TÀI LIỆU LỊCH SỬ VIỆT NAM.
TỔNG HỢP CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ LỚP 5
BẬC TIỂU HỌC.
HẢI DƯƠNG – NĂM 2014
LỜI NÓI ĐẦU
Theo chỉ đạo của các cấp ngành Giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh là nhiệm vụ của các
trường phổ thông. Để có chất lượng giáo dục toàn diện thì
việc nâng cao chất lượng đại trà là vô cùng quan trọng. Đối
với học sinh lớp 4, lớp 5 cấp tiểu học, chất lượng dạy học
trọng tâm là 4 môn: Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử&Địa
lí.
Chính vì thế ngay từ đầu năm học, Tổ chuyên môn 4+5
kết hợp với Ban Giám hiệu các nhà trường lập kế hoạch bồi
dưỡng học sinh trọng tâm là 4 môn học nói trên. Để nâng cao
chất lượng dạy học 4 môn văn hóa trên giáo viên cần đổi mới
phương pháp dạy học, tích cực hóa hoạt động của học sinh,
tăng cường thiết bị dạy học trực quan và cung cấp các tài liệu
tham khảo cụ thể cần thiết cho những bài học khó, đặc biệt là
môn Lịch sử. Môn Lịch sử rất khó dạy và học sinh cũng gặp
rất nhiều khó khăn khi tiếp thu bài và tìm hiểu v v
Để có tài liệu thiết thực giúp học sinh tiếp thu nhanh hơn
môn Lịch sử lớp 5, góp phần năng chất lượng toàn diện và
giúp các em hiểu sâu hơn về lịch sử vẻ vang của dân tộc, dựa
vào chương trình học lớp 5 cấp tiểu học, là Tổ trưởng chuyên
môn, tôi đã tập hợp tài liệu tham khảo và sắp xếp kiến thức
theo hệ thống và đã được Ban giám hiệu duyệt đưa vào thực
hiện nhiều năm có kết quả tốt.
Trân trọng giới thiệu với thầy giáo và cô giáo cùng quý
vị bạn đọc tham khảo và phát triển.
Chân thành cảm ơn!
Bài 1- Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định
Chân dung Trương Định.
Trương Định ( 1820 - 1864) hay Trương Công Định hoặc
Trương Đăng Định, là một lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp
giai đoạn 1859-1864, thời vua Tự Đức.
Mục lục
• 1 Tiểu sử
• 2 Sự nghiệp
• 3 Tuyên bố
• 4 Nhận xét
• 5 Gia quyến
o 5.1 Người vợ chính
o 5.2 Người vợ thứ
• 6 Lăng mộ
• 7 Chú thích
• 8 Liên kết ngoài
Tiểu sử
Trương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng
Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi).
Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở
Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất,
ông ngụ ngay nơi cha đóng quân; và sau nữa, ông kết hôn với
bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện
Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay).
Năm 1854, nhờ sự trợ giúp của bên vợ, Trương Định xuất tiền
ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận (Gò Công), vì
thế, ông được nhà Nguyễn phong chức Phó quản cơ.
Bản tiểu sử Trương Định hiện treo tại đền thờ ông ở Gò Công
ghi (trích):
Thời Tự Đức, Trương Định chiêu mộ dân nghèo, khai
hoang, lập đồn điền ở Tân Hòa, được bổ làm Quản cơ.
Tướng mạo ông khôi ngô, giỏi võ nghệ, thông binh thư,
thi đậu cử nhân võ. Ông từng giữ chức Chánh quản cơ
chỉ huy 6 liên đội, phòng giữ Đại đồn Chí Hòa chống
Pháp
Sự nghiệp
Bên trong Đền thờ Trương Định.
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định,
ông đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều chống trả và đã
từng thắng nhiều trận ở Cây Mai, Thị Nghè
Quốc sử triều Nguyễn chép:
Trương Định mộ binh dõng đông lắm, thường cự đánh
binh Pháp. Việc ấy tâu lên, Ngài [vua Tự Đức] cho thăng
Quản cơ, rồi lại cho lãnh Phó lãnh binh
[1]
.
Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương
Định đem quân đồn điền của mình phối hợp với binh của
tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa.
Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, cùng Lưu
Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ
vùng Gia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, triển khai tác chiến
trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn,
Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
Đầu năm 1862 Pháp chiếm Biên Hòa, Trương Định đứng lên
mộ nghĩa, người hưởng ứng theo hơn vạn người
[2]
.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình nhà Nguyễn ký kết hòa
ước với Pháp. Cũng theo sử nhà Nguyễn thì:
Tháng 7 năm 1862 từ khi đã định hòa ước rồi, Ngài [Tự
Đức] truyền dụ Nam Kỳ nghỉ binh và đòi Trương Định ra
Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường,
Biên Hòa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, tôn
Trương Định làm Đại đầu mục, xin cho ra đánh, Đình
thần nghị rằng: "bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà
Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh Giản
hiểu dụ". Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về
cung chức, bị cách chức hàm.
Trên thực tế, ông đã từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là
Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh bãi binh do Phan Thanh
Giản truyền vào và rút quân về Gò Công, được nhân dân tôn là
Bình Tây Đại Nguyên Soái, lấy nơi này làm bản doanh, xây
dựng các căn cứ địa kháng chiến.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, Trương Định đã ra lệnh tấn công
các vị trí của quân Pháp ở cả ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đẩy
Pháp vào tình thế lúng túng, bị động. Tháng 2 năm 1863, nhờ
có viện binh, Pháp phản công tại Biên Hòa, Chợ Lớn, bao vây
Gò Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp đánh chiếm thành
trì, ông thoát khỏi vòng vây và kéo quân về Biên Hòa.
Tháng 9 năm 1863, tướng Lagrandière sang thay Bonard, mở
cuộc càn quét thứ hai, bắt được vợ con và một số tùy tùng của
Trương Định.
Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn
đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh "
Đám lá tối trời
[3]
thất thủ, Trương Định bị trọng thương (gãy
xương sống)
[4]
và ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò
Công), để bảo toàn khí tiết vào sáng ngày 20 tháng 8 năm
1864, tức ngày 18 tháng 7 năm Giáp Tý.
Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông
phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung
(Quảng Ngãi).
Con ông là Trương Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục
chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Hay tin Trương Định hy sinh, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã
làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông. Trích giới thiệu một
bài:
Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỉ
Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Tuyên bố
Tuyên bố của Trương Định trong thư trả lời thư dụ hàng của
tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:
“ Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng
chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta. ”
Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý
ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức
ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:
“ Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu
chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể
làm gì được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào
hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối
và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp ”
“ Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi ta
thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ
khí cho quân lính ta ”
Hịch của Trương Định (tháng 8 năm 1864):
“ Lòng dân đã muốn ta lên làm nguyên nhung ba tỉnh, ta
trông vào lòng dân yêu thương không phai lạt của mọi
người đối với ta. Thế là xong bất dung tha giặc cướp. ”
Mấy đoạn trích trên, được ghi trang trọng tại đền thờ Trương
Định, ở ngay trung tâm Gò Công.
Nhận xét
• Trung úy Léopold Pallu (1828-1891), sĩ quan tùy viên
Tổng hành dinh của Phó đề đốc Charner, và là người chỉ
huy đội thủy quân lục chiến đánh vào Đại đồn Chí Hòa,
thành Định Tường (Mỹ Tho), viết:
Lúc bấy giờ (tháng 6 năm 1961) có một người An Nam
rất cương quyết và hào hùng tên là Trương Dinh
[5]
cho
biết sẽ dấy loạn khởi nghĩa trong toàn xứ Là một trong
số những người nhiều nghị lực nhất, anh ta đánh lừa là
đã chết trong trận Gò Công, nhưng sau đó lại xuất hiện
và chiến đấu trong hết mùa mưa Mãi về sau này, khi ta
đã chiếm Biên Hòa, tên Trương Dinh tung hoành tàn phá
hết hai vùng tứ giác của ta
[6]
• Trong sách Sài Gòn xưa-Ấn tương 300 năm của Sơn Nam
có đoạn:
Yêu nước đậm đà, khảng khái trước nghĩa lớn, đứng
hàng đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ vẫn là
Trương Định. Mang ơn vua, giữ đất cho vua (Gò Công là
nơi phát tích của Phạm Đăng Hưng và con gái là bà Từ
Dũ), nhưng chống lệnh khi cắt đất cho Pháp. Trương
Định và dân đồn điền lợi dụng địa hình rừng ngập mặn
Gò Công để khởi nghĩa, đắp đập, xây lũy. Giặc phải vất
vả, tổ chức nội ứng mới giết được ông, qua nhiều cuộc
hành quân cấp tướng, bố trí súng lớn trên thuyền nhỏ, để
di chuyển nơi nước cạn. Địch phải đem xác ông phơi
trước chợ để làm chứng cớ và chôn ông giữa chợ, nếu
chôn nơi hẻo lánh, e nghĩa quân lập đàn tế cờ, phục thù
cho chủ tướng. Cụ Đồ Chiểu đã đem tất cả tâm huyết viết
bài văn tế ông và 10 bài liên hoàn
[7]
.
