Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình lịch sử việt nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.54 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
1.

Trang

Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2.

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm


2.1. Cơ sở lý luận của SKKN

2

2.2. Thực trạng các vấn đề trước khi áp dụng SKKN

3

2.3. Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

4

2.3.1. Nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phương pháp kể chuyện
lịch sử trong dạy học lịch sử
2.3.2. Một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong chương trình lịch
sử Việt Nam lớp 11 ở Trung tâm GDNN - GDTX Như Thanh
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị

5
5
15
16

-

Kết luận.

16


-

Kiến nghị.

17

Tài liệu tham khảo.

18

Phụ lục.

19

download by :


download by :


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài 
Lịch sử là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những
sự kiện liên quan đến con người. Lịch sử là quá khứ chứa đựng nhiều giá trị văn
hoá và nguồn dữ liệu quý giá để đánh giá sự phát triển ở hiện tại. Bất kì quốc gia
nào cũng đều học mơn lịch sử bởi lịch sử có giá trị vô cùng quan trọng , sử học
nuôi dưỡng đạo đức con người, giáo dục con người tính cần cù, chăm chỉ, sáng
tạo, u thương, đồn kết gia đình, yêu quê hương đất nước. Việc học lịch sử lại
càng vơ cùng quan trọng trong xu thế tồn cầu hố hiện nay.

Với tư cách là một môn khoa học, bộ mơn lịch sử trong trường phổ thơng
có vai trị quan trọng trong việc đào tạo giáo dục học sinh trở thành một con
người toàn diện, giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, thế giới quan khoa học cho học sinh
như giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, lòng biết ơn...Lịch sử khơng
chỉ dạy cho học sinh tình cảm u ghét trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi
dưỡng cho các em năng lực đối xử với mọi người xung quanh, biết yêu quý cái
đẹp, yêu lao động, sự căm thù quân cướp nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Khơi dậy ở học sinh sự thông cảm sâu sắc và lịng kính u đối với quần
chúng nhân dân. Bởi vì lịch sử chính là “cơ giáo của cuộc sống”, giúp các em có ý
thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng
dân tộc của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay bộ môn lịch sử trong trường THPT chưa thực sự được
đề cao. Vị trí, vai trị của lịch sử bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh
thờ ơ xem nhẹ. Bên cạnh đó, trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ nặng về
cung cấp kiến thức sự kiện, con số trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng
những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Yêu cầu cấp
thiết đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng,
đáp ứng nhu cầu đào tạo. Một biện pháp quan trọng trong đó là sử dụng tài liệu
tham khảo trong đó có sử dụng những mẫu chuyện lịch sử kết hợp hình ảnh
nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 - 1918 có vị trí quan trọng trong
tiến trình lịch sử dân tộc. Nội dung chính của giai đoạn này là cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo
vệ nền độc lập và giải phóng dân tộc của nhân dân ta; trong đó, nội dung đấu
tranh chống xâm lược được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Trong giai đoạn này gắn
với mỗi bước phát triển của lịch sử là những sự kiện, nhân vật - những mẩu
chuyện lịch sử. Những câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan sẽ có tác
dụng cụ thể hoá kiến thức, giúp các em tái hiện quá khứ một cách chân thực
nhất . Đồng thời có tác dụng mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của học sinh hình
thành trong các em lý tưởng sống cao đẹp, ý thức trách nhiệm đối với bản thân,

gia đình, quê hương đất nước.
1

download by :


Xuất phát từ thực tế trên, với hơn 10 năm giảng dạy lịch sử ở Trung tâm
GDNN - GDTX Như Thanh tôi phải từng bước đổi mới phương pháp dạy học bộ
mơn, để tìm ra phương pháp hay, cách dạy mới giúp học sinh có thể tiếp cận kiến
thức mơn học một cách dễ dàng, gây hứng thú cho học sinh, để các em được sống
lại với quá khứ thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới.
Để nâng cao hiệu quả bài học, nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh tơi
xin trình bày đề tài: “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương
trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử”. Với
việc nghiên cứu đề tài này, tơi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ
dạy học lịch sử có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động,
ngày càng u thích mơn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu 
Nhằm đổi mới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh khối 11 ở
Trung tâm GDNN - GDTX Như Thanh, giúp giáo viên có thêm một phương pháp
dạy mới, học sinh có một cách học mới để tiếp thu và lĩnh hội những tri thức lịch
sử hiệu quả, góp phần phát huy năng lực tư duy, tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nghiên cứu và áp dụng cho đề
tài là học sinh khối 11 ở ba lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy là 11B1, 11B2, 11B3
Trung tâm GDNN - GDTX Như Thanh năm học 2018 - 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực hiện các bước cụ
thể sau đây:

- Nghiên cứu các tài liệu lí luận và vấn đề sử dụng các câu chuyện, giai
thoại trong dạy học lịch sử ở trường THPT. 
- Nghiên cứu tìm hiểu SGK, sách giáo viên, sách bài tập, tài liệu chuẩn kiến
thức và kĩ năng, các tài liệu tham khảo kiến thức lịch sử lớp 11.
- Thông qua việc thao giảng, dự giờ đồng nghiệp để trao đổi rút kinh
nghiệm, đặc biệt là những tiết dạy học có sử dụng kể chuyện lịch sử.
- Cho học sinh làm bài kiểm tra, sử dụng phiếu trắc nghiệm khách quan
sau những tiết có sử dụng kể chuyện lịch sử để tổng kết kinh nghiệm sư phạm,
đúc rút kinh nghiệm kịp thời để điều chỉnh quá trình dạy - học cho phù hợp với
đối tượng học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: tiến hành soạn và thực nghiệm các tiết dạy cụ
thể để khẳng định tính khả thi, hiệu quả của việc sử dụng kể chuyện lịch sử trong
dạy học lịch sử. 
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2

download by :


