp lý, Hà
Nội
68. 36.Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã sửa đổi, bổ sung năm
2001.
69. 37. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Hình sự năm 1999
70. 38. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Dân sự năm 2005
71. 39. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

72. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự 2005
73. ThS. Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phấn nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội.
74. ThS. Bùi Ngọc Sơn (2007), Cách nhìn truyền thống của người Việt và những hệ lụy của nó,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 01.
75. GS.TS. Lê Minh Tâm (2005), Bảo hiển, cơ chế bảo hiến và cơ chế bảo hiến Việt Nam, Tạp
chí Luật học số 4, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội
76. GS.TS. Lê Minh Tâm (2006), Đổi mới tư duy pháp lý và những hiệu ứng cơ bản của đổi
mới tư duy pháp lý trong quá trình hoàn thiện nhà nước và pháp luật Việt Nam, Tạp chí
Luật Học số 12, Đại Học Luật Hà Nội, Hà Nội
77. GS.TS. Lê Minh Tâm (2006), Mấy vấn đề lý luận về pháp điển hoá,Tạp chí Luật Học số 07,
Đại Học Luật Hà Nội, Hà Nội
78. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo công tác ngành toà án năm 2005.
79. 47 Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo công tác ngành toà án năm 2006.
80. Josef Thesing, Nhà nước pháp quyền pháp quyền. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.
81. PGS.TS. Đoàn Trọng Tuyển (2004), Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam. Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
82. GS.TS. Đào Trí Úc chủ biên (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư
83. pháp ở Việt Nam hiện nay, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. PGS.TS. Đào Trí Úc (2004), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
85. Nam. NXb Tư pháp, Hà Nội.
86. TS. Chu Thị Trang Vân (2006), Tiếp cận quyền tư pháp và việc áp dụng
87. pháp luật hình sự của Tòa án từ góc độ lịch sử, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06.
88. Phạm Hoàng Yến (2005), Đối tượng xét xủa hành chính của Tòa án nhân
89. dân, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 04.
90. 54.Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính đã sửa đổi,
bổ sung năm 2006.
91. 55. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2007), Số chuyên đề về cải cách tư pháp, Hà Nội.
92. 56. Hamiton, Jay, Madison, The Federalist.
93. 57. http:// vbqppl1.moj.gov.vn/law/vi/index_html

94. 58.
95. 59.
96.
&hidChapter=270.
97. 61.
98. 62.

×