Gia quyến
Người vợ chính
Lê Thị Thưởng (?-?) là con gái một hào phú ở huyện Tân
Hòa (Gò Công). Bà và Trương Định kết hôn năm nào không
rõ, nhưng theo sử sách thì vào năm 1854, nhờ sự trợ giúp
của gia đình bên vợ, Trương Định xuất tiền của, chiêu mộ dân
nghèo lập đồn điền Gia Thuận (Gò Công.)
Sau khi chồng và con mất vì việc nước, Đại Nam chính biên
liệt truyện chép chuyện của bà như sau:
(Trương Định) sau vì thất lợi mà mất, con ông là
(Trương) Tuệ cũng chết vì việc quân, vợ (Trương) Định
là Lê Thị Thưởng vì không nơi nương tựa nên về quê
quán (Quảng Ngãi, quê chồng) làm ăn.
Năm (Tự Đức) thứ 27 (1874), quan tỉnh Quảng Ngãi tâu
rằng, (Trương) Định là người có nghĩa khí rất đáng khen
mà nay vợ của (Trương) Định lại là người nghèo khổ, rất
đáng thương. Vậy, xin cấp dưỡng suốt đời cho (vợ
Trương Định) mỗi tháng 20 quan và 2 phương gạo
Năm (Tự Đức) thứ 34 (tức năm 1881), lại cấp thêm cho
người vợ (của Trương Định) mỗi tháng 10 quan, đồng
thời, sai xã ấy phải thỉnh thoảng đến thăm. Khi bà mất,
(vua ban) cho 100 quan tiền (để mai táng).
[9]
Người vợ thứ
Trần Thị Sanh (? - ?) là em con cô của thái hậu Từ Dụ
[10]
.
Trước khi về làm vợ thứ Trương Định, bà từng có một đời
chồng là ông Dương Tấn Bổn và một cô con gái tên Dương
Thị Hương
[11]
. Ông Bổn mất sớm
[12]
, tình nghĩa vợ chồng đứt
đoạn, bà Sanh quyết chí lo chuyện làm ăn và trở thành một
trong những người giàu có ở xứ Gò Công.
Giàu có, bà Sanh dùng tiền mua lúa gạo, nhờ Trương Định
đem cứu tế dân, và còn đưa tiền cho ông Định quy tụ dân đi
khai khẩn đất đai. Sau khi chồng chết được 2 năm, bà về làm
hầu thiếp cho Trương Định
[12]
, nên dân gian mới gọi là bà Hầu.
Gò Công có bốn tổng giàu,
Mà riêng có một bà Hầu giàu to.
[13]
Khi Trương Định phất cờ đánh Pháp, bà Sanh (khi này đã trở
thành vợ thứ Trương Định) lo việc rèn vũ khí, tích trữ lương
thực cho nghĩa quân. Khi chồng mất, bà đem xác ông về chôn
tại Gò Công.
Lăng mộ
Mộ và Đền thờ Trương Định.
Mộ Trương định ban đầu (năm 1864) được làm bằng hồ ô
dước và trên bia đá có khắc mấy chữ: Đại Nam - An Hà lãnh
binh kiêm Bình Tây Đại tướng quân Trương công húy định chi
mộ. Nhà cầm quyền Pháp bắt đục bỏ hàng chữ Bình Tây Đại
tướng quân và phạt bà Sanh 10.000 quan tiền vì tội lập bia trái
phép.
Năm 1874, bà Sanh làm đơn xin tu sửa mộ cho chồng. Lần
này mộ Trương Định được xây bằng đá hoa cương, có 3 bức
hoành phi và 6 trụ đá ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông.
Một lần nữa, các hoành phi và trụ đá bị Pháp ra lệnh đục bỏ
[14]
Huỳnh Minh cho biết: Trải nhiều năm Pháp thuộc, mộ Trương
Định trở thành hoang phế. Sau có bà Huỳnh Thị Điệu, còn gọi
là bà Phủ Hải
[15]
, cho sửa chữa lại. Năm 1956, được sửa sang
lần nữa
[16]
Từ năm 1972 đến năm 1973 xây thêm đền thờ. Lăng mộ và
đền thờ Trương Định đã được Bộ Văn hóa - Thông tin Việt
Nam công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia ngày 6
tháng 12 năm 1989.
Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 và 20 tháng
8 dương lịch hàng năm.
Bài 3: Tôn Thất Thuyết
Tôn Thất Thuyết
Tôn Thất Thuyết ( 1839 – 1913) là Phụ chính đại thần của
nhà Nguyễn. Ông là một trong những quan nhà Nguyễn chống
Pháp tiêu biểu nhất, cùng vua Hàm Nghi phát động phong trào
Cần Vương.
Mục lục
• 1 Xuất thân
• 2 Sự nghiệp
o 2.1 Thời vua Tự Đức
o 2.2 Thời vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà
o 2.3 Thời vua Hàm Nghi
2.3.1 Phong trào Cần Vương
o 2.4 Hoạt động tại Trung Quốc
• 3 Những mất mát trong gia đình
• 4 Đánh giá
• 5 Chú thích
• 6 Tham khảo
• 7 Liên kết ngoài
Xuất thân
Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29 tháng 3 năm Kỷ Hợi, tức 12
tháng 5 năm 1839
[1]
tại làng Phú Mộng, bên bờ sông Bạch Yến
cạnh Kinh thành Thuận Hóa, nay thuộc thôn Phú Mộng,
phường Kim Long, thành phố Huế. Ông là con thứ hai của Đề
đốc Tôn Thất Đính và bà Văn Thị Thu, cũng là cháu 5 đời của
chúa Hiền vương Nguyễn Phúc Tần.
Sự nghiệp
Thời vua Tự Đức
Năm 30 tuổi (1869), Tôn Thất Thuyết giữ chức Án sát tỉnh
Hải Dương. Đến tháng 7 năm 1870, được sung làm Biện lý Bộ
hộ rồi sau đó (tháng 11) chuyển sang chức Tán tương giúp
Tổng thống quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm "dẹp loạn" ở các
tỉnh phía Bắc. Sau chiến dịch này, Tôn Thất thuyết được
phong chức "Quang lộc tự khanh" và làm Tán lý quân thứ
Thái Nguyên. Kể từ đây, ông chuyên hoạt động quân sự và nổi
tiếng dần qua các cuộc giao tranh với những cánh quân chống
lại triều đình Huế.
Tháng 12 năm 1870, ông chỉ huy đánh dẹp nhóm Đặng Chí
Hùng ở Thái Nguyên.
Tháng 3 năm 1872 ông cùng Trương Văn Để đánh tan quân
Tàu Ô ở Hải Dương, giết chết Hoàng Tề.
Tháng 8 năm 1872, ông đánh thắng toán giặc Khách ở Quảng
Yên.
Tháng 12 năm 1873, ông cùng Hoàng Tá Viêm phục binh tại
Cầu Giấy, Hà Nội giết chết viên chỉ huy quân sự trong đợt
Pháp đánh miền Bắc lần thứ nhất là đại úy Francis Garnier.
Tháng 7 năm 1874, ông cùng Hoàng Tá Viêm đàn áp 2 cuộc
nổi dậy của hai sĩ phu Trần Tấn và Đặng Như Mai.
Tháng 3 năm 1875, ông dập tắt được khởi nghĩa ở Cổ Loa,
Đông Anh, bắt chém thủ lĩnh trận.