Lịch sử là khoa học nghiên cứu xã hội và con người trong sự phát triển
của nó, nghiên cứu quá khứ cuộc sống của nhân loại một cách toàn diện với
những quy luật chung và tính cụ thể. Khoa học lịch sử vì thế có những đặc trưng
riêng:
Thứ nhất: tri thức lịch sử mang tính khái qt. Đó là những sự kiện lịch sử
đã xảy ra, người ta không thể quan sát trực tiếp được lịch sử quá khứ mà chỉ
nhận thức chúng một cách gián tiếp thông qua các nguồn tài liệu.
Thứ hai: Tính khơng lặp lại. Mỗi sự kiện, hiện tượng chỉ xảy ra trong một
thời gian không gian nhất định.
Thứ ba: Tính cụ thể. Mỗi sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một

hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian nhất định. Đặc điểm này địi hỏi khi
trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động, có hình ảnh bao
nhiêu thì càng hấp dẫn hứng thú bấy nhiêu.
Thứ tư: Tính hệ thống. Sự vận động từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới
tương lai trong hiện thực lịch sử ln là q trình phát triển hợp quy luật.
Từ đặc trưng trên của bộ môn cho ta thấy trong giảng dạy lịch sử ngoài
sách giáo khoa là tài liệu cơ bản thì việc sử dụng tài liệu tham khảo trong đó các
mẩu chuyện lịch sử cũng là một nguồn kiến thức quan trọng giúp học sinh hiểu
sâu sắc kiến thức lịch sử, mà lịch sử là một câu chuyện dài, rất hay và ý nghĩa.
Người thầy có nhiệm vụ khơi gợi cho học sinh cảm nhận cái hay của câu chuyện.
Sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong giai đoạn lịch sử Việt nam từ
1858 -1918 gắn với biết bao sự kiện, nhân vật sẽ giúp các em hiểu rõ quá trình
xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và quá trình kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta. Nhờ đó, từng sự kiện, biến cố lịch sử quan trọng sẽ hiện
lên với đầy đủ tính cụ thể, gợi cảm và đầy kịch tính của nó, đem đến cho học sinh
những cảm xúc mạnh mẽ không thể nào quên.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung của Trung tâm
Trung tâm GDNN - GDTX Như Thanh những năm qua, mặc dù cịn gặp
nhiều khó khăn cả về cơ sở vật chất và con người nhưng với sự nỗ lực cố gắng
của tập thể Trung tâm đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong việc nâng cao
chất lượng dạy - học, đặc biệt là tỉ lệ học sinh giỏi và học sinh thi đậu tốt nghiệp,
các trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Một thực tế vẫn tồn tại là qua nhiều
năm Trung tâm vẫn chưa khắc phục được là chất lượng “đại trà” còn thấp, tỉ lệ
học sinh yếu kém cịn nhiều, trong đó mơn lịch sử chiếm mợt sớ lượng tương đối .
2.2.2. Về phía giáo viên
* Ưu điểm:
Tổ văn hoá của Trung tâm GDNN - GDTX Như Thanh hiện nay có 13 giáo
viên trẻ, tuổi đời, tuổi nghề đang bước vào đợ chín, được đào tạo chính quy, có


3

download by :


năng lực chun mơn vững vàng, nhiệt tình, u nghề, cầu tiến, có tinh thần
trách nhiệm cao trong cơng tác chun mơn, ham học hỏi, tìm tịi và sáng tạo.
* Hạn chế:
Trong qúa trình giảng dạy, phần lớn giáo viên chỉ dựa vào sách giáo khoa
mà chưa chú trọng vào việc mở rộng nguồn nhận thức, hình thức tổ chức dạy
học. Đặc biệt là chưa có phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo khi dạy học,
nếu có thì cũng rất hình thức như giới thiệu vắn tắt nội dung của tài liệu, trích
đọc một đoạn tài liệu để minh hoạ, nhắc đến một nhân vật nào đó thì học sinh sẽ
quên ngay sau tiết học. Ít giáo viên sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong bài
giảng của mình. Bên cạnh đó mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy nhưng
vẫn còn một số bài quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả
giáo viên truyền thụ lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
2.2.3. Về phía học sinh
* Ưu điểm:
Trung tâm GDNN - GDTX Như Thanh là một trường miền núi, học sinh
người dân tộc thiểu số chiếm một tỉ lệ tương đối lớn. Hầu hết các em đều xuất
thân từ gia đình th̀n nơng nên ngoan ngỗn, chịu khó. Trong giờ học lịch sử
các em lắng nghe giáo viên giảng bài, tập trung theo dõi SGK, làm bài tập theo
yêu cầu của giáo viên, có ý thức vươn lên trong cuộc sống.
* Hạn chế:
Về phía học sinh: Là học sinh một huyện miền núi, nhiều em ở vùng sâu
vùng xa đi lại khó khăn, gia đình hồn cảnh, ảnh hưởng rất lớn đến việc học
tập. Đa số các em vẫn cịn thói quen học vẹt, khơng nắm sâu được kiến thức vì
vậy sẽ mau qn kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng khơng thực sự chính xác các
sự kiện lịch sử. 

Điều tra cụ thể chất lượng bộ môn Lịch Sử học kì I của một số lớp học sinh
khối 11 năm học 2018 - 2019
Bản thân tôi trong học kì I vừa qua đã đảm nhận việc giảng dạy ba lớp khối:
11B1, 11B2, 11B3. Kết quả đạt được trong học kì I như sau:
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp SLHS
SL %
SL
%
SL
%
SL %
SL
%
11B1
35
0
7
20
18 51.4
9
25.
1
2.85
5
7

11B2
29
0
3
10.3 20
69
5
17.
1
3.4
3
11B3
30
0
3
10
22 73.3
3
10
2
6.7
Trong quá trình giảng dạy, với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình
học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, tôi
thiết nghĩ phải từng bước điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù
hợp với đối tượng học sinh khối 11 nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn.
4

download by :



