Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN tiếp cận văn bản bài ca ngất ngưởng của nguyễn công trứ theo phương pháp thể loại tiết 13 chương trình ngữ văn 11 cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.52 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài:........................................................................................1
1. 2. Mục đích nghiên cứu:................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu:................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................................2
1.4.1. Phương pháp đọc sáng tạo:................................................................2
1.4.2. Phương pháp gợi mở và biện pháp nêu vấn đề:..................................2
1.4.3. Phương pháp giảng bình:....................................................................2
1. 4.4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................2
2. NỘI DUNG.......................................................................................................2
2.1. Cơ sở lý luận:.............................................................................................2
2.1.1. Trong một bài nghiên cứu về "Cấu trúc năng lực văn", Giáo sư Phan
Trọng Luận đã chỉ ra những năng lực tiếp nhận văn học bao gồm:.............2
2.1.2. Hơn nữa, trong nhà trường phổ thông, việc dạy tác phẩm văn học
theo thể loại đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn dạy và học. Điều này không chỉ
định hướng đúng đắn trong việc lĩnh hội tác phẩm mà còn phát huy được
tính chủ động tích cực của người học, góp phần phát huy vai trị đồng sáng
tạo của học sinh đối với tác phẩm văn học...................................................3
2.1.3. Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.........................................3
2.2. Thực trạng vấn đề:......................................................................................4
2.2. 1. Thực trạng chung...............................................................................4
2.2. 2. Thực trạng đối với giáo viên..............................................................4
2.2. 3. Thực trạng đối với học sinh:..............................................................4
2.3. Các giải pháp thực hiện:.............................................................................5
2.3.1. Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng của thể loại hát nói...........5
2.3.2.Phương pháp và biện pháp thích hợp dạy - học tác phẩm “Bài ca
ngất ngưởng” từ góc độ thể loại:..................................................................6
2.3.3. Kiểm định qua bài dạy cụ thể:.............................................................7
2.3.4. Liên hệ, so sánh về ý nghĩa cái tôi ngất ngưởng trong xã hội.
2.3.5. Kiểm định qua bài dạy cụ thể.


2.4. Hiệu quả của SKKN với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp,
nhà trường:......................................................................................................13
2.4.1. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục:............................14
2.4.2. Hiệu quả của SKKN đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường....14
2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm:........................................................................15
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT............................................................................16
3.1. Kết luận:...................................................................................................16
3.2. Đề xuất:....................................................................................................16

download by :


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Giờ dạy - học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay nói chung và trong
nhà trường phổ thơng trung học nói riêng cịn đơn điệu tẻ nhạt khiến khá đơng
học sinh khơng có hứng thú học văn dẫn đến chất lượng môn học ngày càng
giảm sút. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đó phải
kể tới: khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu tác phẩm, nhiều giáo viên chưa xác
định đúng "chất của loại" trong thể. Xa rời bản chất loại thể của tác phẩm nên
khi khai thác tác phẩm văn học không những không làm cho tác phẩm sống
động, giàu sức hấp dẫn mà ngược lại làm cho tác phẩm khô khan, chết cứng. [1].
Dạy học văn theo thể loại là một trong những yêu cầu cơ bản đối với nhà
trường phổ thông hiện nay. Vì "Giảng dạy tác phẩm theo loại thể chính là một
phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn học trong sự thống nhất giữa
hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng hướng với quy luật và bản
chất của văn học đồng thời đảm bảo hiệu quả giáo dục cao nhất" [2]. Dạy học
văn theo thể loại là một trong những kĩ năng cần thiết trên con đường tự học và
chủ động chiếm lĩnh tri thức.
Mỗi tác phẩm văn học là một sáng tạo độc đáo, riêng biệt, thể hiện rõ cá tính

sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua sản phẩm tinh thần ấy, nhà văn, nhà thơ
thể hiện một nhân sinh quan có ý nghĩa tiến bộ về con người, về cuộc đời. Để
nhận ra thông điệp mà người nghệ sĩ gửi gắm qua tác phẩm thật không dễ dàng
chút nào. Trên cơ sở hiểu rõ được đặc trưng thể loại văn học, giáo viên sẽ định
hướng cho học sinh tìm ra những rung động thẩm mĩ trong từng giờ học [5].
Thể hát nói - một thể loại văn học vốn là ca từ của bộ môn nghệ thuật ca trù
đã đem đến bầu khơng khí mới cho nghệ thuật. Văn học trung đại với hệ thống
thi pháp nổi bật là công thức ước lệ phi ngã ... thì sự bật lên phá cách của những
cá tính sáng tạo như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Công
Trứ làm nên diện mạo mới cho văn học trung đại. Từ nhà Nho tài tử Nguyễn
Công Trứ thuộc nền văn học Việt Nam trung đại đến tao nhân - tài tử - tài tình
như Chu Mạnh Trinh thuộc nền văn học Việt Nam cận đại đều mượn thể hát nói
để khẳng định cái tơi cá nhân đầy mới mẻ, đầy cá tính khơng chỉ thể hiện ở nội
dung tư tưởng trong thơ mà còn trong cả phương diện hình thức thể loại.,… [14]
Bài ca ngất ngưởng - chương trình Ngữ văn cơ bản lớp 11 là tác phẩm nghệ
thuật đặc sắc làm nên tên tuổi của Nguyễn Cơng Trứ ở thể loại hát nói.
Với niềm tự hào sâu sắc về một thể loại góp phần làm nên diện mạo thơ ca
dân tộc, là tấc lòng chan chứa của cha ông, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu qua
thực nghiệm năm học 2018 - 2019: Tiếp cận văn bản "Bài ca ngất ngưởng" của
Nguyễn Công Trứ theo phương pháp thể loại - Tiết 13 - lớp 11A13, 11A14
trường THPT nơi tôi đang trực tiếp công tác.
1. 2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài: Tiếp cận văn bản "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ theo
phương pháp thể loại, chúng tôi đưa đến những vấn đề lý luận hiện đại ứng dụng
trong tình hình thực tiễn giảng dạy. Lựa chọn đề tài này, tôi mong muốn đem lại
những điều mới mẻ, khơi gợi cho học sinh niềm say mê và hứng thú khi học tác
1

download by :



phẩm. Những phương pháp và biện pháp thích hợp sẽ khơi dậy rung động thẩm
mĩ, đốt lên ngọn lửa say mê văn học trong tâm hồn thế hệ trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài: Tiếp cận văn bản "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ theo
phương pháp thể loại - Tiết 13 - chương trình Ngữ văn 11 cơ bản được trực tiếp
áp dụng ở các lớp 11A13, 11A14 trường THPT tôi công tác.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: [4]
Đề tài này chúng tôi sẽ kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, từ nhiều góc
độ và cấp độ khác nhau để phát hiện rõ vấn đề. Chúng tôi tập trung vận dụng
đan xen bốn phương pháp lớn trong giờ dạy học:
1.4.1. Phương pháp đọc sáng tạo:
Đọc để nhận thức được nội dung tác phẩm, phong cách tác giả thể hiện trong
tác phẩm. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh đâu là giọng kể, giọng tả, giọng
biểu cảm, giọng sâu lắng,... Có như vậy mới làm nổi bật được những cung bậc
tình cảm, sắc thái cảm xúc, tâm tư gửi gắm đằng sau mỗi câu chữ ngủ yên.
1.4.2. Phương pháp gợi mở và biện pháp nêu vấn đề:
Học sinh là bạn đọc sáng tạo, giáo viên cần tôn trọng sự tiếp nhận của cá
nhân học sinh đồng thời khơi gợi tổ chức cho học sinh tự hoạt động để đến với
tác phẩm một cách dễ dàng.
Trong giảng bài, giáo viên cần sử dụng biện pháp nêu vấn đề. Cơ chế của
biện pháp này là: Giáo viên đặt câu hỏi – học sinh tri giác – giáo viên tổ chức
qui trình giải quyết. Muốn tạo được tình huống có vấn đề phải xây dựng được hệ
thống câu hỏi có vấn đề (chứa đựng những mâu thuẫn trong nhận thức đánh giá).
1.4.3. Phương pháp giảng bình:
Giảng bình đã trở thành một bí quyết trong giảng văn, khiến giờ giảng văn
trở nên hứng thú mang màu sắc cảm xúc và văn học rõ rệt.
1. 4.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu giúp học sinh hình thành và rèn luyện năng lực
hoạt động tư duy sáng tạo. Phương pháp này chỉ nên thực hiện dưới dạng bài tập

ở nhà hoặc trong buổi ngoại khóa.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
2.1.1. Trong một bài nghiên cứu về "Cấu trúc năng lực văn", Giáo sư Phan
Trọng Luận đã chỉ ra những năng lực tiếp nhận văn học bao gồm: [7]
- Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học.
- Năng lực tái hiện hình tượng.
- Năng lực liên tưởng trong tiếp nhận văn học.
- Năng lực cảm thụ cụ thể kết hợp với năng lực khái quát hóa các chi tiết
nghệ thuật của tác phẩm trong chỉnh thể của nó.
- Năng lực nhận biết loại thể để định hướng hoạt động tiếp nhận.
- Năng lực cảm xúc thẩm mĩ
- Năng lực tự nhận thức.
- Năng lực đánh giá.
Như vậy, trong hoạt động tiếp nhận văn học thì năng lực nhận biết loại thể
sẽ dẫn dắt người đọc đến những định hướng đúng đắn trong việc lĩnh hội tác
2

download by :


phẩm. Mỗi thể loại có một thi pháp riêng nên nếu không ý thức sự khác biệt của
mỗi loại thể văn học người đọc sẽ dễ lạc hướng. Chẳng hạn như đối với Truyện
ngắn mà để ý nhiều tới cảm xúc lại bỏ qua cốt truyện, nhân vật, tình huống
truyện thì nhất định người đọc khơng thể tiếp nhận được sáng tác của nhà văn;
đối với thơ trữ tình lại loay hoay phân tích cốt truyện, nhân vật, biến thơ thành
tác phẩm văn xuôi. Chúng ta phải hiểu rằng, khi đến với thơ trữ tình nếu coi nhẹ,
bỏ qua hình tượng cảm xúc, nhân vật trữ tình nhất định người đọc không thể tiếp
nhận được sáng tác của nhà thơ. Do đó, nhận biết được thể loại của tác phẩm

văn học và nắm được những đặc trưng của nó là điều vơ cùng cần thiết trên hành
trình khám phá văn chương.
2.1.2. Hơn nữa, trong nhà trường phổ thông, việc dạy tác phẩm văn học
theo thể loại đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn dạy và học. Điều này không chỉ định
hướng đúng đắn trong việc lĩnh hội tác phẩm mà cịn phát huy được tính chủ
động tích cực của người học, góp phần phát huy vai trị đồng sáng tạo của học
sinh đối với tác phẩm văn học. [5]
Với "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ, cần chú ý tiếp nhận tác
phẩm không đơn thuần như một bài thơ trữ tình mà tác phẩm cịn mang những
nét đặc trưng riêng biệt của thể hát nói. Nếu những bài thơ thất ngơn bát cú
Đường luật như Tự tình (Hồ Xn Hương); Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến);
Thương vợ (Tú Xương);... học sinh dễ dàng tìm hướng khai thác trên cơ sở cấu
trúc của thể thơ thì "Bài ca ngất ngưởng" cũng cần được khám phá dựa trên đặc
trưng của thể hát nói. Bởi lẽ nếu khơng nhận diện ra được đặc điểm thể loại thì
việc phân tích tác phẩm sẽ rơi vào hai trường hợp sau: Hoặc tiếp cận tác phẩm
như một tác phẩm tự sự. Nghĩa là hướng tới liệt kê những sự kiện, sự việc tiêu
biểu trong bài ca của Nguyễn Công Trứ mà không chú trọng tới điều căn bản là
tâm trạng, tình cảm của nhà thơ. Hoặc chỉ căn cứ vào đặc trưng thơ trữ tình để
phân tích tác phẩm cũng sẽ rất lúng túng trong việc tiếp cận tác phẩm.
Vì vậy, để dạy học "Bài ca ngất ngưởng" một cách hiệu quả cần phải đặt tác
phẩm vào đặc trưng của thể loại hát nói.
2.1.3. Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Cơng Trứ: [9]
Người ta có thể gọi Nguyễn Công Trứ là một nhà nho, một nhà thơ tài tử,
một ơng quan thanh liêm chính trực có nhiều cơng trạng...Nhưng đúng hơn, phải
gọi ơng là một nhà tư tưởng, một nhà nhân đạo chủ nghĩa. Sự nghiệp của ơng, tư
tưởng và cách sống của ơng cịn ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống hơm nay,
đến việc xây dựng tinh thần và tính cách Việt.
Với Nguyễn Cơng Trứ, văn chương không phải là hư văn, mà thúc đẩy dấn
thân, có trách nhiệm với cuộc sống của mình và xã hội, hun đúc tinh thần, cốt
cách cao đẹp là sự ngay thẳng, chịu đựng, vượt qua mọi sương gió cuộc đời.

Chữ "danh" của Nguyễn Cơng Trứ khơng phải là học vị, chức quan mà là tài
danh, là việc làm rạng danh đất nước. Nguyễn Công Trứ là nhà nho có khuynh
hướng đặc biệt về văn Nơm: 52 bài thơ, 63 bài hát nói, 1 bài phú, 2 bài tuồng hát
và nhiều câu đối. Những văn phẩm ấy Nguyễn Công Trứ làm ra tùy hứng dọc
cuộc đời ông. (Cuốn biên thảo của Lê Thước về Nguyễn Công Trứ) [11]
Đến với "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ được làm theo thể hát
nói - một thể thơ đặc sắc của thi ca dân tộc, song những đặc trưng cơ bản của thể
3

download by :


hát nói vẫn khá xa lạ với giáo viên và học sinh. SGK không đề cập tới, SGV và
cuốn Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng - Văn 11 có định hướng cho
giáo viên hướng khai thác tác phẩm theo đặc trưng thể loại hát nói nhưng mới
chỉ hướng dẫn chung chung. Vì thế nếu chỉ căn cứ vào những tài liệu trên, hầu
hết các thầy cô giáo vẫn cịn hiểu khá mơ hồ về thể hát nói. Mặc dù hát nói nằm
trong thể loại thơ trữ tình nhưng nó vẫn có những điểm riêng biệt của loại thể
nên khơng thể khai thác nó như bài thơ trữ tình thơng thường. Thực tế cho thấy
hầu hết giáo viên khi dạy bài này mới chỉ chú ý đến nội dung tư tưởng chứ chưa
thực sự quan tâm tới phương diện thể loại. Thiết nghĩ, dạy học "Bài ca ngất
ngưởng" cần được chú trọng đúng đắn hơn nữa về phương diện thể loại.
2.2. Thực trạng vấn đề:
2.2. 1. Thực trạng chung.
Ngày nay, xu thế chung của xã hội là phát triển các ngành khoa học kĩ thuật.
Dưới mái trường phổ thông, các em học sinh thường chú trọng đến bộ môn khoa
học tự nhiên hơn là bộ môn khoa học xã hội. Dù hôm nay môn Ngữ văn rất quan
trọng với kỳ thi vượt cấp và kỳ thi tốt nghiệp quốc gia nhưng đại đa số học sinh
vẫn chưa quen với sự ngang hàng giữa bộ môn khoa học xã hội với bộ mơn khoa
học tự nhiên. Dẫu có nhiều học sinh vốn có năng khiếu về văn học, yêu thích

văn chương nhưng vẫn vơ cùng khó khăn trong việc tiếp cận với bộ mơn khoa
học giàu tính nhân văn này. Bởi vậy, mỗi giờ học văn diễn ra trong tâm thế cịn
thờ ơ đón nhận của học sinh và trong nỗi niềm trăn trở của người thầy.
2.2. 2. Thực trạng đối với giáo viên.
Trong đổi mới phương pháp dạy học văn, người giáo viên nhất thiết phải chú
trọng dạy theo thể loại. Dạy thơ trữ tình phải dạy cho ra được tâm trạng, cảm
xúc, ngơn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh chứa đựng trong tác phẩm. Dạy tác phẩm tự
sự phải quan tâm tới nhân vật, cốt truyện, chi tiết đặc sắc. Dạy tác phẩm kịch
phải chú ý tới xung đột kịch thể hiện qua mâu thuẫn trong ngôn ngữ, hành động
của từng nhân vật.
Đến với "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Cơng Trứ được làm theo thể hát
nói ở dạng biến cách, dơi khổ, chứa đựng tư tưởng tình cảm tự do phóng
khống. Tác phẩm gồm phần lời ca và phần làn điệu nhưng phần lớn giáo viên
mới chỉ khai thác văn bản ở phần lời ca như một bài thơ bình thường mà bỏ qua
phần làn điệu. Đại bộ phận giáo viên vẫn sử dụng phương pháp tiếp cận tác
phẩm theo lối cũ. Sự đơn điệu của cách dạy này trước hết ở nội dung giảng dạy,
ở cách khai thác, phân tích tác phẩm văn chương. Vì thế người tiếp nhận không
lĩnh hội được những vấn đề ở bề sâu, bề xa của tác phẩm.
2.2. 3. Thực trạng đối với học sinh:

4

download by :


Khi học "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ - sản phẩm của nền văn
học uyên bác có một khoảng cách khá xa với học sinh hôm nay. Cũng giống như
những tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 11: Bài ca ngắn
đi trên bãi cát, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chiếu cầu hiền,..., Bài ca ngất ngưởng
mà các em được học có mơi trường sinh thành khá xa lạ với hoàn cảnh hiện tại

mà các em đang sống, thế nên giáo viên dù cố gắng tái hiện bầu khơng khí thời
đại cho tác phẩm thì tìm kiếm sự rung động sâu xa trong lịng các em vẫn là điều
khó khăn. Bởi lẽ, cuộc sống hiện đại với sự phát triển của công nghệ thông tin
có q nhiều điều lơi cuốn các em. Hơn nữa đây là tác phẩm rất ít được lựa chọn
trong thi cử nên tâm lí học sinh có phần khơng quan trọng nhiều đến văn bản
này.
Vì vậy, tơi thiết nghĩ cần phải tìm cách xích lại gần hơn nữa đối tượng khám
phá với đối tượng tiếp nhận. Điểm tương đồng, gặp gỡ giữa chủ thể trữ tình
trong bài thơ với người học chính chính là sự khẳng định con người cá nhân đầy
khát vọng, đầy cá tính mà khi nghiên cứu tác phẩm từ phương diện thể thơ hát
nói chúng ta sẽ thấy cá tính nhà thơ hiện lên rất cụ thể, rõ rệt. Vì vậy trong tiết
dạy của mình, tơi đã làm nổi rõ mối liên hệ về con người cá tính giữa nhà thơ
với học trị để tạo nên sức hấp dẫn cũng như hiệu quả của bài học.
2.3. Các giải pháp thực hiện:
2.3.1. Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng của thể loại hát nói:
* Về khái niệm:
Hát nói là thể thơ mà lời của nó có thể được hát lên theo làn điệu dân ca- ca
trù. Trong hát nói có cả hát và nói; lời ca, lời hát xích gần về phía lời nói. Hình
thức thể hiện mang phong cách khẩu ngữ nên thường dung dị, dễ hiểu, gần với
đời thường. Vẻ đẹp của thể hát nói là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp của
âm nhạc và thơ ca.
Hát nói với tư cách là ca từ của bộ môn nghệ thuật ca trù. Trong các thể thơ
của ca trù như: Lục bát; Song thất lục bát;..., hát nói là một trong những thể thơ
tiêu biểu để lại số lượng tác phẩm lớn và được u thích nhất. Hát nói đã gắn với
tên tuổi trong lịch sử văn học Việt Nam như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,
Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Phan Bội Châu,...
Thơ hát nói được sáng tác để hát trong ca quán, trong dinh thự, trong cửa
chùa,... với mục đích giải trí nên nghiên cứu văn bản hát nói khơng thể khơng
đặt nó trong mối liên hệ với âm nhạc hát nói ca trù.
* Về cấu tạo thể hát nói:

Khác với thơ Đường luật, thơ hát nói là một thể thơ mở, khá tự do về vần
nhịp và không hạn định về số câu trong bài và số chữ trong câu. Ngôn từ trong
thơ hát nói có sự pha trộn lời Hán với lời Việt. Hầu hết các bài đều có một câu
chữ Hán như là một dẫn ngữ, nói một tư tưởng, một chí hướng nào đó đặt ở đầu
hay ở giữa bài thơ.... Về sau, hát nói phát triển thêm hình thức kể, thuật, tự tình
của thơ trung đại Việt Nam. Nhưng cái chính thơ hát nói là ở thể thơ điệu nói,
khơng phải thơ hình ảnh. Cái hay của hát nói cũng hay ở giọng điệu. Giáo sư Hà
Minh Đức cho rằng đó là thơ "nửa hát nửa nói, có tính chất kể chuyện". Tuy
nhiên tính chất hát khó nhận thấy qua văn bản, còn lại chủ yếu là điệu nói.
* Về nội dung tư tưởng:
5

download by :


Thơ hát nói có cấu tạo đặc biệt như vậy là do sự chi phối của chủ thể trữ
tình trong bài thơ. Đó là tiếng nói của một con người tài tử thốt vịng cương
tỏa, thốt sáo, thốt tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại. Bởi lẽ nhà Nho
tài tử thường đối lập tài với tình, coi trọng thích thú cá nhân, địi tự do phóng
khống vì hưởng lạc thú trần tục. Chính cảm thức ấy, nhân sinh quan ấy mới tạo
thành thể thơ hát nói được.
* Về đặc điểm:
- Thơ hát nói là tâm tư, khát vọng của người tài tử. Khác với nhà Nho chính
thống, người tài tử không muốn sống một cuộc sống âm thầm, phẳng lặng. Họ
muốn được thể hiện hết bản thân mình và muốn được nếm trải tồn diện các lạc
thú của đời sống. Thế nên nội dung "hành lạc" chiếm vị trí đáng kể trong thơ hát
nói.
- Trong thơ hát nói, chủ thể trữ tình hiện ra qua lời văn nhất quán và xuất hiện
giọng điệu khảng khái, ngang tàng, ngạo nghễ, thách thức,...
- Là một thể thơ tự do về vần nhịp, không hạn chế về số lượng câu, chữ nên

cần khai thác điệu nói trong bài thơ. Biểu hiện ở những cấu trúc trùng điệp cụm
từ, dùng nhiều câu hỏi, câu cảm thán và ở cách sử dụng tiếng thơ, tiếng tục,
tiếng lóng trong sinh hoạt hằng ngày tạo ra giọng nói sống động, pha tạp vừa
chữ Hán vừa Nôm, vừa thanh vừa tục,..
2.3.2. Vận dụng đan xen bốn phương pháp lớn trong giờ dạy – học “Bài ca
ngất ngưởng”. [4]
- Phương pháp đọc
+ Phương pháp đọc sáng tạo:
Đọc để nhận thức được nội dung tác phẩm, phong cách tác giả thể hiện trong
tác phẩm. Tác phẩm được dạy trong một tiết, giáo viên hướng dẫn cho học sinh
đọc trước ở nhà. Giáo viên cần làm rõ đâu là giọng hát, đâu là giọng nói mà chủ
yếu là giọng nói. Việc đọc phải làm nổi bật được những cung bậc tình cảm của
tác giả làm cho lời ca đọc lên lúc âm vang, lúc thiết tha sâu lắng. Đọc làm sao để
sống dậy những tâm tư, tình cảm của nhân vật gửi đằng sau câu chữ ngủ yên.
+ Đọc kĩ bài thơ và phần chú giải từ khó trong sgk:
Việc hướng dẫn học sinh đọc bài và phần chú giải những từ khó là rất cần
thiết. Bởi lẽ muốn đánh giá về đối tượng nào cũng phải hiểu về nó. Trong bài
thơ có nhiều từ cổ, từ Hán và từ Nôm, nếu các em không đọc kĩ bài ở nhà thì
thời lượng 45 phút trên lớp khơng dễ gì hiểu bài và càng khó thấy được cái hay
của bài thơ. Ở phần này, giáo viên nên đọc chậm lần 1 và giải nghĩa những từ
khó. Những từ khó ở đây ngồi những từ cổ cịn có những điển tích, điển cố nên
cần cho học sinh hiểu văn bản thơ ở lớp nghĩa từ vựng.
- Sử dụng phương pháp gợi mở và biện pháp nêu vấn đề thông qua việc xây
dựng hệ thống câu hỏi trong bài giảng để tạo bầu khơng khí văn chương:
Coi học sinh là bạn đọc sáng tạo, người giáo viên cần tôn trọng sự tiếp nhận
của cá nhân học sinh, đồng thời khơi gợi tổ chức cho học sinh tự hoạt động để
đến với tác phẩm của mình một cách dễ dàng. Trong khi giảng, giáo viên cần sử
dụng biện pháp nêu vấn đề. Cơ chế của biện pháp này là: Giáo viên đặt câu hỏi,
học sinh tri giác, giáo viên tổ chức quy trình giải quyết.
- Phương pháp giảng bình:

6

download by :


Giảng bình đã trở thành bí quyết trong giảng văn, khiến giờ giảng văn trở
nên hứng thú mang màu sắc cảm xúc và văn học rõ rệt.
- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu cần được vận dụng nhằm giúp học sinh hình thành
và rèn luyện năng lực hoạt động tư duy sáng tạo. Tuy nhiên, do thời gian có hạn,
phương pháp này chỉ nên thực hiện dưới dạng những bài tập ở nhà hoặc trong
buổi ngoại khóa.
2.3.3. Tổ chức hoạt động thảo luận về hình tượng cái tơi "ngất ngưởng" qua
đặc trưng thể loại hát nói. [10].
Đây là phần trọng tâm của giờ học nên từ những câu hỏi tái hiện kiến thức,
giáo viên có thể dẫn dắt đến những câu hỏi tình huống có vấn đề. Điều đó sẽ đáp
ứng phương pháp dạy học mới lấy học sinh làm trung tâm vừa tránh được giờ
dạy mang tính chất thuyết trình, giáo điều.
Phần tìm hiểu về tác giả:
Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi tình huống như: Điều gì về Nguyễn Cơng
Trứ làm em ấn tượng nhất?
Dự kiến học sinh trả lời: Cuộc đời làm quan không bằng phẳng, khi thăng
chức khi bị giáng chức thất thường dẫn đến tính cách nổi loạn của một con
người ưa tự do, có khí phách, có tài, khơng dễ bằng lịng với vòng cương tỏa của
chốn quan trường.
Giáo viên khái quát lại và khẳng định: Từ nét cá tính đó, Nguyễn Cơng Trứ
tìm đến sự thể hiện mình ở thể thơ hát nói, một thể loại dung nạp nhu cầu phơ
diễn tâm tư, tình cảm, với mục đích giải trí, hành lạc. Giáo viên giới thiệu ngắn
gọn đặc điểm thể hát nói.
Phần văn bản:

Sau khi cho học sinh tìm hiểu bố cục văn bản, giáo viên có thể đặt ra những
câu hỏi tình huống sau:
- Chủ thể trữ tình trong bài thơ là ai? Căn cứ vào những yếu tố ngôn ngữ nào
trong văn bản cho em biết điều đó? Em có hình dung như thế nào về chân dung
nhân vật trữ tình?
- Ở 6 câu thơ đầu, Nguyễn Cơng Trứ đã nói gì về mình và nói bằng cách nói
như thế nào?
- Hãy chỉ ra tính chất của điệu nói trong 6 câu thơ trên? (cách sử dụng thủ
pháp liệt kê, lặp từ...). Từ điệu nói ấy, em hình dung về điều gì trong ý thức của
nhà thơ?
- Hãy đọc những câu thơ có cách ngắt nhịp 3/3, 4/4? Từ đó, em sẽ thấy điều
gì trong tâm trạng nhà thơ?
- Từ những lí giải trên, em hiểu ngất ngưởng ở Nguyễn Cơng Trứ khi làm
quan là gì?
- Khi về hưu, nhà thơ phơ diễn tâm tình của mình qua những thú vui nào?
Em có nhận xét gì về những thú hành lạc ấy? Theo em, cái ngất ngưởng của nhà
thơ ở đây như thế nào?
- Quan niệm sống, cách sống của nhà thơ có gì đặc biệt?
- Có ý kiến cho rằng, điều làm nên sự độc đáo của giọng điệu nói ở đây là sự
pha trộn giữa từ ngữ thông tục với từ ngữ Hán Việt sang trọng. Hãy chứng minh
7

download by :


điều đó?
- Từ cách sống, quan niệm sống, thái độ sống ấy của nhà thơ, em hãy lí giải
ý nghĩa về cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ?...
Việc đặt ra những câu hỏi thảo luận nêu vấn đề, học sinh sẽ tham gia vào quá
trình khám phá tâm tư, tình cảm nhân vật trữ tình thơng qua cấu trúc thể loại thơ

hát nói một cách cụ thể và sâu sắc. Mặt khác, học sinh cũng đóng vai trị tích
cực trong việc đồng sáng tạo tác phẩm văn học.
2.3.4. Liên hệ, so sánh về ý nghĩa cái tôi ngất ngưởng trong xã hội hiện đại:
Bên cạnh việc khám phá văn bản thơ, giáo viên có thể thơng qua bài học để
giáo dục nhân cách cho học sinh bằng việc nêu lên một số vấn đề đưa ra thảo
luận:
- Suy nghĩ của em về phong cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
với phong cách sonngs ngất ngưởng của một bộ phận giới trẻ hiện nay? Hãy lấy
ví dụ để làm rõ sự khác biệt ấy?
- Muốn thể hiện phong cách sống tích cực như Nguyễn Cơng Trứ, tuổi trẻ
cần có những phẩm chất gì? năng lực gì và phải làm gì để có những năng lực
phẩm chất ấy?
2.3.5. Kiểm định qua bài dạy cụ thể:
Tiết 13: Đọc văn:

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
( Nguyễn Công Trứ )

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
- Con người Nguyễn Cơng Trứ thể hiện trong hình ảnh “ ông ngất ngưỡng”,
tiêu biểu cho mẫu người tài tử hậu kì văn học trung đại Việt Nam.
- Phong cách sống, thái độ sống của tác giả.
- Đặc điểm của thể hát nói.
2. Kĩ năng:
Phân tích thơ hát nói theo đặc trưng thể loại.
3. Thái độ:
Giáo dục phong cách sống, ý thức sống cao đẹp.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên:

1.1 Dự kiến bp tổ chức hs hoạt động cảm thụ tác phẩm:
- Tổ chức hs đọc diễn cảm tác phẩm.
- Định hướng hs phân tích cắt và khái quát bằng đàm thoại, gợi mở, nêu
vấn đề, thảo luận.
- Tổ chức hs tự nhận thức bộc lộ bằng liên hệ bản thân.
1.2. Phương tiện:
Sgk, giáo án, đọc tài liệu tham khảo.
2. Học sinh:
- Hs chủ tìm hiểu về tác giả, thể loại, đọc kĩ về tác phẩm để cảm nhận được
tâm hồn tự do phóng khoáng cùng thái độ tự tin của tác giả.
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP:
1. Ổn định tổ chức:
8

download by :


2. Kiểm tra bài cũ: Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân có mối quan hệ như thế
nào?
3. Giới thiệu bài mới: Là người có phong cách sống nhất quán, Nguyễn Công
Trứ kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình, và khi đã nghỉ hưu. Tác giả có ý
thức rất rõ về tài năng và bản lĩnh của mình. Ta cùng tìm hiểu bài mới “Bài ca
ngất ngưởng”.
Hoạt động của GV và HS
Nội dung kiến thức cần đạt.
Hoạt động 1 : Gv hướng dẫn hs
I. Tìm hiểu chung:
đọc hiểu khái quát.
1. Tác giả:
GV gọi hs đọc phần tiểu dẫn sgk,

Nguyễn Công Trứ (1778- 1858), tự là
gv đưa ra câu hỏi hs trả lời.
Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi
1. Phần tiểu dẫn sgk cho ta biết
Văn.
những thơng tin gì về tác giả
Xuất thân trong một gia đình nhà nho
Nguyễn Cơng Trứ?
nghèo.
Q hương: làng Uy Viễn, huyện Nghi
Xuân, Hà Tĩnh.
Cuộc đời: Thưở nhỏ sống trong điều kiện
nghèo khó nhưng lại có điều kiện tiếp
xúc với ca trù
Có tài, có cá tính, đỗ đạt làm quan nhưng
con đường làm quan gặp nhiều thăng
trầm.
Sự nghiệp sáng tác: thể loại ưa thích và
thành cơng là hát nói. Ơng là người có
cơng đầu với thể loại ca trù.
- Theo em, con người và sự nghiệp => Cuộc đời làm quan thăng giáng thất
của Nguyễn Cơng Trứ có gì đặc
thường cũng như trong sự nghiệp văn
biệt?
học thành cơng ở thể hát nói cho thấy
điểm gặp gỡ cuộc đời và sự nghiệp của
Nguyễn Cơng Trứ là con người đầy cá
tính, giàu bản lĩnh.
2. Bài thơ :
2. Hãy xác định hoàn cảnh ra đời

- Hoàn cảnh sáng tác:
của bài thơ?
Bài thơ sáng tác vào năm 1848, trong
thời gian ông cáo quan về ở ẩn tại quê
nhà. Nhà thơ có thể bộc lộ hết tâm tư
phóng khống của bản thân đồng thời là
cái nhìn mang tính tổng kết về cuộc đời
phong phú của Nguyễn Cơng Trứ
Theo em, bài thơ viết theo thể loại - Thể loại : hát nói.
gì? Em hiểu biết như thế nào về thể
Đặc điểm của thể loại này: là thể tổng
loại ấy?
hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính chất tự
(hs trả lời cá nhân)
do thích hợp với việc thể hiện con người
cá nhân.
Trong mơi trường sinh thành, hát nói
9

download by :


3. Xác định bố cục và nêu ý nghĩa
từng phần?

Hoạt động 2: gv hướng dẫn hs đọc
hiểu chi tiết.
GV gọi hs đọc và hướng dẫn hs
giải thích từ khó phần chú thích
sgk.

- Chủ thể trữ tình trong bài thơ là
ai? Căn cứ vào những yếu tố ngôn
ngữ nào trong bài cho em biết điều
đó? Hãy hình dung về chân dung
nhân vật trữ tình?
(hs trả lời cá nhân, gv nhận xét
chốt ý)

Trong bài hát nói thường có những
câu nguyên văn chữ Hán để nói cái
chí của người qn tử.
- Theo em, mở đầu bài thơ, nhân
vật trữ tình nói đến điều gì?
GV giảng: Nguyễn Cơng Trứ
khẳng định vai trị trách nhiệm của
mình với dân với nước. Đã làm trai
thì phải “đầu đội trời chân đạp đất”
làm việc gì có ích cho dân cho
nước và điều này là một quan niệm
đạo đức của các nhà nho mà NCT
đã từng nói: “Khắp trời đất dọc
ngang , ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay”
Cuộc đời NCT là cuộc đời say mê
hành động mà lúc nào trong tâm
khảm của nhà thơ cũng hiện ra một

được chú ý chủ yếu ở điệu hát, ít chú ý
tới điệu nói. Bài ca ngất ngưởng lại chú ý
nhiều hơn ở điệu nói vì thiếu phần âm

nhạc nên điệu hát chỉ được tái hiện.
Để làm nổi bật điệu nói, văn bản sử
dụng nhiều cấu trúc trùng điệp qua việc
sử dụng các cụm từ, nhiều câu hỏi, câu
cảm thán làm cho ngữ điệu nói thể hiện
rõ, tính chủ thể của lời văn nhất quán
đem đến giọng điệu riêng.
Sử dụng tiếng thơ, tiếng tục, tiếng lóng
trong sinh hoạt hằng ngày.
3. Bố cục : 2 phần
6 câu đầu : Quãng đời làm quan của
Nguyễn Công Trứ.
13 câu tiếp : Quãng đời khi cáo quan về
hưu.
II. Đọc – hiểu
1. Hình tượng cái tơi ngất ngưởng
trong bài thơ:
* Bài thơ thể hiện hình tượng cái tơi
"ngất ngưởng" với tâm hồn tự do, phóng
khống, thái độ tự tin đầy bản lĩnh
Từ "ngất ngưởng" xuất hiện ngay ở
nhan đề và 4 lần trong bài thơ:
Từ “ngất ngưởng” → thế cao chênh
vênh, không vững, nghiêng ngả.
→ tư thế, thái độ cách sống ngang tàng,
vượt thế tục của con người.
Ngất ngưởng: Là phong cách sống
nhất quán của Nguyễn Công Trứ: Kể cả
khi làm quan, ra vào nơi triều đình, khi
đã nghỉ hưu. Tác giả có ý thức rất rõ về

tài năng và bản lĩnh của mình.
* Ngất ngưởng chốn quan trường:
“ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
→ mọi việc trong tời đất đều là phận sư
của ông. Nguyễn Cơng Trứ khẳng định
vai trị, trách nhiệm của mình với dân với
nước.
=> Tun ngơn về chí làm trai của nhà
thơ. Quan niệm sống là hành động. Đó là
chí của trang nam nhi thời đại phong
kiến, lập thân để lại sự nghiệp, lập danh
để lại tiếng thơm cho đời.
10

download by :


câu hỏi lớn:
“ Đã mang tiếng ỏ trong trời đất
Phải có danh gì với núi sơng”.
- Ở 6 câu thơ đầu, Nguyễn Cơng
trứ đã nói gì về mình và nói bằng
cách nói như thế nào?
(Hs suy nghĩ trả lời)
Gv giảng: tài năng của ông đủ làm
ông cao ngạo nhưng ông thấy sự
gị bó, sự trói buộc của chốn quan
trường vẫn là trái với tính cách
phóng đãng của ơng.
- Chỉ ra tính chất điệu nói trong 6

câu đầu?
- Hãy đọc những câu thơ có cách
ngắt nhịp 3/3/3/4?

- Khi về hưu, nhà thơ phơ diễn tâm
tình của mình qua những thú vui
nào?

- Quan niệm sống, cách sống và
thái độ sống của nhà thơ có gì đặc
biệt?

Sự khác biệt của Nguyễn Cơng Trứ so
với nhà Nho khác là ở chỗ ơng tự thấy
mình hơn người về tài năng và phô ra tài
năng của mình. Trong khn khổ đạo
đức phong kiến với những quan niệm
khắt khe khắc kỉ phục lễ, nhà thơ với nhu
cầu thốt khỏi vịng cương tỏa đã tìm đến
khẳng định con người cá nhân qua thể
thơ hát nói.
- Những việc ơng đã làm ở chốn quan
trường và tài năng của mình:
+ Tài học(thủ khoa).
+ Tài chính trị (tham tan, tổng đốc)
+ Tài quân sự (thao lược) đã làm ông
thành “một tay” (con người nổi tiếng) về
tài trí.
→ Tự hào mình là một người tài năng lỗi
lạc, danh vị vẻ vang văn võ tồn tài.

- Tính chất điệu nói: thủ pháp liệt kê các
chức vị xã hội, điệp từ "khi", cách tự
phong mình là "ơng" thể hiện niềm tự
hào, thái độ ngạo nghễ tự tin của nhà thơ.
- Câu thơ ngắt nhịp 3/3/4
Khi thủ khoa/ khi Tham tán/khi Tổng đốc
Đông.
Gồm thao lược/ đã lên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây/ cờ đại tướng
Có khi về/ Phủ doãn Thừa Thiên.
Cách ngắt nhịp này tạo nên giọng điệu
ngạo nghễ, như thách thức của con người
ý thức được tài năng của mình.
=> Sáu câu thơ đầu là lời từ thuật chân
thành của nhà thơ lúc làm quan khẳng
định tài năng và lí tưởng trung qn, lịng
tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ
sống tài tử, phóng khống khác đời ngạo
nghễ của một người có khả năng xuất
chúng. Hay thái độ sống của người quân
tử bản lĩnh, đầy tự tin, kiên trì lí tưởng.
* Ngất ngưởng khi về hưu
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá
nhân:
+ Cưỡi bị đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
+ Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
11

download by :



→ Giễu đời hưởng thú phiêu diêu trần
tục.
- Quan niệm sống, cách sống:
Không màng đến chuyện khen chê được
mất của thế gian, sánh mình với bậc danh
tướng, khẳng định lịng trung với vua,
nhấn mạnh thái độ sống ngất ngưởng.
Sống ung dung yêu đời vượt thế tục
nhưng một lòng trung quân.
- Thái độ sống :
+ “ Chẳng trái Nhạc,..”
+ Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung.
- Từ những việc làm ấy, em hiểu
+ Trong triều ai ngất ngưỡng như ông.
ngất ngưởng của nhà thơ ở đây như → khẳng định tài năng sánh ngang bậc
thế nào?
danh tướng.
- Những việc làm, thái độ sống hết sức
- Đánh giá thế nào về cái tôi ngất
mới mẻ, táo bạo: Sẵn sàng làm những
ngưởng Nguyễn Cơng Trứ?
việc khác người với thái độ phóng túng,
tự do.
=> Từ ngất ngưỡng khẳng định cách
sống tự do của bậc tài tử phong lưu,
không ngần ngại khẳng định cá tính của
- Có ý kiến cho rằng, điều làm nên mình. Thái độ sống ngất ngưởng đầy
sự độc đáo của giọng điệu nói ở

thách thức trước những tơn ti phép tắc
đây là sự pha trộn giữa từ ngữ
khắc kỉ của XHPK.
thông tục với từ ngữ Hán Việt sang - Sự độc dáo trong cách sử dụng từ ngữ
trọng. Hãy phân tích về cách dùng của nhà thơ:
từ ngữ của nhà thơ?
+ Dùng nhiều từ Hán Việt sang trọng,
những điển tích, điển cố: đô môn, giải tổ,
người thái thượng, ngọn đông phong,,
trái, Nhạc, hàn, Phú,... thể hiện một con
người tự tin, ý thức về tài năng của mình.
+ Những từ ngữ Nôm vừa thanh vừa chữ
giàu sức biểu cảm: phau phau, mây trắng,
phới phới ngọn đông phong, đủng đỉnh,
dương dương,... phô diễn cái tài và cái
tình của người quân tử.
+ Sự kết hợp giữa từ Hán và từ Nôm vừa
thanh vừa tục tạo nên một cách nói sống
động pha tạp, thể hiện được con người
ngạo nghễ, khí phách vừa trần tục vừa
thoát sáo
- Suy nghĩ của em về phong cách
2. Liên hệ, so sánh về cái tơi cá tính
sống ngất ngưởng của Nguyễn
trong xã hội hiện đại.
Công Trứ với phong cách sống
- Ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là
12

download by :



ngất ngưởng của bạn trẻ thời nay?
Hãy lấy ví dụ để làm rõ sự khác
biệt ấy?

phong cách sống có bản lĩnh, có cá tính,
trung thực, thẳng thắn, ý thức rất rõ về
bản thân bao hàm cả những điều lí tưởng
và trần tục. Còn ngất ngưởng của bạn trẻ
thời nay là lối sống lập dị, trái ngược với
chuẩn mực đạo đức của xã hội. Phong
cách sống ấy bị lên án, thậm chí bị tẩy
chay (lấy ví dụ).
- Muốn thể hiện phong cách sống
- Liên hệ: Một người muốn có bản lĩnh,
tích cực như Nguyễn Cơng Trứ,
cá tính như thế cần phải có những phẩm
tuổi trẻ hơm nay cần có những
chất trí tuệ và năng lực nhất định. Tuy
phẩm chất, năng lực gì? và phải
nhiên cũng cần phải khẳng định lại cá
làm gì để có những năng lực phẩm tính ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
chất ấy?
trong khuôn khổ xã hội phong kiến là
tiếng nói tháo củi sổ lồng với quan niệm
khắc kỉ phục lễ q cứng nhắc, khn
sáo. Vì vậy, với học sinh ngày nay, cần
phải rèn luyện để có được năng lực, bản
lĩnh, thái độ tự tin để thích ứng với cuộc

sống.
Hoạt động 3: gv hướng dẫn hs tổng III. Tổng kết:
kết.
- Là sự khẳng định bản lĩnh, tài năng cá
- Theo em, ý nghĩa con người ngất nhân.
ngưởng của Nguyễn Cơng Trứ
- Là quan niệm sống tích cực, lành mạnh,
trong bài thơ là gì?
biết sống và dám sống cho mình.
- Hãy chỉ ra sự đặc sắc của thể thơ - So với thơ Đường luật, thể hát nói là
trong văn bản?
hình thức thơ tự do, đặc biệt là tự do về
vần, nhịp thích ứng với sự biểu hện
phong cách phóng khống, tự do.
- Ngữ điệu nói được biểu hiện qua cấu
trúc trùng điệp: điệp từ, điệp cấu trúc kết
hợp với điệu hát (âm nhạc) tạo một làn
điệu đặc sắc cho ca trù trong việc phơ
diễn tài chí của người quân tử.
- Sự kết hợp giữa hệ thống từ hán Việt
với số lượng lớn từ ngữ Nơm, trong đó
có nhiều ngơn từ thơng tục hàng ngày tạo
ra một cách nói sống động, ngồn ngộn
hơi thở sự sống.
IV. TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Tổng kết
- Hệ thống hóa kiến thức văn bản trên 2 mặt nội dung và nghệ thuật
- Hs trả lời câu hỏi sgk
2.Hướng dẫn học tập
13


download by :


Học bài cũ
Soạn bài mới.
2.4. Hiệu quả của SKKN với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp, nhà trường:
2.4.1. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục:
Lý thuyết về phương pháp dạy tác phẩm văn học theo loại thể đã khẳng định:
Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi
một phương pháp, một cách thức giảng dạy phù hợp với nó.
Vấn đề loại thể văn học trong thực tiễn giảng dạy ở trường THPT không
những đặt ra như một vấn đề tri thức mà chủ yếu còn là vấn đề phương pháp. Sử
dụng phương pháp thích hợp để dạy tốt tác phẩm văn học từ góc độ thể loại đòi
hỏi người thầy phải đem hết tâm huyết của mình, đánh thức, khơi gợi niềm say
mê, hứng thú của học sinh.
Nguyễn Công Trứ là một trong những cây bút đầu tiên mở cánh cửa văn học
vào thể loại hát nói - ca trù. Ở thể loại này, nhà thơ gặt hái được nhiều thành
quả. Nổi bật nhất phải kể tới “Bài ca ngất ngưởng”. Khi áp dụng đề tài: Dạy
"Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Cơng Trứ từ góc độ thể loại, chúng ta không
chỉ đến với một nhà thơ lớn, đặc sắc cho thời đại văn học dân tộc mà cịn đến
với những gì tinh hoa, tinh t nhất của thời đại. Tìm hiểu một cây bút có sức
hút lớn, một thi phẩm có giá trị như tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng", thực chất
chúng ta đang hướng bạn trẻ tìm về với niềm say mê, hứng thú và nối kết quá
khứ với hiện tại động thời khôi phục lại nét đẹp về truyền thống văn hoắ dân tộc.
Đề tài định hướng đến một cách tiếp cận tích cực, theo hướng tiếp nhận tác
phẩm mới phù hợp với cách dạy học hiện đại nên có ý nghĩa thiết thực đối với
sự nghiệp giáo dục hôm nay.
2.4.2. Hiệu quả của SKKN đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.

Tổ chức giờ dạy tác phẩm tự sự theo cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác
phẩm từ góc độ thể loại là cách làm phù hợp với thực tiễn của quá trình đổi mới
phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ gợi về bộ môn nghệ thuật đặc sắc,
nét đẹp một thời Việt Nam xa xưa. Thời kì hát nói diễn ra tại ca quán, dinh thự,
cửa chùa,...với mục đích giải trí. Việc tiếp cận văn bản từ góc độ thể loại hay
nhưng sẽ rất khó nếu người thầy khơng có phương pháp và biện pháp thích hợp.
Đi từ phương diện thể loại, tôi mong muốn mở ra hướng mới dễ tiếp cận hơn với
văn bản "Bài ca ngất ngưởng".
Tiếp cận tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" theo hướng này tại các lớp trực tiếp
giảng dạy của trường PTTH nơi đang công tác trong năm học qua, tôi đã thu
được kết quả khả quan:
- Học sinh các lớp sau khi được áp dụng hướng tiếp cận đều có thái độ hứng
thú, tích cực hơn trong giờ học Ngữ văn.
- Học sinh tiếp cận văn bản có độ hiểu bài sâu, phong phú và biết liên hệ bản
thân theo hướng tích cực.
- Học sinh có thái độ, tư tưởng, tình cảm đúng đắn hơn với mơn học và có ý
thức trách nhiệm về bổn phận hơn với cuộc đời .
14

download by :


Sau khi tham gia dự giờ, thăm lớp áp dụng đề tài, đồng nghiệp cảm thấy
hứng thú hơn với tiết giảng văn tác phẩm trữ tình. Tơi thiết nghĩ trong dạy học,
đặc biệt dạy học môn Ngữ văn, người thầy nên chủ động tìm ra hướng khai thác
mới giúp học sinh tiếp cận bài học một cách chính xác, khoa học, dễ dàng.
2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm:
Với phương pháp trên, tôi thực hiện ở các lớp: 11A12, 11A13 tại trường
THPT nơi tôi công tác năm hoc 2018 - 2019. Học sinh được kiểm tra trắc

nghiệm khách quan dạng câu hỏi "có hoặc khơng?": Anh/ chị có thích học tác
phẩm "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ không? Kết quả như sau:
Lớp
11A12
11A13

Tổng số
học
sinh
40
44

Có hứng thú

Khơng hứng thú

Số học sinh

Tỉ lệ %

Số học sinh

Tỉ lệ %

36
42

90%
95,5%


4
4

10%
4,5%

Câu hỏi kiểm tra kiến thức, kĩ năng như: Anh/chị đánh giá thế nào về cái tôi
ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ? Kết quả như sau:
Lớp
A12
A13

Tổng
số
học
sinh
40
44

Giỏi
Số
học
sinh
4
6

Tỉ lệ
%
10
13,6


Khá
Số
học
sinh
25
28

TB
Tỉ lệ
%

Số học
sinh

62,5
63,7

11
10

Yếu
Tỉ lệ
%
27,5
22,7

Số
học
sinh

0
0

Tỉ lệ
%
0
0

Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận từ phương pháp thể loại đã tạo ra
hứng thú và hiệu quả hơn trong việc tiếp nhận và lĩnh hội tác phẩm từ hướng
khai thác khác.

15

download by :


3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận:
- Vấn đề dạy học văn theo phương pháp thể loại là vấn đề rất quan trọng của
phương pháp dạy học văn. Dạy học văn theo thể loại giúp học sinh tránh được
lối hiểu chung chung, đại khái, đánh đồng các tác phẩm cũng như phát huy được
vai trị, chủ động, tích cực của học sinh, rút ngắn khoảng cách: tác phẩm - giáo
viên – học sinh.
- Nguyễn Công Trứ là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, nổi tiếng là
vị quan thanh liêm, tài trí hơn người nhưng có lối sống tự do và vơ cùng ngang
tàng, ngạo nghễ. Ơng là một trong những tên tuổi làm nên thành công của thể
loại hát nói. Tìm hiểu văn bản “Bài ca ngất ngưởng” khơng chỉ tìm hiểu đơn
giản ở thể loại tác phẩm trữ tình mà phải tìm hiểu ở góc độ thể loại hát nói. Tiếp
cận văn bản từ góc độ thể loại thực chất thông qua các bước gợi từ đó học sinh

phát huy tối đa năng lực tiếp nhận và sáng tạo cũng như khả năng chủ động, tích
cực hóa mọi hoạt động trong q trình học cũng như làm bài tập. [1].
- Sự thành công của một nhà văn, nhà thơ không phải chỉ ở số lượng tác
phẩm mà cịn ở chính giá trị mà tác phẩm mang lại. Nguyễn Công Trứ đã tiếp
nối những tinh hoa văn học truyền thống và với cá tính sáng tạo riêng, nhà thơ
góp vào nền văn học nước nhà tiếng nói riêng, hấp dẫn. Thơ hát nói với tư cách
là bộ môn nghệ thuật ca trù. Trong 34 làn điệu của ca trù thì thơ hát nói được
sáng tác nhiều nhất và thành công nhất. Với sự thể hiện của lối đi riêng biệt
khiến tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” đã dũng cảm băng mình vượt qua thử
thách khắc nghiệt của thời gian bằng chính sức lực của nó. [6].
- Mặt khác, để việc tiếp thu của học trị có chất lượng và hứng thú hơn nữa,
mỗi bài học cũng cần tìm ra hướng tiếp cận riêng, độc đáo. Bởi lẽ, mỗi tác phẩm
văn học ở thời kì nào đều chứa đựng một thơng điệp thẩm mĩ giàu tính hiện đại,
giàu giá trị nhân văn. Tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ là
ca ngợi phẩm chất cao đẹp của hình tượng cái tơi "ngất ngưởng" với tâm hồn tự
do, phóng khống, thái độ tự tin đầy bản lĩnh của con người có nhu cầu muốn
thốt khỏi vịng cương tỏa đã tìm đến sự khẳng định con người cá nhân. Nhiệm
vụ của giáo viên là phải xích gần khoảng cách giữa tác phẩm với người học. Có
như vậy mỗi giờ học văn sẽ khơng cịn là sự thờ ơ đón nhận của học trị.
3.2. Đề xuất:
Qua thực nghiệm giảng dạy, tơi có những đề xuất sau:
- Dạy học văn theo phương pháp thể loại đã tìm kiếm con đường đi kích
thích hứng thú học tập của học sinh, xóa đi sự đơn điệu, nhàm chán. Vì vậy nên
tăng cường việc trao đổi trong nhóm, tổ chun mơn để tìm ra cách tiếp cận tác
phẩm phù hợp với thực tế địa phương và đối tượng học sinh.
- Đẩy mạnh công tác chuyên môn, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
tạo động lực thúc đẩy sự tì tịi sáng tạo của giáo viên.
- Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại trường THPT, tôi
rất mong đồng nghiệp của mình có những hướng tiếp cận văn bản mới sao cho
đáp ứng được nhu cầu dạy học hiện nay cũng như giúp học sinh thật sự hứng thú

với việc học tập môn Ngữ văn.
16

download by :


Với đóng góp nhỏ trên, tơi mong rằng sẽ được đồng nghiệp tham khảo, góp
ý, giúp tơi hồn thiện hơn nữa mảng đề tài này để tiết dạy 13 "Bài ca ngất
ngưởng" có hiệu quả hơn, thực sự đem lại hứng thú cho học trị.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày tháng 5 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Ký tên

Trần Thị Sơn

17

download by :


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].. Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp (ĐHSPKT TPHCM)
[2]. Giới thiệu một số phương pháp dạy học cải tiến (ĐHKHTN - ĐHQG
TPHCM)

[3].. Dạy học tích hợp (Nguyễn Thị Thúy Hồng - Bộ GD&ĐT)
[4]. Phương pháp dạy học hiện đại (NXB Giáo dục 2001)
[5]. Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm (Bộ GD&ĐT - NXB Hà
Nội)
[6]. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên - Bộ GD&ĐT - NXB Giáo dục.
[7]. Cấu trúc năng lực Văn - Giáo sư Phan Trọng Luận.
[8]. Dạy học Văn ở trường phổ thông (Nguyễn Thanh Hương - NXB ĐHQG
Hà Nôi 2001)
[9]. Phương pháp dạy học Văn (Phan Trọng Luận - NXB ĐHQG 1999)
[10]. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại (Nguyễn Viết
Chữ - NXB ĐHQG 2001)
[11]. Biên thảo của Lê Thước về Nguyễn Công Trứ.
[12]. Bài giảng văn học THPT – Huỳnh Tấn Kim Khánh - NXB trẻ.
[13]. Nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận – Nhiều tác giả - 2005 - NXBGDD.
[14]. Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
NXB ĐHQG HN, 1997
[15]. Ngữ văn 11 - Tập 1 (NXB GD)
[16]. Để học tốt Ngữ văn 11 tập 1 - NXB Hà Nội 1997.
[17]. Sách GV Ngữ văn 11 tập 1 – NXBGD
[18]. Ngồi ra cịn tham khảo một số SKKN của đồng nghiệp.

18

download by :


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Tiếp cận văn bản "Bài ca ngất ngưởng" của
Nguyễn Cơng Trứ từ góc độ thể loại.
(Chương trình Ngữ Văn 11 - Cơ bản)

Người thực hiện: Trần Thị Sơn
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Ngữ Văn

THANH HỐ, NĂM 2019
19

download by :


20

download by :



×