Tháng 6 năm 1875, bức hàng nhóm Dương Đình Tín ở Thái
Nguyên.
Tháng 9 năm 1875, bắt sống được tướng quân Cờ Vàng là
Hoàng Sùng Anh ở Thái Nguyên
Với hàng loạt công lao như vậy nên Tôn Thất thuyết được vua
Tự Đức cho thăng tiến nhanh. Tháng 3 năm 1872, ông được
bổ làm Bố chính tỉnh Hải Dương. Năm 1873 làm Tham tán
Đại thần hàm Thị lang Bộ binh, rồi lên thự Tham tri Bộ binh.
Tháng 3 năm 1874 vẫn là Tham tán Đại thần nhưng Tôn Thất
Thuyết được phong là Hữu tham tri Bộ binh, tước Vệ Chính
Nam. Tháng 4 năm 1874, ông giữ chức Tuần Vũ tỉnh Sơn Tây
kiêm Tham tán Đại thần. Tháng 3 năm 1875 ông là thự Tổng
đốc Ninh-Thái kiêm Tổng đốc các việc quân Ninh-Thái-Lạng-
Bằng. Đến tháng 10 năm 1875 lại được bổ làm Hiệp đốc quân
vụ Đại thần, chức tước gần ngang với Tổng thống quân vụ Đại
thần Hoàng Kế Viêm. Với thắng lợi vào năm 1881, Tôn Thất
Thuyết được phong chức Thượng thư Bộ binh và sang tháng 2
năm 1882 ông kiêm thêm chức Hải phòng sứ Kinh thành Huế.
Năm 1883, Tôn Thất Thuyết chính lãnh chức Thượng thư Bộ
binh và sau đó được cử vào Cơ Mật Viện vào tháng 6 năm
1883.
Vào tháng 10 năm 1875, khi ông đang làm Tổng đốc Ninh-
Thái, phái viên Pháp ở Hà Nội đã đề nghị triều đình Huế phải
thay người, vua Tự Đức đã bổ ông đi chỗ khác.
Từ năm 1876, Tôn Thất Thuyết thường lâm bệnh, muốn thôi
đảm đương việc quân và dâng sớ lên vua Tự Đức bày tỏ ý
muốn đi tu
[2]
.
Ngày 19 tháng 7 năm 1883, Tự Đức đã triệu tập một số đại để
chứng kiến việc ký di chúc truyền ngôi cho Hoàng tử Ưng
Chân, đồng thời phong cho Tôn Thất Thuyết làm Đệ tam Phụ
chính đại thần sau Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường để
giúp cho Ưng Chân kế vị ngôi vua vào tháng 7 năm 1883.
Thời vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà
Với chức vụ Phụ chính đại thần, cùng Nguyễn Văn Tường,
Tôn Thất Thuyết đã nhiều lần làm việc phế lập. Đầu tiên là
việc phế bỏ Dục Đức, đưa Hiệp Hòa lên ngôi.
Tàu chiến Pháp tấn công cửa Thuận An 1883
Tháng 8 năm 1883, Tôn Thất Thuyết được thăng chức Điện
tiền tướng quân, Hiệp biện Đại học sỹ, tước Vệ Chính Bá.
Nhưng do ông đã phản đối Hiệp ước Harmand ký ngày 25
tháng 8 năm 1883, nên đã bị Hiệp Hoà đổi sang làm Thượng
thư Bộ Lễ rồi Thượng thư Bộ Lại. Do không chấp nhận chủ
trương đầu hàng Pháp nên ông đã tổ chức đảo chính vào cuối
tháng 11 năm 1883, phế bỏ Hiệp Hòa đưa Kiến Phúc lên ngôi
và về giữ lại chức Thượng thư Bộ Binh. Trong triều đình Huế
tất cả những quan từng có quan hệ mật thiết với Pháp đều bị
ông tìm cách trừ khử. Ông thâu tóm quyền lực trong tay để
chuẩn bị cho công cuộc chống Pháp sắp tới. Việc đưa Hàm
Nghi lên ngôi vào đầu tháng 8 năm 1884, sau cái chết của vua
Kiến Phúc, cũng xuất phát từ ý đồ của Tôn Thất Thuyết nhằm
hướng triều đình theo chủ trương chống Pháp.
Từ lúc về Huế tham dự triều chính, đặc biệt là sau ngày vua
Tự Đức mất, Tôn Thất Thuyết đã làm hết sức mình để biến
triều đình Huế thành trung tâm đầu não của cuộc kháng Pháp.
Song lực yếu thế cô, Tôn Thất Thuyết phải chịu cảnh đắng cay
khi Hiệp Hòa ký Hòa ước Quý Mùi (25 tháng 8 năm 1883) và
phải chấp nhận xuôi tay khi Kiến Phúc ký Hòa ước Giáp Thân
(6 tháng 6 năm 1884). Đến lúc đưa Hàm Nghi lên ngôi (2
tháng 8 năm 1884), Tôn Thất Thuyết mới thực sự nắm được
triều đình đã mất gần hết quyền lực và ông cố hết sức để đưa
nó thoát khỏi những ràng buộc mà người Pháp đang thiết lập.
Người Pháp cũng đã công nhận "triều đình An Nam đã biểu
dương một thái độ không hèn" và "thái độ ấy do Hội đồng
Phụ chính đề ra"
[3]
và Tôn Thất Thuyết trở thành đối tượng
cần thanh toán hàng đầu của người Pháp.
Thời vua Hàm Nghi
Dưới thời vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết thực sự trở thành
cái gai mà người Pháp muốn nhổ ngay lập tức. Đầu tháng 1
năm 1884, Tôn Thất Thuyết lập đội quân Phấn Nghĩa và giao
cho Trần Xuân Soạn trực tiếp chỉ huy để sẵn sàng ứng phó khi
có sự cố. Trong tình thế luôn bị thực dân Pháp muốn loại bỏ,
ông đã ra tay trước để giành thế chủ động bằng cuộc tấn công
Pháp tại Huế vào đêm 4 tháng 7 năm 1885, khi quân Pháp
đang mở tiệc chiêu đãi thì Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp
vào trại lính và của Tòa Khâm sứ Pháp, nhưng đã thất bại. Sau
đó ông đã đưa Hàm Nghi ra Sơn Phòng Quảng Trị, thay mặt
vua hạ chiếu Cần Vương. Hai con trai của Tôn Thất Thuyết là
Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cũng đều là chỉ huy trong
phong trào Cần Vương. Người Pháp treo giải 2000 lạng bạc
cho ai nộp đầu Tôn Thất Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi
thì được thưởng 500 lạng bạc.
Phong trào Cần Vương
Bài chi tiết: Trận Kinh thành Huế 1885
Mặc cho ba bà Thái hậu và nhiều quan lại kêu gọi quay về
triều đình, Tôn Thất Thuyết vẫn tuyên bố: "Về Huế là tự mình
đưa chân vào cho ngục thất, mà người cầm chìa khoá là quân
Pháp. Thừa nhận Hiệp ước 1884 là dâng nước Nam cho kẻ
địch. Đành rằng hoà bình là quý, nhưng không lo khôi phục sẽ
mang tiếng là đã bỏ giang sơn của tiền triều dày công gây
dựng và còn có tội với hậu thế"
[4]
Sau khi giúp vua Hàm Nghi xây dựng căn cứ lãnh đạo phong
trào kháng Pháp, nhận thấy tương quan lực lượng khá chênh
lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã để cho hai
con trai của mình là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm tiếp tục
duy trì "triều đình Hàm Nghi" chống Pháp, còn mình cùng với
Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm đường cầu viện, vượt
Hà Tĩnh rồi Nghệ An, đến tháng 3 năm 1886 ông tới Thanh
Hoá. Ông dừng chân tại Cẩm Thuỷ một thời gian và cùng
Trần Xuân Soạn và em ruột Tôn Thất Hàm thảo luận về kế
hoạch khởi nghĩa rồi phân Soạn ở lại lo phát triển phong trào.
Sau đó ông đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân hội
kiến Cầm Bá Thước và ở lại đó cho đến ngày 22 tháng 4 năm
1886. Từ đấy ông qua thượng lưu sông Mã, đến châu Quan
Hóa để gặp tù trưởng người Mường là Hà Văn Mao. Điểm
dừng chân lâu nhất của ông là vào tháng 6 năm 1886 tại nhà tù
trưởng người Thái là Đèo Văn Trị, bởi lẽ lúc này ông mắc
bệnh rất nặng, không thể tiếp tục đi được. Ông tiếp tục lên
đường đi Vân Nam và đến Quảng Đông vào tháng 2 năm
1887. Ông chủ trương cầu viện nhà Thanh giúp Việt Nam
đánh thực dân Pháp. Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt vì
thuộc hạ Trương Quang Ngọc phản bội, Tôn Thất Thiệp và
Tôn Thất Đạm đều chết trong lần đó. Nhưng cuộc cầu viện bất
thành, ông đành tìm các bạn lưu vong như Nguyễn Thiện
Thuật, cố gắng liên lạc với phong trào trong nước.
Hoạt động tại Trung Quốc
Lúc này tại Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị dập tắt,
căn cứ của Trần Xuân Soạn bị mất, nên ông Soạn đã vượt biên
sang Trung Quốc gặp ông Thuyết tại Quảng Đông. Việc cầu
viện của Tôn Thất Thuyết bất thành nhưng ông đã dựa vào
tình cảm cá nhân của một số quan lại Mãn Thanh chống Pháp
nên Tôn Thất Thuyết đã cùng các đồng sự của ông tổ chức
liên lạc với các cuộc chống Pháp bên trong nước, mua sắm vũ
khí, đạn dược về cho nghĩa quân. Trâu bò, lúa gạo từ Việt
Nam được chuyển sang Trung Quốc và đổi lấy vũ khí đưa về.
Việc tiếp tế này duy trì mãi đến năm 1894 thì kết thúc do biên
giới Việt - Trung bị khoá. Tống Duy Tân sau khi thất bại ở
Thanh Hóa đã sang Quảng Đông gặp ông, nhưng năm 1888
ông lại cử Tống Duy Tân về xây dựng căn cứ chống Pháp ở
Hùng Lĩnh.
Năm 1889, Tôn Thất Thuyết cử người về Hà Tĩnh và phong
cho Phan Đình Phùng làm Bình Trung tướng quân. Hầu hết
các tướng lĩnh vùng Đông Bắc và Bắc Kỳ đều có sự liên lạc
với Tôn Thất Thuyết. Ông đã tổ chức nhiều hoạt động chống
Pháp ở vùng Đông Triều liên tục trong những năm 1891 -
1892. Những năm 1892 - 1895, do bị mất liên lạc trong nước,
ông đã xây dựng nhiều toán quân có vũ trang mà chủ yếu là
người Hoa và dân tộc thiểu số. Tháng 6 năm 1892, ông đã chỉ
đạo cho Lương Phúc đưa quân xâm nhập tổng Hoành Mô
thuộc Móng Cái, phát tuyên ngôn dưới danh nghĩa Hàm Nghi
để đánh Pháp. Đầu năm 1893, ông đã chỉ đạo cho Vũ Thái Hà
tiến vào Bình Hồ cũng thuộc Móng Cái để tấn công Pháp cũng
dưới danh nghĩa Cần Vương.
Tháng 3 năm 1895, ông cho một đạo quân tiến đánh Cao
Bằng, chiếm vùng Lục Khu nhưng bị Pháp đẩy lui. Từ năm
1895, chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, biên giới Việt - Trung bị
kiểm soát chặt chẽ, người Pháp yêu cầu nhà Mãn Thanh quản
thúc Tôn Thất Thuyết, theo dõi Lưu Vĩnh Phúc nên các hoạt
động của ông chấm dứt. Ông bị cấm túc, không được ra khỏi
nơi cư trú. Trong những năm cuối đời, ông thường có cơn điên
dại và thường múa gươm chém vào những tảng đá trong vườn.
Có lẽ do lòng khát khao cứu nước và đánh thực dân Pháp vẫn
còn trong ông cho đến phút lực tàn sức kiệt. Nhân dân vùng
Long Châu, Quảng Đông, Trung Quốc rất trân trọng vị thân
vương nước Nam và gọi ông là "Đả thạch lão" hay "Ông già
chém đá". Ông mất tại Trung Quốc vào ngày 22 tháng 9 năm
1913.