Tôi đã thực hiện “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương
trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử”. Với
việc thực hiện phương pháp này, tôi từng bước điều chỉnh cách học của học sinh
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác cho người học trong quá trình
tiếp thu, lĩnh hội và vận dụng kiến thức đã học để làm bài kiểm tra đạt được kết
quả cao hơn, gây hứng thú cho các em trong mỗi giờ lịch sử.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để
giải quyết vấn đề
2.3.1. Những nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phương pháp kể
chuyện lịch sử trong dạy - học lịch sử
Để sử dụng các câu chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử một cách
hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú học tập cho
học sinh, đỏi hỏi giáo viên phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: 
- Nguyên tắc đảm bảo tính tư tưởng. Tính tư tưởng trong dạy học lịch sử
thể hiện ở việc đứng vững trên lập trường quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nên khi lựa chọn những câu chuyện lịch sử phải xem xét để
đảm bảo tính tư tưởng.
- Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, tính chính xác. Đây là yêu cầu quan
trọng trong nội dung dạy học để đảm bảo học sinh có cái nhìn đúng về sự kiện,
nhân vật, hiện tượng lịch sử. 
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức. Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học
phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi, hồn cảnh và trình độ nhận thức của học sinh.
Ngôn ngữ phải trong sáng, dễ hiểu, biểu cảm.... 
- Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần phải lựa
chọn các câu chuyện lịch sử cho phù hợp với những kiến thức sự kiện lịch sử cơ
bản, phục vụ cho bài học để từ đó học sinh hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự
ham học, khơi dậy nội lực của mình. Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện
khơng đơn thuần là để minh hoạ mà cịn để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện
nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử. 
2.3.2. Một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong chương trình

lịch sử Việt Nam lớp 11 ở Trung tâm GDNN-GDTX Như Thanh
Trong bài giảng, phương pháp sử dụng kể chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng
trực quan - quan sát tranh ảnh là đặc biệt nhất, để nâng cao tính tích cực của
học sinh, làm bài giảng sinh động có hiệu quả. phương pháp kể chuyện phải sử
dụng kết hợp với các phương pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ. Việc
lồng ghép kể các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong bài dạy sẽ được học sinh
có thêm cơ sở để nắm vững bản chất sự kiện, ghi nhớ sự kiện, có ấn tượng mạnh
và ngưỡng mộ về nhân vật. Qua đó, thực hiện tốt việc giáo dục tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, hình thành thói quen tư duy, ghi nhớ sự kiện thơng qua việc liên
tưởng tới các câu chuyện được kể, khắc sâu hơn nội dung lịch sử, vấn đề lịch sử.
5

download by :


2.3.2.1. Sử dụng các câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan
để trình bày diễn biến một cuộc chiến tranh, một cuộc khởi nghĩa, một
chiến dịch... từ đó rút ra bài học lịch sử. 
Khi các bài học có nội dung liên quan đến diễn biến của một cuộc khởi
nghĩa, cuộc kháng chiến, một chiến dịch… giáo viên sử dụng bản đồ, lược đồ hay
sa bàn… trong quá trình tường thuật sự kiện, có thể cho học sinh xem một đoạn
phim tư liệu lịch sử, giáo viên kết hợp kể những câu chuyện có liên quan đến sự
kiện đang trình bày, cho học sinh quan sát tranh ảnh. Điều này có tác dụng giúp
học sinh nhớ tốt hơn diễn biến, sau đó giáo viên có thể đặt một vài câu hỏi để các
em nêu lên những suy nghĩ của bản thân và rút ra được nội dung bài học hoặc
cho học sinh kể trên cơ sở đã chuẩn bị câu chuyện.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 20: “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến
của nhân dân ta từ năm 1973 đến năm 1984”. Có rất nhiều sự kiện nhưng giáo
viên chọn sự kiện tiêu biểu nhất đó là chiến thắng Cầu Giấy lần 1 năm 1873 .
Giáo viên sử dụng lược đồ trận Cầu Giấy kết hợp hình ảnh để tường thuật trận

phục kích làm nên chiến thắng Cầu Giấy vang dội của nhân dân ta
(21/12/1873).
Trận Cầu Giấy diễn ra vào ngày 21/12/1873 khi Gác-ni-ê đang bàn luận
với các sứ bộ An Nam thì viên thơng dịch vào báo rằng quân Cờ Đen (tức quân
Lưu Vĩnh Phúc) đang đánh thành ở cửa Tây, lính Pháp đang nã súng ra, buộc
quân Cờ Đen phải rút lui sau lùm tre. Gác-ni-ê liền gọi một tốn lính hơn một
chục người rồi giao cho ba người kéo một cỗ súng đại bác ra ngồi cổng thành
đuổi theo qn địch. Vì súng thì nặng nên khơng đi nhanh được, Gác-ni-ê ra lệnh
bỏ lại với vài tên lính. Chín tên lính cịn lại thì Gác-ni-ê chia thành ba nhóm. Hai
nhóm truy kích vịng ra hai phía tả hữu cịn Gác-ni-ê thì dẫn nhóm trực chỉ lối
giữa. Đuổi khoảng 1 km rưỡi thì Gác-ni-ê trượt chân ngã xuống ở chân dốc đê.
Một toán quân Cờ Đen ẩn đằng sau đê ùa ra, súng bắn tràn. Lúc đó Gác-ni-ê đã
bỏ xa hai người lính hộ vệ 100 mét. Một người trúng đạn chết; người kia cũng bị
thương. Gác-ni-ê gào to: "Hỡi những binh sĩ dũng cảm, hãy lại đây với tôi, tôi sẽ
đánh cho chúng một trận chí tử!" Sau đó Gác-ni-ê cố tự vệ dùng súng côn bắn
sáu phát. Quân Cờ Đen xông ra bao vây giết chết Gác-ni-ê và một binh sĩ khác
Bốn người đồng đội khác của Gác-ni-ê cũng bị giết trong cuộc truy kích này.

6

download by :


Lược đồ chiến trường Hà Nội

Gác-ni-ê tử trận tại Cầu Giấy (21/12/1873)
Qua đó học sinh nắm được chiến thắng Cầu Giấy có ý nghĩa lớn khiến cho
nhân dân ta vơ cùng phấn khích, ngược lại làm cho thực dân Pháp vơ cùng
hoang mang lo sợ. Tình hình đó mở ra một cơ hội để quân ta tấn công Pháp buộc
chúng rút khỏi bắc Kì. Song triều đình một lần nữa lại kí với Pháp Hiệp ước Giáp

Tuất năm 1874 chịu nhiều thiệt thòi . Từ đây, phong trào kháng chiến của nhân
dân vừa chống thực dân Pháp vừa chống phong kiến đầu hàng.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân
Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, phần II mục 4: “ Khởi nghĩa Yên Thế
(1884-1913)” giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh và kể :

7

download by :


Từ năm 1884 đến năm 1892. Tại vùng Yên Thế có hàng chục tốn qn
chống Pháp hoạt động riêng lẻ, đặt dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh khác nhau.
Thủ lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề Nắm đã lãnh đạo nghĩa quân đẩy lùi nhiều
trận càn quét của quân Pháp vào khu vực Cao Thượng, Hố Chuối. Đến năm 1891,
nghĩa quân làm chủ một vùng rộng lớn và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng
Thương (vùng thành phố Bắc Giang ngày nay). Trước những đợt tấn công, càn
quét mới của giặc, nghĩa quân phải rút dần lên vùng Bắc Yên Thế xây dựng, củng
cố hệ thống cơng sự phịng thủ. Tháng 3-1892, Pháp huy động khoảng 2 200
quân, gồm nhiều binh chủng ồ ạt tấn công vào căn cú của nghĩa quân. Lực lượng
nghĩa quân bị tổn thất nặng, nhiều người bị địch bắt và giết hại, một số phải ra
hàng. Đề Nắm bị sát hại vào tháng 4-1892.
Pháp đem quân đánh mãi mà không được nên năm 1894, Pháp phải xử
hồ với ơng, cho ơng cai quản 22 xã trong vùng YênThế, Ðề Thám lập căn cứ ở
Chợ Gị. Dân chúng gọi ơng là con “Hùm thiêng YênThế”. Nhưng hai năm sau thì
Ðề Thám lại nổi lên đánh Pháp, tới năm 1898 thì Pháp lại xin ký hồ ước
nhường cho ơng thêm nhiều quyền lợi nữa. Ðề Thám sống yên cho tới năm 1905
thì lại nổi dậy đánh Pháp một lần nữa. Năm 1908, Ðề Thám quyết định đánh một
cú lớn để chiếm thành Hà Nội nên đã âm mưu với nhiều người đầu bếp để bỏ
thuốc độc (bột datura) cho 200 lính Pháp giữ thành ăn, nhưng vì liều thuốc hơi

yếu nên lính Pháp chỉ bị lảo đảo chứ không chết, cuộc âm mưu bất thành. Ðầu
năm 1909, quân đội Pháp quyết định mở chiến dịch lớn để tấn công Ðề Thám
trong tận sào huyệt, Ðề Thám thua nên bỏ trốn vào rừng. Pháp ra giải thưởng
25.000 đồng cho ai bắt hay giết được Ðề Thám. Có ba tay lãng tử người Tàu vì
ham tiền nên tìm đến Ðề Thám để xin gia nhập rồi thừa lúc ban đêm ông ngủ mà
xúm đến chặt đầu ông đem về lãnh thưởng ngày 10 tháng 2 năm quý-sửu (18-31913), chấm dứt một cuộc kháng chiến trường kỳ trên một phần tư thế kỷ.

8

download by :


Lược đồ khởi nghĩa  Yên Thế
Qua đó cho học sinh thấy đây là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông
dân trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nói lên ý chí, sức mạnh bền
bỉ, dẻo dai của nông dân.
2.3.2.2. Sử dụng câu chuyện lịch sử để giải thích tên gọi một địa
danh, một vùng đất, bản chất của sự kiện lịch sử
Phần lịch sử Việt Nam lớp 11 có rất nhiều sự kiện, địa danh thường rất
khơ khan và khó nhớ. Để học sinh dễ nhớ và hứng thú hơn trong giờ học, giáo
viên cần có những mẫu chuyện sinh động, kết hợp xem tranh ảnh để tạo nên sự
hấp dẫn cho bài học hoặc qua phần học sinh tìm hiểu các em tự kể, sau đó giáo
viên đặt câu hỏi để các em nhận xét. Còn để cho học sinh nắm được bản chất của
sự kiện, tức là trả lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện
lịch sử rồi từ đó  nêu tình huống có vấn đề. 
Ví dụ 1: Khi dạy bài 20, lịch sử Việt Nam lớp 11 phần I mục 3: “Phong
trào kháng chiến ở Bắc Kì trong những năm 1973-1974”. Để học sinh hiểu được
tinh thần chiến đấu của quân dân Hà Nội khi thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ
nhất qua việc giải thích vì sao cửa Ơ Thanh Hà lại được đổi thành Ô Quan
Chưởng, giáo viên kể kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh:

Ô Quan Chưởng: Đây là một trong những cửa Ơ cịn sót lại của tồ thành
Thăng Long cũ, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia
Long thứ 3 được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay (cho HS
xem ảnh của Ô Quan Chưởng hoặc trình chiếu Powerpoint). Hiện ở cửa ơ cịn
ngun cửa chính và hai cửa phụ hai bên. Bên trên cửa lớn có ghi ba chữ Hán
9

download by :


“Đông Hà Môn” tức là cửa ô Đông Hà. Sở dĩ  cửa ơ cịn có tên gọi là Ơ Quan
Chưởng vì ngày 20.11.1873 Pháp đánh thành Hà Nội, khi đến cửa ô Đông
Hà  chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của 100 binh sĩ triều đình do một
viên quan Chưởng cơ chỉ huy anh dũng chặn giặc, kết cục viên Chưởng cơ cùng
toàn thể 100 binh sĩ đều anh dũng hy sinh. Để tỏ lòng ngưỡng mộ người chưởng
cơ anh dũng, nhân dân đổi tên cửa ơ là Ơ Quan Chưởng. Từ bấy đến nay người
ta vẫn chưa xác minh được tên gọi của vị chưởng cơ anh hùng. Vì vậy tên Ơ
Quan Chưởng vẫn cịn đó như một tồn nghi của lịch sử.

Ô Quan Chưởng - một trong năm cửa ô của  thành
Thăng Long xưa (Hà Nội nay).
Qua đó học sinh hiểu được sự ác liệt của chiến trường Hà Nội và việc đổi tên
cửa ơ thành Ơ Quan Chưởng là do nhân dân đổi để tỏ lòng ngưỡng mộ người
chưởng cơ anh dũng khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 22: “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất
của thực dân Pháp”. Để giải thích cho sự bần cùng hố của giai cấp nơng dân và
nguồn gốc của giai cấp công nhân Việt Nam khác so với giai cấp cơng nhân quốc
tế, giáo viên sử dụng hình ảnh giai cấp nông dân, công nhân Việt Nam thời Pháp
thuộc và kể:


10

download by :


Nơng dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc

Cơng nhân cạo mủ cao su
Để thu những món lãi khổng lồ từ việc kinh doanh cao su, tư bản Pháp đã
tìm mọi cách chiếm đoạt những vùng đất đai tốt nhất. Sau khi thâm nhập sâu
vào vùng đất mới, vùng đồng bào dân tộc, thực dân Pháp tiếp tục lập thêm các
đồn binh và tiến hành đàn áp, bắt dân về làm lao dịch, dùng mọi thủ đoạn từ lừa
11

download by :


bịp đến dùng biện pháp vũ lực cướp đoạt trắng trợn đất đai, nương rẫy, và núi
rừng, những vùng cư trú của đồng bào dân tộc để làm đồn điền hoặc lập ra các
trại cu ly cho các đồn điền.
 
Thời gian đầu, các công ty cao su chủ yếu sử dụng lao động nhàn rỗi trong
nông dân, những người “bán công, bán nông”. Lực lượng này tuy đông nhưng
thái độ và thời gian làm việc khơng ổn định. Vì họ là nông dân tại chỗ, những
ngày giáp hạt, thiếu ăn họ vào đồn điền làm công, đến mùa vụ họ trở về với
mảnh đất khu vườn của gia đình để sinh nhai. Đồn điền cao su càng phát triển,
nhu cầu về lao động càng trở nên cấp thiết. Để có nhiều nhân công, thực dân
pháp không bỏ qua một thủ đoạn man rợ nào. Desrousseaux trong một báo cáo
mật gởi Tồn quyền Đơng Dương đã viết: “Người nơng dân chỉ bằng lòng rời
khỏi làng, làm việc khi nào họ bị đói. Do đó, phải đi đến kết luận lạ lùng là

phương thuốc chữa cái khuẩn bách hiện tại (thiếu nhân cơng) là phải bần cùng
hóa nơng thơn, rút bỏ những khoản cấp phát, hạ giá nông sản …”. Nhưng tước
đoạt ruộng đất và chính sách thuế khóa nặng đối với nông dân Bắc Kỳ chưa tàn
bạo bằng việc phá đê nhằm dồn dân vào chỗ khơng cịn kế sinh nhai.
“Ơi! có một xứ nào trên trái đất mà người ta lại như ở đây, nỡ quyết định
một cách dễ dàng, trong phút chốc, cho một xứ phải chìm dưới 2 thước nước
suốt 5 tháng trường. Dân tộc nào, dù là dân tộc dã man nhất, dân tộc nào lại
dám quyết định như vậy”.
Qua câu chuyện trên học sinh hiểu được chính sách cai trị tàn bạo của
thực dân pháp, để giải quyết việc thiếu nhân công chúng đã từng bước bần cùng
hố người nơng dân khơng từ thủ đoạn nào và từ sự bần cùng đó người nơng
dân đã dần trở thành giai cấp công nhân; sau này, giai cấp công nông sẽ là lực
lượng cách mạng to lớn của dân tộc.
2.3.2.3. Sử dụng các câu chuyện lịch sử kết hợp ảnh chân dung để
tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử. 
Xuyên suốt trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 là quá trình kháng
chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Ở đó đã xuất hiện khơng
ít những anh hùng dân tộc như: Nguyễn Tri Phương, Tơn Thất Thuyết, Phan
Đình Phùng, Hồng Hoa Thám... và đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Những nhân vật này có vai trị rất lớn với lịch sử dân tộc do vậy trong dạy học
giáo viên không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các
nhân vật đó, sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về
nhân vật lịch sử một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng,
noi gương các anh hùng dân tộc. Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh
ảnh để tạo biểu tượng.
Ví dụ 1: Bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta từ năm 1973 đến năm 1884. Nhà nguyễn đầu hàng”. Để học sinh hiểu về

12


download by :


Hồng Diệu - một người trung qn ái quốc, có chính khí cao, sống mãi cùng đất
nước. Giáo viên kể:

Tổng đốc Hoàng Diệu
Tổng đốc Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu
Tĩnh Trai. Ơng sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1829) trong một gia đình có
truyền thống Nho giáo tại làng Xn Đài (Diên Phước, Quảng Nam).
Từ năm 1879 đến 1882, Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, quản lý vùng
trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và vùng phụ cận. Ông đã lãnh đạo quân dân
Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận
đầu hàng. Ngày 25/4 năm ấy (1882), thực dân Pháp cho quân tấn công thành
Hà Nội lần thứ hai. Trước sự uy hiếp bằng tàu to súng lớn của quân Pháp, Tổng
đốc Hồng Diệu khơng hề nao núng, vẫn quyết tâm giữ thành Hà Nội. Sự kháng
cự quyết liệt của quân dân thành Hà Nội khiến giặc thiệt hại nặng nề. Chúng
phải lui binh ra ngoài tầm bắn của quân ta để bảo toàn lực lượng. Lúc này kho
thuốc súng trong thành bất ngờ nổ sung do nội gián đốt phá, khiến khói bụi mịt
mù bao phủ khắp thành. Quân Pháp thừa cơ tấn công mạnh mẽ. Chỉ trong chốc
lát, cổng Tây thành Hà Nội bị phá tan tành. Biết khơng thể chống cự, tổng đốc
Hồng Diệu một mình quay về Hành cung soạn di biểu tạ tội với triều đình, rồi ra
Võ Miếu dùng dây quấn đầu tuẫn tiết, hy sinh theo thành. Trong bức di biểu gửi
nhà vua, tổng đốc Hồng Diệu viết:“Thành mất khơng sao cứu được, thật hổ với
nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện theo Nguyễn Tri
Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng…”.

13

download by :



Ví dụ 2: Bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam
trong những năm cuối thế kỷ XIX”, mục II “Các giai đoạn phát triển của phong
trào Cần Vương”. Ví dụ giáo viên tạo biểu tượng về Tơn Thất Thuyết và vua Hàm
Nghi. “Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29/3/1839 tại thôn Phú Mộng xã Luân Long
nay thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông chủ trương loại bỏ tất cả
những ơng vua và bọn quan lại có tư tưởng thân Pháp, đồng thời chuẩn bị các
điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến trong triều đình mà ơng dự đốn sẽ
bùng nổ. Triều thần, người nào chủ hoà đều bị coi là kẻ thù chung của nước Nam
và thù riêng của Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết là 1 tử tù của nước Pháp.
Nhưng đối với người Pháp chỉ có ốn với trọng mà khơng có khinh”. 

Tơn Thất Thuyết
Để giúp học sinh hiểu về vua Hàm Nghi - Một vị vua yêu nước đã ban
chiếu Cần Vương. Giáo viên kể đoạn:
“Vua Hàm Nghi tên thậy là Ưng Lịch lên ngôi 13 tuổi. Khi cuộc tấn công
quân Pháp của Tôn Thất Thuyết bị thất bại, ông cùng Tôn Thất Thuyết chạy lên
Sơn Phòng – Tân Sở (Quảng Trị) thảo chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân Phò
Vua cứu nước. Thực dân Pháp vô cùng lúng túng trước phong trào Cần Vương,
đãm tìm cách bắt cho được Vua Hàm Nghi để dẹp phong trào từ đầu não. Pháp
đã mua chuộc tên hầu cận vua là Trương Quang Ngọc bắt vua Hàm Nghi
đưa xuống thuyền về Huế. Ngày 14/11/1888, lúc đó vua Hàm Nghi mới 17 tuổi.
14

download by :


Pháp tìm mọi cách thuyết phục Hàm Nghi cơng tác, làm bù nhìn song đều bị nhà
vua thẳng thắn khước từ. Ơng nói “Tơi thân đã tù, nước đã mất, cịn giám nghĩ

đến cha mẹ, anh chị em ruột”. Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà vua
đi an trí tại Angieri (Thuộc đia của Pháp). Về sau người mới học và làm chủ
được ngơn ngữ Pháp. Trở thành một hoạ sĩ có tài. Dù vậy Vua vẫn giữ nguyên
tập tục dân tộc: Đầu búi bó, quần the áo dài Việt Nam. ơng sống ở Angiêri 47
năm. 
.

Vua Hàm Nghi
Ví dụ 3: Bài 24 Lịch sử 11: “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914-1918)” Mục 2: “Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn
Tất Thành (1911-1918)”. Cho học sinh thấy được quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc, giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh và
kể đoạn chuyện sau:
“..... Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi
kem. Sau ít hơm anh đột nhiêu hỏi: “Anh Lê, anh có yêu nước không? Tôi ngạc
nhiên và đáp “Tất nhiên là có chứ”. 
- Anh có thể giữ bí mật khơng?
- Có.
- Tơi muốn đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một
mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi

15

download by :


không? 
- Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
- Đây, tiền đây - Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay.

- Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi.
- Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành xuống tàu buôn Pháp mang tên La - tu
- sơ - Tơ - rê- vin.
Giáo viên lại tường thuật về ngày lao động trên tàu của Người để thấy một
phần gian khổ trong quá trình đi tìm đường cứu nước.
“Hằng ngày, Nguyễn Tất Thành phải cọ rửa gian bếp lớn trên tàu, sau đó
nhóm lị, rồi khn than, kéo những sọt rau quả, thịt cá, nước đá... từ dưới hầm
lên. Có lần trong lúc giơng bão, anh đang kéo một sọt nặng trên boong thì 1 đợt
sóng lớn chồm tới, cuốn lấy thân thể mảnh dẻ của anh, và xuýt lôi anh xuống
biển. Thật may mắn vào khoẳnh khắc cuối cùng thi anh bám được vào dây cáp
và nhờ đó thốt chết”. 

Nguyễn Ái Quốc
Tóm lại, trên đây là một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch
sử tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài học, truyền
đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng địi hỏi giáo viên phải có sự sáng
tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học.... 
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

16

download by :


Với sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh
trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện
lịch sử” năm học 2018 - 2019 tôi đã đạt được một số kết quả như sau:
- Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học lịch sử, không khí của lớp học
sôi nổi, thoải mái.

- Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em đã
biết chủ động khai thác kiến thức trong SGK, vận dụng những kiến thức đã học vào thực
tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra.
- Làm thay đổi cơ bản quan niệm và cách học bộ môn lịch sử của học sinh
trước đây là lệ thuộc vào sự truyền giảng kiến thức của giáo viên sang phương
pháp học mới lấy người học làm trung tâm. Qua đó, phát huy được tư duy độc
lập, khả năng quan sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ
năng, kĩ xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn.
Kết quả môn học lịch sử của ba lớp học sinh khối 11 trong học kì II khi tôi thực
hiện “phương pháp kể chuyện lịch sử” đã đạt được kết quả khả quan sau:
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
KÉM
LỚP SLHS
Sl %
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl %
11B1
35
1 2,5 15
43
17
49

02
5,5
0
11B2
29
0
10
34
16
56
03
10
0
11B3
30
0
08
27
20
67
02
6
0
Tuy kết quả trên đây còn khiêm tốn nhưng nó phần nào khẳng định hiệu
quả của việc áp dụng giải pháp vào q trình giảng dạy. Đồng thời tơi cũng rút
ra một số kinh nghiệm để góp phần sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử vào
dạy học lịch sử có hiệu quả hơn:
- Để phát huy tác dụng của hình thức kể chuyện trong các giờ học Lịch sử,
đòi hỏi người giáo viên phải tìm tịi, tích lũy tư liệu Lịch sử
- Những câu chuyện được kể cần có sự lựa chọn kĩ lưỡng, phục vụ yêu cầu

của bài học, có thể lựa chọn các tình tiết cho phù hợp, lược bớt những chi tiết
không cần thiết. Những câu chuyện đó phải phản ánh nội dung lịch sử có liên
quan đến bài học, tránh lạm dụng và phải phù hợp với quĩ thời gian trên lớp.
- Người giáo viên phải rèn luyện cho mình một ngơn ngữ kể chuyện sao
cho sinh động, hấp dẫn, có tác dụng lơi cuốn học sinh.
- Trong bài giảng, phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp với các
phương pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ và nhuần nhuyễn như
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan... để nâng cao tính tích cực của học
sinh, làm bài giảng sinh động có hiệu quả. 
Trên đây là một số giải pháp chủ quan của cá nhân tơi được đúc rút trong
q trình dạy học lịch sử, tuy nhiên trong q trình cơng tác, do hiểu biết của
bản thân còn hạn chế, vẫn còn nhiều thiếu sót trong việc áp dụng và thực hiện
giải pháp này, rất mong sự đóng góp, bổ sung của các đồng nghiệp để giải pháp
17

download by :


của bản thân được hoàn thiện hơn, áp dụng trong các tiết dạy ngày càng có hiệu
quả hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận:
Tóm lại, “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình
lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử” với tôi nhận
thấy đã đạt được những mục tiêu cơ bản yêu cầu đề ra của bộ môn là nhiệm vụ
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Với phương pháp dạy - học này, học sinh đã
hứng thú hơn, say mê hơn trong giờ học, phát huy được tính tích cực, chủ động
trong quá trình học tập. Qua đó, giúp các em nhận thức sâu sắc hơn về vị trí và
tầm quan trọng của bộ môn lịch sử trong trường THPT mà lâu nay các em chưa
thực sự quan tâm.

Có thể nói, đây là giải pháp khơng mới, khơng đặc biệt nhưng đơi khi
chúng ta có thể khơng để ý và khơng thấy hết tác dụng của nó khi áp dụng vào
bài dạy. Với kinh nghiệm bản thân tôi mạnh dạn đưa ra đây để đồng nghiệp
cùng tham khảo. Tôi hy vọng sẽ góp phần tích cực hơn nữa trong việc đổi mới
phương pháp dạy - học bộ môn lịch sử hiện nay ở Trung tâm GDNN - GDTX Như
Thanh, hạn chế số lượng học sinh yếu kém hằng năm, nâng cao chất lượng đại
trà, để học sinh hứng thú say mê hơn nữa với bộ môn lịch sử. Với bản thân mình,
tôi sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của việc thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm, đồng thời không ngừng đúc rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn
để đề tài này được triển khai rộng rãi trong các khối lớp một cách hiệu quả và có
chất
lượng.
- Kiến nghị
Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập của học
sinh trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể
chuyện lịch sử” tôi thấy rằng: Sử dụng các câu chuyện lịch sử trong dạy học lịch
sử là điều thực sự cần thiết, có ý nghĩa lớn trên cả ba phương diện giáo dục, giáo
dưỡng và phát triển tồn diện học sinh. Đồng thời tơi xin đề xuất một số ý kiến
sau: 
* Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa
Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn lịch sử ở trường các Trung tâm
GDNN - GDTX. Mua sắm nhiều hơn nữa tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học phù
hợp với yêu cầu của bộ môn để cung cấp cho các nhà trường trong tỉnh.
* Đối với Trung tâm
- Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi mang tính chất vừa chơi, vừa học, vừa
thể hiện sự hiểu biết, vừa tạo điều kiện để học sinh bộc lộ năng khiếu khác của
mình. 
* Đối với giáo viên
Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
18


download by :


nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
Phải thực sự tâm huyết, tận tình với công việc, yêu nghề, có tinh thần
trách nhiệm cao trước học sinh.
Trên đây là một vài đề xuất của bản thân tôi trong sáng kiến giáo dục này.
Rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của nhà trường, đồng nghiệp để
sáng kiến đạt hiệu quả. 
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯƠNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, khơng sao
chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT SKKN

Vũ Thị Tuyết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các triều đại phong kiến Việt Nam , Quỳnh Cư, Đỗ Đức Huy, NXB Thanh
niên, 2017.
2. Cao su thiên nhiên hôm qua hôm nay và ngày mai, tập san cao su Việt
Nam số 58-59 tháng 9,10 -1977, Đặng Văn Vinh.
3. Giai cấp công nhân Việt Nam , Trần Văn Giàu, NXB Sự thật, Hà Nội, 1979
4. Giới thiệu giáo án lịch sử 11, Nguyễn Hải Châu (chủ biên), NXB Hà Nội,
2007.
5. Giáo trình Phương pháp dạy học Lịch sử - Phan Ngọc Liên chủ biên ,NXB
Giáo dục, 2005.
6. Hồ Chí Minh những tên gọi đi cùng năm tháng - Bá Ngọc, NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội, 2003. 
7. Thiết kế bài giảng lịch sử trung học phổ thông , Giáo sư Phan Ngọc Liên
(chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Tình hình cơng nhân Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, trong sách “Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam” ,
Dương Kinh Quốc, NXB Lao động, Hà Nội, 1974.

19

download by :


PHỤ LỤC
Giới thiệu những câu chuyện lịch sử trong chương trình lịch sử Việt
Nam lớp 11 THPT.
1. Cuộc đời anh hùng và cái chết lẫm liệt của tướng Nguyễn Tri Phương
Đêm ngày 19, rạng sáng 20/11/1873, quân Pháp đánh úp thành Hà Nội.
Chúng chiếm vịng phịng thủ bên ngồi của hai cửa phía Nam, vượt qua cầu
trước khi quân trú phòng kịp bắn xuống.
Pháo từ các thuyền cũng bắn lên, binh lính phịng thủ nhà Nguyễn khơng
quen với đạn pháo, bỏ chạy tán loạn khỏi thành theo cửa Tây. Cùng lúc đó, quân
Pháp cũng bắn vỡ cửa Nam. Chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ tam tài lên
vọng lâu thành Hà Nội.
Trong trận chiến chớp nhống này, phị mã Nguyễn Lâm (con trai Nguyễn
Tri Phương) đã chiến đấu anh dũng đến khi hy sinh ngay trên chiến trường.
Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và rơi vào tay giặc.
Quân Pháp tìm cách mua chuộc ơng. Chúng biết rằng nếu Nguyễn Tri
Phương quy hàng, người Pháp sẽ dễ dàng đạt được mục đích chiếm nước Nam,
sớm hồn thành âm mưu biến nước ta thành thuộc địa.
Nguyễn Tri Phương không màng đến mạng sống, đã từ chối thẳng thừng

yêu cầu chữa trị vết thương, tuyệt thực tuẫn tiết để khẳng định tinh thần bất
khuất của người Việt.
20

download by :


Trước khi qua đời, ơng để lại câu nói đi vào sử sách: "Bây giờ nếu ta chỉ lay
lắt mà sống, sao bằng ung dung chết vì việc nghĩa".
2. Trận Cầu Giấy Lần 2 Năm 1883
4 giờ sáng ngày 19 tháng 5, lực lượng Pháp do Berthe de Villers chỉ huy bắt
đầu xuất phát, Henri Rivière cũng có mặt trong đội quân này, cùng lúc một nhóm
quân Pháp do đại úy Jacquin chỉ huy được lệnh canh chừng cho cuộc hành quân.
Tới 6 giờ sáng thì trận Cầu Giấy bắt đầu khi các cuộc đụng độ giữa hai bên xảy
ra và quân Pháp chiếm được Cầu Giấy. Được thông báo trước về kế hoạch của
người Pháp, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục sẵn với đại bác ở khu vực
làng Hạ Yên Khê (còn gọi là Hạ Yên Quyết) bên trái Cầu Giấy Khi qn Pháp tiến
gần làng thì lính Cờ đen bắt đầu nổ súng làm Berthe de Villers thiệt mạng. Nhận
thấy đối phương với lực lượng đơng đảo có dấu hiệu chặn đường rút lui của
mình, Rivière ra lệnh cho quân Pháp vừa đánh vừa lùi, một loạt lính Pháp cùng
hai sĩ quan Brisis và Clerc bị giết, một số khác bị thương. Trong khi đang lùi
quân thì một khẩu đại bác của quân Pháp bị rơi xuống ruộng lúa, Rivière đã ra
lệnh cho binh sĩ cứu pháo vì nếu pháo lọt tay quân Cờ đen sẽ gây nhiều hậu hoạn
sau này. Tuy nhiên quân Cờ đen đã tập trung hỏa lực nổ súng vào đám đông binh
sĩ Pháp đang cứu pháo khiến Rivière trúng đạn tử vong cùng viên đại úy Jacquin
và một lính thủy có tên Moulun. Đến 9 giờ 30 thì tàn quân Pháp rút về tới thành
Hà Nội trong sự truy đuổi ráo riết của quân Cờ đen. Trận Cầu Giấy lần 2 kết thúc.
3. Chuyện kể về Phan Đình Phùng “Hồng Cao Khải trao thư khun
hàng cho Phan Đình Phùng”
Cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, Hồng Cao Khải viết thư rồi sai chính người

nội đệ (em vợ) mình vừa là ông anh con nhà bác của cụ Phan là Phan Văn Mân
đem lên núi Vụ Quang. Không ai khác hơn ông này mà dám lĩnh mệnh đi sứ, nhất
là đi sứ chiêu hàng, vì nếu người khác chắc là nghĩa binh làm thịt.
Mặc lòng là bà con thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớn gian nan nguy
hiểm mới vô đến đại doanh. Mới thấy ông đường huynh thị mặt vơ, cụ Phan cả
cười và nói:
- Anh đi làm thuyết khách cho Hồng Cao Khải khó nhọc lắm hè!
Vì cụ đã được tin báo trước cho biết.
Cụ xem thư rồi thở dài:
- Không dè người khuyên nhủ tơi ra hàng là cố nhân Hồng Cao. Tơi thề
quyết làm việc tôi làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng khơng làm sao cho
tơi thay lịng đổi chí được, anh về nói giùm cho Hồng Cao biết như thế. Nếu tôi
không làm xong được công việc vua uỷ thác, dân trông mong và không rửa hận
cho khô cốt của tổ tiên ở dưới đất, thì chỉ có một cách là chết theo hồi bão tâm
chí mình mà thôi.
Rồi tức thời, cụ cầm bút viết thư trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem
về. Lúc anh em từ biệt, cụ ân cần dặn với:
21

download by :


- Cũng may phước cho người đem thư chiêu hàng chính là anh, nếu là ai
khác thì bộ hạ của tơi chắc làm tương mắm để gửi biếu Hồng Cao nếm thử. Lần
sau y có sai đi, anh đừng lãnh mệnh nữa nghe!
4. Câu chuyện về phan Bội Châu và cậu bé đạp xích lơ.
Trong một lần tới Nhật Bản, Phan Bội Châu phải th xích lơ để tới thăm
một người bạn cũ. Giá cả đã thỏa thuận từ đầu nhưng do địa chỉ người bạn đó
khá khó tìm nên cậu bé đạp xích lơ phải chạy lịng vịng mất cả buổi mới có thể
đưa Phan Bội Châu tới được nhà người bạn. Phan Bội Châu thấy rất thương cậu

bé và ngỏ ý trả thêm tiền nhưng cậu bé đã từ chối và nói rằng: “Tơi khơng thể
nhận thêm tiền của ơng được, vì ơng là người ngoại quốc, nếu tơi nhận thêm tiền
của ơng thì ơng sẽ coi thường đất nước tơi.” Nói rồi cậu bé cúi đầu chào Phan
Bội Châu rồi nhẹ nhàng quay xe đi. Phan Bội Châu mỉm cười nhìn theo cậu bé rồi
tự nhủ: “Một đất nước mà ngay cả cậu bé đạp xích lơ cũng có thể suy nghĩ được
như vậy thì khơng giàu, khơng mạnh mới là lạ. Mình phải làm sao để mỗi người
dân nước mình cũng suy nghĩ được như thế nhỉ?”

22

download by :



×