SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TIẾP CẬN “BÀI CA NGẤT NGƯỞNG” CỦA
NGUYỄN CÔNG TRỨ Ở PHