LUẬN VĂN:
Nghiên cứu, phân tích, nắm bắt những quy luật
khách quan và thực tiễn để đề ra chính sách
công nghiệp hoá
Lời mở đầu
Việt nam là một nước nông nghiệp lạc hậu bị tàn phá nhiều bởi chiến tranh, thực
hiện công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường mở cửa được
hơn mười năm. Trong thời gian đó nền kinh tế bắt đầu khởi sắc và đạt được một số thành
tựu quan trọng. Xuất phát từ đó chúng ta đang chuyển sang một thời kỳ phát triển kinh tế
mới: thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Với mục tiêu phấn đấu sau vài thập kỷ của thế kỷ XXI nước ta cơ bản sẽ trở thành
“một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
văn minh.
Muốn vậy đảng và Nhà nước đã nghiên cứ, phân tích, nắm bắt những quy luật
khách quan và thực tiễn để đề ra chính sách công nghiệp hoá sao cho có cơ sở khoa học
phù hợp với đièu kiện hoàn cảnh của việt nam góp phần rút ngắn quá trình công nghiệp
hoá khắc phục tình trạng tụt hậu nhằm tiến kịp các nước đi trước tạo cơ sở cho sự phát
triển toàn bộ nền kinh tế.
Phần I
Lý luận chung về công nghiệp hoá và chính sách
công nghiệp hoá
I. Khái quát chung về công nghiệp hoá
1. Quan điểm về công nghiệp hoá
Trong thực tiễn đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù “công
nghiệp hoá”.
Quan niệm giản đơn nhất về công nghiệp hoá cho rằng “công nghiệp hoá là đưa
đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà máy,
các loại công nghiệp. . . ”
Quan niệm này có những mặt chưa hợp lý. Trước hết nó không cho thấy mục tiêu
của quá trình cần thực hiện. thứ hai trong nội dung trình bày quan niệm này gần như đồng
nhất với quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. thứ ba quan
niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Chính vì
vậy quan niệm này được USE rất hạn chế trong thực tiễn.
Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá dù ở trên góc độ nào cũng
không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp. Công nghiệp hoá là quá trình rộng lớn
và phức tạp với nội dung cốt lõi thể hiện :
“Công nghiệp hóa, Hiện đại hoá là sự phát triẻn và chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi
mới căn bản kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ các nghành có hàm lượng khoa
học công nghệ hiện đại nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển kỹ thuật cao, lâu bền”.
2. Vai trò của công nghiệp hoá
Từ khái niệm công nghiệp hoá ở trên ta thấy được vai trò của công nghiệp hoá đối
với sự phát triển kinh tế là rất quan trọng. Nó được thể hiện qua những mặt chủ yếu sau.
- Công nghiệp hoá là chìa khoá để phát triển kinh tế thật vậy công nghiệp hoá có
nghĩa là năng suất lao động trong cong nghiệp cao dần đến sự gia tăng thu nhập bình
quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là
sự phát triển của công nghệ chế biến vì đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu
có hiệu quả và cũng là nghành có khả năngtăng xuất khẩu giải quyết đầu ra cho sản xuất
nông nghiệp làm tăng giá trị nông sản phẩm.
Mặt khác công nghiệp càng đóng góp nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân là điều
kiện để thu nhập theo đầu người được nâng cao.
- Công nghiệp hoá thực hiện quá trình đô thị hoá đất nước thông qua việc phân bố
sản xuất công nghiệp, xây dựng các khu công nghiệp, chế xuất mà ta có thể phân bố lại
dân cư ở các vùng cho phù hợp để thúc đẩy quá trình đô thị hoá đất nước là động lực phát
triển kinh tế và ạo điều kiện công bằng xã hội.
- Công nghiệp hoá tạo ra việc làm.
Vì công nghiệp hoá là sự phát triển cao của công nghiệp mà công nghiệp lại là
ngành duy nhất tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kỹ thuật cho các
ngành tạo ra việc làm.
- Công nghiệp hoá hình thành nên những mối liên kết trong nền kinh tế. Quá trình
công nghiệp hoá đòi hỏi sự liên kết ngược từ các ngành khác với công nghiệp cũng như
giữa các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành công nghiệp sản xuất
tư liệu tiêu dùng.
Trước hết nông nghiệp ảnh hưởng qua lại rất lớn đối với công nghiệp hoá phát
triển nông nghiệp sẽ phát triển tài nguyên của nhân dân từ đó làm tăng nhu cầu tiêu dùng
hàng hoá công nghiệp mặt khác nông nghiệp cũng cung cấp đầu vào cho công nghiệp là
nguyên vật liệu và nhân công do đó khi nông nghiệp phát triển thì sẽ thuận lợi để phát
triển công nghiệp (giá đầu vào rẻ).
Không những thế nông nghiệp phát triển thì thu nhập người dân phát triển suy ra
nguồn tiết kiệm trong dân phát triển suy ra nguồn đầu tư cho công nghiệp cũng tăng.
Như vậy công nghiệp hoá đã tạo mối liên kết trong nền kinh tế và là động lực để
phát triển kinh tế bền vững.
- Công nghiệp hoá đã hiện đại hoá cơ cấu sản xuất thay đổi tập quán kinh tế - xã
hội, tập quán tiêu dùng từ đó thúc đẩy quá trình đa dạng hoá mặt hàng với công nghệ cao.
- Công nghiệp hoá là quá trình hiện đại hoá công nghệ từ đó dẫn đến chất lượng
hàng hoá được ngày càng nâng cao và tạo ra sức cạnh tranh chiếm lĩnh trên thị trường.
- Công nghiệp nâng cao chất lượng cuộc sống.
Công nghiệp hoá đã làm tăng GNP/người do đó những nhu cầu về chất lượng cuộc
sống như tuổi thọ bình quân, mức độ biết chữ và sức mua thực tế của người dân được
nâng cao. Do đó công nghiệp hoá kết hợp với các chính sách đúng đắn của chính phủ sẽ
nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao mức sống của xã hội.
Như vậy để công nghiệp hoá đóng một vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế
Do đó để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế vững mạnh thì tất yếu phải tiến hành công
nghiệp hoá.
II. Chính sách công nghiệp hoá
1. Khái niệm chính sách công nghiệp hoá
Đặc điểm có tính chất bao trùm của quá trình công nghiệp hoá như đã diễn ra trên
thế giới trong suốt lịch sử của nó là sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, một mặt là sự
giảm phần của khu vực nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế do năng suất và sản lượng
của khu vực này đã tăng lên, sau đó là sự giảm tương đối của khu vực công nghiệp do sự
tăng của khu vực dịch vụ do chính kết qủa phát triển khu vực công nghiệp, mặt khác là sự
thay đổi cơ cấu trong nội bộ khu vực của công nghệ chế tạo.
Sự thay đổi cơ cấu trong nội bộ khu vực công nghệ chế tạo đã diễn ra như sau:
Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hoá thế giới sản xuất công nghiệp đã tập trung
vào hàng dệt sau đó chuyển sang sắt thép và các sản phẩm cơ khí sử dụng thép tiếp đến là
hoá chất các sản phẩm điện và cuối cùng ngày nay các sản phẩm điện tử và vi điện tử tức
là cơ cấu trong công nghiệp đã bắt đầu từ những ngành nghề có công nghệ thập đến
những ngành công nghệ cao.
Vì vậy vấn đề đặt ra là phải lựa chọn sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới
công nghệ như thế nào. Đó chính là chính sách công nghiệp hoá.
2. Nội dung của các chính sách công nghiệp hoá
Theo báo cáo của ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng thì nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 -
2000 là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với chính sách chủ yếu
là.
2.1. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Cơ cấu ngành : Hoàn thiện cơ cấu nông-công nghiệp và dịch vụ để tạo tiền đề
chuyển sang cơ cấu kinh tế mới : cơ cấu công-nông-dịch vụ cụ thể.
+ Thứ nhất: ưu tiên phát triển các ngành thu hút lao động, có khả năng duy trì chỉ
số ICOR thấp, lâu dài. Các ngành đó bao gồm:
Dệt, da, may mặc, chế bién nông sản và sản xuất hàng tiêu dùng.
+ Thứ hai: đầu tư cho một số ngành mũi nhọn về công nghệ - kỹ thuật để tạo năng
lực tiếp cận nhanh đến hệ thống kinh tế thế giới đó là các ngành lắp ráp ô tô, điện tử và
tin học.
+ Thứ ba: nông nghiệp phát triển theo mức có khả năng bảo đảm an toàn về lương
thực cho đất nước, một phần dành cho xuát khẩu và tạo cơ sở nguyên liệu cho một số
ngành công nghiệp chế biến.
+ Thứ tư: phát triển các ngành công nghiệp đóng vai trò nền móng cho toàn bộ hệ
thống công nghiệp như: khai khoáng, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng.
+ Thứ năm: phát triển mạnh các ngành mang tính chất dịch vụ như:
Tài chính - ngân hàng, thương mại, thông tin viễn thông, du lịch khách sạn.
+ Thứ sáu: cải tạo và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sắt, các loại
cảng, thông tin bưu điện.
- Cơ cấu vùng:
Phát triển hợp lý các vùng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ sở
khai thác triệt để các lợi thế tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ lẫn nhau làm cho tất
cả các vùng đều phát triển
- Cụ thể.
+ Thứ nhất : cần tập trung đầu tư cho các vùng trọng điểm tạo ra sức bật cao hơn
mức bình quân của cả nước. ba vùng trọng điểm:
Bắc bộ-Trung bộ-Nam bộ.
+ Thứ hai : đầu tư tận dụng tối đa lợi thế phát triển của từng vùng, tạo điều kiện
giảm dần sự chênh lệch về khả năng và cơ hội hấp dẫn đầu tư giữa các địa phương.
+ Thứ ba : lựa chọn hợp lý cơ cấu ngành cho từng vùng các địa phương mà nông
nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu, thiếu các đầu tàu tăng trưởng
mạnh thì buộc phải chấp nhận một tốc độ tăng trưởng thấp hơn. Trong dài han những
vùng này phải có chiến lược cơ cấu ngành hợp lý của mình và hình thành những trung
tâm tăng trưởng mạnh, đóng vai trò xung lực của tăng trưởng trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành trên vùng lãnh thổ.
- Cơ cấu thành phần kinh tế:
Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nhiều thành phần kinh tế,
khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhẩn trong và ngoài nước khai thác tiềm năng ra
sức đầu tư phát triển, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước là hạt nhân của quan hệ sản
xuất mới.
- Cụ thể.
- Hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng. Các thành phần chủ yế là: kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà
nước, kinh tế tiểu chủ cá thể và kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền
tảng. Cần phải đánh giá cao vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước trong việc động viên
tiềm năng vốn, công nghệ kinh nghiệm tổ chức quản lý và khẳng định cần phát triển phổ
biến hình thức kinh tế tư bản Nhà nước.
- Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ có một vị trí quan trọng lâu dài cần phải giúp
đỡ, giải quyết các khó khăn về vốn, khoa học công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Hướng dẫn thành phần kinh tếnày đi vào con đường hợp tác tự nguyện hoặc làm vệ tinh
cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã.
- Hướng tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, phát triển lâu dài phục vụ cho công
cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
2.2. Chính sách đổi mới công nghệ:
* Chính sách chuyển giao công nghệ tập trung đầu tư, nhập trực tiếp hoặc hợp tác
liên doanh với những ngành công nghệ có tầm chiến lược, các ngành công nghệ mũi
nhọn.
- Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong các ngành.
* Sản xuất và dịch vụ chủ yếu, đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh
vực sản xuất sản phẩm xuất khẩu, các lĩnh vực đầu tư mới. Tổ chức tốt việc giám định
các công nghệ nhập khẩu. Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới công nghệ trong một số ngành
nghề truyền thống. Đổi mới phương tiện kỹ thuật kiểm tra, đo lường, điều khiển áp dụng
kỹ thuật tự động hoá để nâng cao chất lượng sản phẩm của các ngành sản xuất.
- Phát triển các công nghệ cao.
- Khai thác tối đa năng lự hiện có và cải tiến đổi mới từng phần đối với những cơ
sở sản xuất vừa và nhỏ. Chú trọng công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh,
có khả năng tạo thêm nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp.
- Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận dụng công nghệ truyền thống để phát triển
công nghiệp đa dạng, tiểu thủ công nghiệp nông thôn và đặc biệt là công nghiệp chế biến.
- Thu hút nhiều nguồn vốn để tăng nhanh đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Ngoài nguồn vốn từ ngân sách cần huy động thêm vốn của các doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế, các nguồn viện trợ quốc tế.
- Đào tạo nhân lực, đào tạo đội ngũ chuyên gia khoa học và công nghệ có trình độ
cao, có phẩm chất tốt và đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi để tiếp thu và làm chủ các
công nghệ được chuyển giao.
* Chính sách tư tạo ra công nghệ mới :
- Phát triển các ngành khoa học tư nhiên, nghiên cứu một số vấn đề cơ bản có triển
vọng của khoa học.
- Đẩy mạnh viêc bảo hộ sở hữu công nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh
trong cơ chế thị trường và khuyến khích sáng tạo của các nhà khoa học và những người
lao động.
Xây dựng và ban hành các luật khoa học và công nghệ tạo lập thị trường cho hoạt
động khoa học và công nghiệp, dựa vào khoa học, công nghiệp để phát triển sản xuất có
hiệu quả. Nhà nước hỗ trợ cho các thành phần kinh tế có nhu cầu nghiên cứu khoa học và
sáng tạo công nghệ. Tiếp tục sắp xếp lai các cơ quan khoa học và công nghệ theo hướng
tập trung hơn cho các lĩnh vực khoa học và công nghệ chiến lược nghiên cứu khoa học
với giáo dục, đào tạo, chuyển một số viện nghiên cứu chuyên ngành về trực thuộc các
tổng công ty, gắn các chương trình kinh tế xã hội với quy hoạch phát triển các vùng lãnh
thổ.
III. Kinh nghiệm của các nước trong việc áp dụng chính sách công nghiệp
hoá đối với sự phát triển kinh tế
1. Kinh nghiệm của các nước NICS và ASEAN trong việc lựa chọn chính sách
chuyển dịch cơ cấu
a. Các nước NICS
Cùng với việc nghiên cứu, phân tích nắm bắt những quy luật khách quan và thực
tiễn để đề ra chính sách công nghiệp hoá một cách khoa học và phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh của việt nam việc tham khảo học tập kinh nghiệm của các nước phát triển và
các nước trong khu vực đang tiến hành công nghiệp hoá là rất cần thiết Qua đó chúng ta
có thể tim ra được các chính sách tốt nhất nhằm rút ngắn các quá trình công nghiệp hoá
và đưa nền kinh tế phát triển vững chắc.
Đài Loan thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát
triển nông nghiệp bằng con đường hiện đại hoá, hoá học hoá, thâm canh hoá đồng thời
phát triển dần các ngành công nghiệp có khả năng như điện - điện tử, hàng tiêu dùng phổ
thông và hàng tiêu dùng cao cấp. Do vậy kinh tế Đài Loan đã phát triển đều cả về nông
nghiệp và công nghiệp. Bộ mặt nông thôn được nhanh chóng đổi mới theo xu hướng
nhích dần tới như kiểu các đô thị năm 1992, tốc độ tăng kinh tế của đài loan là 6,8% và
tốc độ tăng xuất khẩu là 9,2% trong đó có những sản phẩm nông nghiệp chế biến. Hiện
nay đài loan đang tập trung đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉ ra 300 tỷ USD cho
kế hoạch 6 năm xây dưng đường quốc lộ, đường sắt và nhà máy điện. Sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế như vậy đã tạo nên sự phát triển kinh tế đạt tới trình độ khá cao, được quốc tế
chú ý, GDP bình quân đầu người là 10.000 USD.
Singapore có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt mạnh dạn. Vốn dĩ là một bang
tách ra từ Malaysia diện tích không lớn, tài nguyên nghèo nàn. Lúc đầu kinh tế của
Singapore chủ yếu dựa vào thương mại quốc tế và dịch vụ đời sống kinh tế trong nước
gắn chặt với kinh tế quốc tế khoảng 15 năm trở lại đây, Nhà nước Singapore quyết định
phải xây dựng ngành sản xuất tạo nên sức mạnh kinh tế của mình. Theo đó các ngành
công nghiệp có chất lượng cao được đưavào cơ cấu kinh tế, thích hợp với điều kiện đất
đai hạn chế và vị trí thuận lợi với giao lưu quốc tế. Đó là các ngành công nghiệp điện tử,
dụng cụ y tế cao cấp, dệt hiên đại, chế tạo thiết bị và dụng cụ chuyên dùng, dịch vụ
thương mại và dịch vụ kinh tế, tài chính, hoá dầu, vận tải biển, du lịch. Cơ cấu kinh tế
của Singapore hiện nay đã thay đổi, đã tăng tỷ lệ sản xuất trong nước và đang hướng tới
đưa các công ty quốc gia sang đầu tư ở nước ngoài Singapore là nơi có số lượng văn
phòng đại diện công ty nước ngoài nhiều nhất trong khu vực. Ngành dịch vụ có vị trí đặc
biệt quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Singapore. Sự phát triển các ngành sản xuất
trong nước là biện pháp quan trọng để hạn chế mức độ phụ thuộc vào biến động quan hệ
thương mại quốc tế, song phải là những ngành có chất lượng cao, sản phẩm có hàm
lượng khoa học khá cao để bảo đảm chiến lược những vị trí xứng đáng trên thị trường thế
giới.
Hàn Quốc là một nước rất thành công trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước với các chính sách phù hợp.
Hàn Quốc đã lựa chọn sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho từng giai đoạn phù hợp
với trình độ lao động và khả năng vốn của đất nước.
Vào giai đoạn phục hồi kinh tế sau chiến tranh Hàn Quốc đã áp dụng chiến lược
hướng nội, phát triển hàng tiêu dùng trong nước nhằm thay thế hàng nhập khẩu để khôi
phục nền kinh tế. Sau đó chuyển sang giai đoạn mở đầu cho cuộc cất cánh nền kinh tế,
Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu tạo điều kiện tăng dần dung lượng
thị trường nội địa, nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng sử dụng
nhiều sức lao động nhưng ít vốn bên cạnh đó Hàn Quốc cũng phat triển một số ngành
công nghiệp nặng tạo điều kiện chuyển mạnh sang chiến lược hướng về xuất khẩu.
Ngành sợi hoá chất đã trỡ thành mũi nhọn của công nghiệp xuất khẩu góp phần tạo ra
kinh tế tăng trưởng nhanh chóng.
Bước vào giai đoạn công nghiệp hoá Hàn Quốc đã tập trung đầu tư vào hai hướng,
đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng thời phát triển mạnh công nghiệp nặng
và công nghiệp hoá chất bảo đảm hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Hàn Quốc
coi các ngành công nghiệp luyện thép, đóng tàu, điện tử, ô tô là những ngành công
nghiệp chiến lược năm 1973, công bố kế hoạch phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp
hoá chất, ưu tiên các ngành đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất thép và hoá dầu. Đối với
quốc gia Hàn Quốc thì các tập đoàn là các đầu tàu để phát triển công nghiệp bên cạnh đó
các doanh nghiệp nhỏ là chân rết bổ sung, hỗ trợ với tập đoàn để phát triển kinh tế.
b, Các nước ASEAN:
Cách đây 20 năm, Thái Lan có cơ cấu kinh tế tương đối giống Việt Nam, từ đầu
những năm 70, chính phủ Thái Lan đã có nhiều cuộc bàn luận để xác định hướng phát
triển kinh tế. Hai xu hướng chủ yếu là: phát triển nông nghiệp toàn dân, thâm canh và
hiện đại để trở thành nền nông nghiệp hàng hoá phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu
dùng, đồng thời xây dựng ngành công nghiệp điện tử. Sau vài lần đièu chỉnh hướng phát
triển đến nay nền kinh tế Thái Lan đã trở nên một nền nông-công nghiệpkhá phát triển có
sản lượng gạo xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới. Xu hướng đang tiến tới sản phẩm
điện tử sẽ thay thế hàng dệt trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu. Song công nghiệp
thái lan đang trong tình trạng khó khăn về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chủ trương thực
hiện nền nông nghiệp phân tán, trở lại nền nông nghiệp hàng hoá ở những vùng trọng
điểm.
Việc đầu tư cho phát triển sẽ được tập trung cho các đô thị, khu công nghiệp và
các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá trọng điểm. Tuy nhiên sản phẩm khác của thái
lan vẫn có chất lượng cao, có vị trí trên thị trường thế giới. Do đó Thái Lan luôn đạt được
tốc độ tăng trưởng cao, kinh tế phát triển.
Malaysia tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cách từ từ, không gây những
biến động lớn trong kinh tế và đời sống xã hội. Nông nghiệp vẫn có những vùng sản xuất
tập trung với những sản phẩm truyền thống như cao su, dầu cọ, hạt điều, cacao, thuỷ hải
sản việc đầu tư cho nông nghiệp được giao cho chính quyền các bang giải quyết, tạo nên
khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng với một cơ cấu kinh tế lãnh thổ khá đa dạng.
Về công nghiệp những ngành công nghiệp lọc dầu, luyện thiếc, chế biến nông hải sản
được phát triển, xuất hiện thêm những ngành mới, tạo nên thế mạnh cho nền kinh tế của
Malaysia - Công nghiệp điện tử phát triển khá nhanh, đến nay Malaysia đã trở thành
nước xuất khẩu chủ yếu mạnh tính cho công nghệ lắp ráp máy vi tính trên thế giới và trở
thành nước đứng thứ ba sau nhật và Mỹ về sản xuất hàng bán dẫn.
Năm 1992, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là 18% và tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm hơn 8% được giữ liên tục trong 5 năm qua cho thấy mức độ phát triển khá
mạnh của nền kinh tế Malaysia.
2. Kinh nghiệm của một số nước với việc thực hiện chính sách chuyển giao và
phát triển công nghệ :
Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược công nghệ hoá hướng về xuất khẩu, các
nước NIC Châu á và các nước ASEAN sau này tập trung phát triển các công nghệ thu hút
nhiềulao động, quy mô vốn trung bình và đòi hỏi tay nghề vừa phải. Đó là ngành dệt,
maymặc, giấy, đồ chơi trẻ em, các mặt hàng da và các hàng tiêu dùng khác. Đồng thời
chính sách xuất khẩu, các nước này còn lưu ý các ngành thích hợp đã có làm ngành trọng
điểm xuất khẩu trong từng giai đoạn và kịp thời xây dựng, phát triển các ngành mới để
tiếp tục khả năng mở rộng xuất khẩu khi các ngành đang giữ vai trò chủ đạo trong lực
lượng xuất khẩu không còn nhiều hiệu quả nữa.
VD: Hàn Quốc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp ”trắng” (bông, bột,
đường) dựa vào nguyên liệu sẵn có trong nước và nhập khẩu công nghệ. ở đài loan, trong
giai đoạn 1950-1970 đã có 3 loại ngành khác nhau lần lượt giữ vai trò chủ đạo là ngành
chế biến lương thực - thực phẩm, ngành dệt và điện dân dụng. Dần dần, với thu nhập và
tích luỹ ngày càng cao, cùng với trình độ văn hoá được nâng lên, các nước và lãnh thổ
này đã triển khai các công nghệ cao hơn, cần nhiều vốn kỹ thuật hơn. Các ngành công
nghiệp như luyện kim, đóng tàu, máy điện và sản xuất thiết bị văn phòng được đầu tư và
nâng cấp. Chính sách công nghệ cũng chuyển hướng từ lấy nhập khẩu công nghệ làm
phương thông chính nhanh chóng hình thành công nghiệp mới sang tập trung đầu tư
nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ mới.
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore tỏ ra năng động đặc biệt và tích
cực khai thác triệt để những khoảng trống trong phát triển công nghệ cao của thế giới.
Cách thức xây dựng vào hình thành các ngành công nghiệp kỹ thuật cao của các nước
này khác với con đường mà các cường quốc công nghệ Âu-Mỹ-Nhật Bản đã trải qua. Họ
không tập trung nghiên cứu cơ bản để phát triển những “kỹ thuật công nghệ tương lai“.
Vì điều đó đòi hỏi vốn đầu tư quá lớn mà chưa đưa lại ngay hiệu quả kinh tế xã hội. Điều
họ quan tâm hàng đầu là những nhu cầu cấp bách mang tính ngắn hạn và trung hạn của
thị trường.
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore đều ra sức lợi dụng kỹ thuật công
nghệ của công ty siêu quốc gia và biết “Đứng trên vai những người khổng lồ“ này để
chen chân vào thị trường công nghệ bằng những hướng đi phù hợp cho mình từ những
lĩnh vực trò chơi điện tử, thiết bi âm thanh cấp thấp cho đến máy tính cá nhân cao cấp và
linh kiện bộ nhớ. Sau khi tiếp nhận kỹ thuật công nghệ mới, họ thường nghiên cứu, cải
tiến để chế tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và tiện lợi hơn.
Họ còn kết hợp công nghệ tiên tiến phương tây ưu thế nhân công rẻ, quy mô sản xuất vừa
và nhỏ, có khả năng đổi mới công nghệ nhanh để tăng thêm khả năng cạnh tranh trong
việc chế tạo sản phẩm theo giấy phép hoặc đơn đặt hàng nước ngoài. Đặc biệt, các công
ty của các NIE có thể chuyển đổi rất nhanh kiểu dáng công nghiệp, chủng loại sản phẩm
như chuyển từ sản xuất máy tính theo kiểu “quyển vở gấp“ thậm chí chuyển sang sản
xuất máy di động các kiểu.
VD: Chỉ một công ty ở Hồng Kông - Công ty đa thanh- với 30 nhân viên kỹ thuật
nhưng đã có thể đáp ứng nhanh chóng mọi nhu cầu rất đa dạng về kính thủy tinh của từng
gian dùng, kể từ những hộp đồng mua tư giá dưới 1000 USD cho đến những hộp đóng tự
giá lớn hơn gấp hàng trăm lần.
Song song với khuynh hướng vươn lên chiếm lĩnh một số lĩnh vực kỹ thuật cao,
bắt đầu từ năm 1980, đặc biệt sau năm 1985, do lợi thế cạnh tranh về giá nhân công sẽ
mất dần bởi tiền lương tăng cao cùng với mối quan tâm bảo vệ môi trường, các nước NIC
Châu á đã bắt đầu chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động cùng các công
nghệ tương xứng sang nước ASEAN xu hướng chuyển dịch cơ cấu này hiện có chiều
hướng phát triển mạnh trong quan hệ kinh tế khu vực giữa các nước ASEAN, các NIC
Châu á và một số nước khác trong khu vực.
* Qua trên ta thấy kinh nghiệm thực hiện các chính sách công nghiệp hoá ở các
nước đang phát triển châu A, NIC là những bài học thực tế quý giá để chúng ta tham
khảo trong quá trình phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh
tế việt nam hiện nay. Chúng ta có thể học hỏi nhiều ở các nước này các biện pháp và các
thực hiện chính sách công nghiệp hoá. Tuy nhiên có những kinh nghiệm không thể áp
dụng một cách máy móc mà cần phải tính đến những điều kiện cụ thể của việt nam hiện
nay để áp dụng các chính sách công nghiệp hoá như thế nào cho phù hợp.
Phần II
Thực trạng việc thực hiện chính sách
công nghiệp hoá ở Việt Nam
I. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các chính sách công nghiệp
hoá đối với phát triển kinh tế
1. Cơ cấu kinh tế:
* Cơ cấu ngành:
- Trong những năm đổi mới, các ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch theo
hướng: nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng
của nông nghiệp (bảng 1). Nhưng giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn tăng lên: tổng sản
phẩm trong nước của nông nghiệp năm 1996 so với năm 1991 tăng 26%, bình quân mỗi
năm tăng 5,73%, năm 1997 so với năm 1996 tăng: 4,8%, năm 1998 dự kiến tăng khoảng
3%.
Bảng 1. Cơ cấu kinh tế quốc dân và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Năm
Khu vực
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Nông nghiệp 40, 5 33, 9 29, 9 28, 7 28, 4 27, 2 26, 22
Công nghiệp 23, 8 27, 3 28, 9 29, 6 29, 9 30, 7 31, 23
Dịch vụ 35, 7 38, 8 41, 2 41, 7 41, 7 42, 1 42, 55
2. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Được thực hiện trên cơ sở có sự tăng trưởng khá và đều của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân và của cả 3 khu vực. Tính chung năm 1991-1995, tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tăng 48,3%, bình quân mỗi năm tăng 8,2%; 1996 so với năm 1995: 9,3%; 1997 so
với năm 1996: 8,8% (ước tính); năm 1998 so với 1997 ước tính tăng 6,1%- 6,3%. Trong
5 năm 1991-1995;công nghiệp tăng bình quân năm 13,7%; năm 1996 so với năm 1995
tăng 14,1%; năm 1997 so với năm 1996: 13,07 (ước tính); năm 1998 so với năm 1997
ước tính tăng 11,5%. Cùng trong thời kỳ 1991-1995: tốc độ tăng GDP của nông nghiệp
bình quân 3,4%: dịch vụ 9,3% (sau khi trừ yếu tố giá). Năm 1996 so với năm 1995: nông
nghiệp tăng 4,4%, năm 1997 so với năm 1996 tăng 4,8%, năm 1998 so với năm 1997 ước
tính tăng 3% ; dịch vụ năm 1996 so với năm 1995 tăng 9,29%; năm 1997 so với năm
1996 ước tính tăng 8,29%, năm 1998 so với năm 1997 tăng 6%.
3. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng đa dạng hoá, dần
dần hình thành ngành trọng điểm và mũi nhọn nông nghiệp bước đầu chuyển dịch theo
hướng đa dạng hoá cây trông, vật nuôi, xoá dần tình trạng độc canh cây lương thực, do đó
đã tăng hiệu quả sử dụng đất và lao động nông nghiệp. Cơ cấu giá trị sản xuất giữa ngành
trồng trọt và chăn nuôi trong nhiều năm trước nghị quyết 10 chỉ dao động ở tỷ lệ 79% và
21% thì từ năm 1988 đến nay tỷ trọng chăn nuôi đã tăng dần lên 22,6% (năm 1993);
22,7% (năm 1994) và khoảng 22,8% (năm 1997). Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu
giá trị sản xuất giữa các loại cây trồng bước đầu có chuyển biến theo hướng giảm tỷ trọng
nhóm cây lương thực, tăng tỷ trọng nhóm cây công nghiệp, rau đậu, cây ăn quả. Nếu năm
1998 tỷ trọng nhóm cây lương thực 63,3% thì năm 1996 giảm xuống còn 63,4% trong
điều kiện sản xuất lương thực vẫn tăng với tốc độ bình quân 5,6% năm, tỷ trọng cây công
nghiệp tăng từ 15,4% đến 20% trong thời kỳ tương ứng.
Một kết quả đáng ghi nhận trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn là
đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, chuyên canh với
quy mô lớn như: lúa ở Đồng bằng Sông Cửu Long; cà phê ở Tây Nguyên; cây ăn quả ở
Nam Bộ và miền núi phía bắc; mía ở Duyên hải miền Trung và Đồng bằng Sông Cửu
Long. Trong đó có môt số sản phẩm đã đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cà
phê, cao su, hạt điều. Sản lượng cà phê nhân năm 1988 mới có 31,3 ngàn tấn, đến năm
1996 lên tới 252 ngàn tấn và năm 1997 ước đạt 315 ngàn tấn, gấp 10 lần năm 1998. Sản
lượng cà phê xuất khẩu năm 1996 đat 248 ngàn tấn, tạo hơn nửa tỷ đô la, đứng vị trí thứ
hai sau gạo, trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Trong 10 năm qua cao su tự nhiên
đã có bước phát triển vượt bậc cả về diện tích và sản lượng. Năm 1987 cả nước có 203
ngàn ha với 51,7 ngàn tấn mủ khô, năm 1996 lên tới 285 ngàn ha và 138 ngàn tấn mủ
khô, trong đó xuất 110 ngàn tấn. Cây điều nổi lên, đứng thứ 3 trên thế giới sau ấn Độ,
Brazin về diện tích sản lượng và khả năng chế biến, xếp thứ hai về số lượng xuất khẩu,
đưa ngành sản xuất điều nước ta lên ngang hàng với các quốc gia sản xuất, xuất khẩu
điều lớn trên thế giới, năm 1996 lên tới 250 ngàn đôla, đứng thứ tư trong xuất khẩu nông
sản (sau lúa gạo, cao su, cà phê).
Công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng :
Hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu mà trước
đây trong nước chưa có như: lắp ráp ôtô, sứ vệ sinh cao cấp, kính xây dựng điện tử.
Phát triển nhanh một số ngành thị trường có nhu cầu và đất nước có nguồn lợi tạo
tiền đè để hình thành và phát triển một số ngành trọng điểm và mũi nhọn :
- Thép, bình quân giai đoạn 1991-1995 tăng 25,83%/năm; 1996-1997 tăng
43,07%/năm.
- Dệt may, bình quân giai đoạn 1991-1995 tăng 26,2%/năm; 1996-1997:
28,6%/năm.
- Da giầy, bình quân giai đoan 1991-1995 tăng 22,1%/năm; 1996-1997 tăng
29,7%/năm.
- Xi măng, giai đoạn 1991-1995 tăng trưởng bình quân 22%/năm.
Tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp truyền thống trên cơ sở gắn các ngành
đó với thị trường bằng các giải pháp thích ứng (coi trọng cải tiến và nâng cao chất lượng
sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm ). Nhờ vậy giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm
1995 so với năm 1990: ngành sản xuất vật liệu xây dựng tăng 1,27 lần, ngành chế biến
thực phẩm( bia, bánh kẹo. . . ) tăng 1, 56 lần.
Các ngành dịch vụ bước đầu đã có sự phát triển đa dạng, chất lượng được nâng
cao từng bước.
- Các loại dịch vụ liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế như: Dịch vụ xuất nhập
khẩu, dịch vụ thương mại, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ bưu chính viễn thông.
. .
- Các loại dịch vụ liên quan đến đời sống người dân như: dịch vụ y tế, giáo dục. . .
Đi đôi với phát triển mạnh các ngành xuất khẩu và các ngành sản xuất hàng tiêu
dùng đã chú ý thoả đáng tới phát triển có chọn lọc một số ngành sản xuất tư liệu sản xuất
và tạo cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế. tỷ trọng công nghiệp nhiên liệu, năng lượng
tăng từ 18,6% (năm 1990) lên 23% (năm 1995), trong đó tỷ trọng dầu khí từ 9,7% lên
14,6%, ngành vật liệu xây dựng từ 7,1% lên 8,1%, ngành hoá chất từ 6,6% lên 8,6%,
luyện kim đen từ 0,9% lên 1,4%. . .
4. Đầu tư nước ngoài trực tiếp
Đã đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nếu 3 năm 1988 - 1990 chỉ có 218 dự án với tổng số vốn đăng ký 1,5 tỷ USD thì
riêng năm 1995 đã cấp giấy phép cho 408 dự án với tổng số vốn 7,3 tỷ USD. Năm 1996:
326 dự án với trên 8,5 tỷ USD; tăng binh quân hàng năm từ 1988 -1996 là 31,5% về số
dự án và 45% về vốn đăng ký. Hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển đều đã đầu tư ở
việt nam, trong đó các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu á chiếm 70% số vốn. đến cuối
năm 1998, Việt Nam đã thu hút trên 2200 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng
ký là 35,4 tỷ USD. Trong số này có 1778 dự án đang hoạt động với số vốn 31,7 tỷ USD,
số vốn đã thực hiện 12,9 tỷ USD bằng 40% tổng số vốn đăng ký. Quy mô dự án ngày một
tăng, nếu bình quân 3 năm đầu (1988 - 1990) vốn đăng ký chỷ gần 7 triệu đôla 1 dự án thì
năm 1992: 11 triệu USD, năm 1996: 24 triệu USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thể hiện trên các mặt:
- Tính đến cuối năm 1996 có khoảng 375 dự án đã đi vào kinh doanh với tổng
doanh thu năm 1996 trên 4, 2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô)
chiếm khoảng 45%. Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 7 - 8% GDP của năm
1995 và 1996.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn có tốc độ tăng trưởng
cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Năm
1996, ngành công nghiệp có tốc độ phát triển 14,1%, trong đó công nghiệp quốc doanh
11,7%. khu vực đầu tư nước ngoài 20,62%, năm 1998, ước tính giá trị sản lượng ngành
công nghiệp tăng 11,5%, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,1%, khu vực
ngoài quốc doanh tăng 6,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22%.
- Những ngành có tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài cao là: công nghiệp 62%
tổng số vốn và kết quả sản xuất. chiếm 25,1% trong tổng giá trị sản xuất năm 1996. Tiếp
đến là các ngành kinh doanh khách sạn: 13,7% kinh doanh bất động sản: 10,9%, vận tải
và thông tin liên lạc: 5,3% tổng số vốn. Những ngành có đầu tư nước ngoài thường là
những ngành có kỹ thuật công nghệ cao như khai thác dâù khí, sản xuất ôtô, xe máy, một
số mặt hàng gia dụng điện tử và thiết bị điện tử. . . Đó là những ngành có ý nghĩa quan
trọng đối với phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hàng năm thu hút khoảng
3 - 4 vạn người làm việc trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996 có
khoảng 19 van người làm việc ở khu vực này.
5. Cơ cấu kinh tế ngành đã chuyển dịch dần theo hướng vào xuất khẩu đồng
thời thay thế nhập khẩu
Trong những năm đổi mới vừa qua nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất hướng
nội, thay thế nhập khẩu nhưng về mặt chủ trương và biên pháp thực hiện đã coi trọng
hướng vào xuất khâủ. Từ năm 1991 đến năm 1995 bình quân kim ngạch xuất khẩu đạt
16,9 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 16, 7% năm tăng gấp 2 lần tốc độ tăng bình quân của
GDP, năm 1997 so với năm 1996 kim ngạch xuất khẩu tăng 20% nhập khẩu tăng 0,5%
mức nhập siêu 37,5% năm 1998, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,3 tỷ USD bằng năm 1997,
nhập siêu bằng 20% so với kim ngạch xuất khẩu.
Cơ cấu hàng xuất khẩu biến đổi theo hướng tăng chút ít tỷ lệ hàng công nghiệp
nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, hàng công nghệ và khoáng sản. Với số liệu thay đổi theo các
năm như sau:
Năm 1990 1995 1996
Hàng Công Nghiệp
và khoáng sản
25, 66 25, 28 28, 73
Hàng CN nhẹ và tiểu
thủ Công Nghiệp
26, 43 28, 44 28, 95
Hàng Nông Sản 32, 57 32, 03 29, 75
Hàng Lâm Sản 5, 26 2, 82 2, 92
Hàng Thuỷ Sản 9, 94 11, 40 9, 59
Cơ cấu hàng xuất khẩu.
Nhiều ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu có sự phát triển khá năm 1995 so với
năm 1990 luyện kim đen tăng 3,83 lần luyện kim màu tăng 1,86 lần, sản xuất thiết bị máy
móc 1,62 hoá chất phân bón cao su tăng 2,49 lần, vật liệu xây dựng 2,28 lần.
Tóm lại cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua đã có sự
chuyển dịch đúng và tích cực theo hướng: đẩy mạnh hội nhập và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Có sự chuyển dịch cơ cấu như vậy là do một phần chính sách vốn phù hợp nên đã
thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài do đó quy mô vốn đầu tư toàn xã hội ăng từ
15% GDP năm 1991 lên 27% GDP vào năm 1995. Đến năm 1995 đầu tư xây dựng cơ
bản bằng vốn trong nước kể cả vốn khấu hao chiếm 17% GDP, trong đó phần vốn ngân
sách 4, 2% GDP. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn năm 1988-1998 là
35, 4 tỷ USD với 2200 dự án chiếm 33% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội (năm 1995 là
22%).
- Cơ cấu vùng lãnh thổ:
Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế xã hội của các địa
phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu
công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng một số địa bàn kinh tế đặc biệt là một
thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy mạnh đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng
cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất
theo hướng khai thác lợi thế so sánh gắn với thị trường.
- Cơ cấu thành phần kinh tế.
Từ năm 1986 đến nay, trong tiến trình đổi mới, đảng ta đã chủ trương chuyển nền
kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá gồm nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà
nước. Do đó phải tiến hành điều chỉnh lại các thành phần kinh tế được tiến hành từng
bước bổ sung và hoàn thiện cả về măt lý luận cũng như thực tiễn phù hợp với tình hình
phát triển nền kinh tế của đất nước.
Đại hội lần thứ VI nêu rõ thành phần kinh tế ở nước ta bao gồm. kinh tế xã hội
chủ nghĩa, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế tư
nhân.
Đại hội lần thứ VII nêu lên cơ cấu thành phần kinh tế gồm : kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân.
Thực trạng cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta về tổng sản lượng công
nghiệp (tính theo %).
Năm Kinh tế Nhà nước Kinh tế tư nhân
1976 68, 6 31, 4
1977 69, 2 30, 0
1987 55, 4 44, 1
1988 56, 5 43, 5
1989 57, 0 43, 0
1990 59, 0 40, 2
Đến nay kinh tế Nhà nước vẫn nắm những ngành, nông nghiệp lĩnh vực kinh tế
then chốt và các doanh nghiệp trọng yếu, chiếm 70% tổng vốn đầu tư những hiệu quả
kinh tế nói chung còn thấp.
Kinh tế tập thể bao gồm toàn bộ lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Từ
năm 1986 đến nay, nhất là từ sau khi có nghị quyết 10 của bộ chính trị, 2/3 số hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn rất ít tác dụng đối với kinh tế hộ gia
đình, 1/3 chuyển sang làm chức năng dịch vụ ở một số khâu.
Kinh tế cá thể có phạm vi và đối tương đối lớn. Nhà nước đã có chính sách khuyến
khích mở rộng kinh doanh trong các ngành nghề ở thành thị và nông thôn.
Kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong các ngành do luật pháp quy định.
Hình thức liên doanh giữa Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước được
mở rộng tuy nhiên kinh tế tư bản tư nhân còn rất nhỏ bé. Một mặt do các nhà tư sản ở
nước ta ít vốn lại chưa có đầu óc làm ăn lớn. Mặt khác họ vẫn chưa tin vào chính sách và
pháp luật bảo đảm cho họ sản xuất, kinh doanh an toàn.
Nhìn chung, cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay là:
Kinh tế Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn về vốn đầu tư và chiếm lĩnh hầu hết các
ngành nghề quan trọng nhưng trước mắt hiệu quả kinh doanh còn thấp. Các thành phần
kinh tế cá thể phát triển chưa cân xứng với tiềm năng hiện có chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực buôn bán, dịch vụ, tỷ lệ vốn đầu tư đưa vào sản xuất không đáng kể, do đó chưa
góp phần làm thay đổi cơ câu các thành phần kinh tế
Về mặt lý luận chúng ta đã xác định được một cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp
với tình hình hiện tại nhưng về mạt thực tế cơ cấu các thành phần chưa có sự thay đổi
đáng kể.
2. Khoa học và công nghệ
Hiện nay ở nước ta công nghệ được sử dụng phần lớn là nhập từ nước ngoài trước
năm 1987, công nghệ nhập chủ yếu là từ Liên Xô và các nước Đông Âu dưới hình thức
viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi. Công nghệ nhập phần lớn
là lạc hậu so với trình độ thế giới.
Từ năm 1987, sau khi có chính sách đổi mới, nhất là sau khi có luật đầu tư nước
ngoài (tháng 12-1987) công nghệ đã được chuyển giao vào nước ta bằng các kênh thương
mại, chủ yếu là các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp và một phần là các dự án hỗ trợ kỹ
thuật của UNDP, các dự án ODA, việc mua thiết bị bằng vốn trong nước. v. . .
Với các kênh chuyển giao trên, chúng ta đã nhận được nhiều công nghệ hơn, trong
đó có một công nghệ tiên tiến. Với chính sách “chú trọng công nghệ đòi hỏi mất đầu tư
thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp
tranh thủ đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ trước hết ở một số khâu có ý nghĩa
quyết định việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhất là hàng xuât khẩu”. Cách làm này đã
được hết sức coi trọng hiện nay khi khả năng vốn của ta còn nhỏ bé. Thực tế mấy năm
qua nhiều cơ sở sản xuất đã thực hiện khá thành công theo hướng này. Xí nghiệp Điện tử
Vietronis (Thủ Đức), Xí nghiệp Xà phòng Đánh răng P/S, xí nghiệp Gạch men Kim Long
Hầu (Thái Bình)
Là những cơ sở điển hình biết lựa chọn đầu tư cho khâu mấu chốt trong quy trình
công nghệ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình, mang lại hiệu quả cao.
- Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài trong
thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong
nước so với thời kỳ trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp
cận với trình độ hiện đại của thế giới. Trong đó, phải kể đến ngành bưu chính viễn thông,
thăm dò, khai thác dầu khí, một số dây chuyền sản xuất tự động đã được đưa vào trong
nước như công nghệ CAD, CAM được đưa vào trong thiết kế cơ khí, chế tạo, dệt may. . .
thông qua các dự án đầu tư nước ngoài một số công nghệ mới được nhập vào nước ta như
sản xuất cáp quang, sản xuất ống thép bằng phương pháp cuốn và hàn tự động theo
phương pháp xoắn ốc.
Nhà nước đã ban hành và sửa đổi các bộ luật đầu tư, pháp lệnh chuyển giao công
nghệ nước ngoài vào Việt Nam, các văn bản của chính phủ về chuyển giao công nghệ đã
khuyến khích và thu hút được một số lượng lớn công nghệ nhập từ nước ngoài, có nhiều
mối để nhập công nghệ các thiết bị như thiết bị sản xuất xi măng, sản xuất phân bón. v. v.
. . đã được nhập vào nước ta một khối lượng lớn chất lượng công nghệ nhập ngày một
cao hơn. Nhà nước ta đã biết tân dụng được lợi thế của các nước đi sau để tận dụng
những công nghệ mới hiện đại đi thẳng vào phát triển các ngành mũi nhọn, trọng điểm
như nhà máy dệt long an đã đầu tư nhập các thiết bị hiện đại nhất từ Mỹ, Nhật, Tây Âu để
tạo ra một bước nhay vọt về chất lượng và khả năng cạnh tranh ngang tầm thế giới.
Nhà nước ta dã bắt đầu phát huy được sự phát triển của hai bộ phận công nghệ đó
là bộ phận công nghệ truyền thống được hiện đại hoá và bộ phận công nghệ hiện đại bao
gồm cả các ngành mũi nhọn. Hai bộ phận này thúc đẩy và cùng nhau phát triển.
- Về công tác nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ trong nước chúng ta
đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và
phát triển của nước ta phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách của đảng và Nhà
nước. Về khoa học tự nhiên và công nghệ đã chú trọng hơn việc nghiên cứu ứng dụng,
tập trung vào những lĩnh vực công nghệ ưu tiên như vật liệu mới, công nghệ sinh học,
công nghệ thông tin. . . Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh được đẩy mạnh hơn.
II. Những hạn chế trong việc thực hiên các chính sách
1. Cơ cấu kinh tế
* Cơ cấu ngành :
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra còn chậm chạp trong những năm gần
đây.
Năm
Khu vực
1991 1997 Tăng giảm
Nông nghiệp 40, 5 26, 22 -14, 28%
Công nghiệp 23, 8 31, 23 +7, 43%
Dịch vụ 35, 7 42, 55 +6, 85%
- Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở khu vực đã làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế chậm lại (năm 1995: 9,5% năm 1996: 9,3%, năm 1997: 8,8%, năm 1998: 6,1%).
- Chưa có chiến lược và quy hoạch có luận cứ khoa học và có tính khả thi.
- Chưa hình thành rõ các ngành trọng điểm và mũi nhọn.
Ngay khái niệm về ngành trọng điểm và ngành mũi nhọn vẫn chưa có sự thống
nhất và sự lựa chọn ngành trọng điểm mũi nhọn vẫn chưa cụ thể. Nghị quyết 7 Trung
ương và văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII có dùng khái niệm ngành trọng
điểm và ngành mũi nhọn. Nghị quyết 7 (khoá VII) chỉ rõ “Chính sách công nghiệp nhằm
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải hướng tới hình thành một số ngành công
nghiệp trọng yếu đối với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng
tâm là công nghiệp chế biến và chế tác mà công nghiệp cơ khí và điện tử có vị trí hàng
đầu“. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII xác định có chọn lọc một số cơ sở
công nghiệp nặng trọng yếu. . . Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến
nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công
nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào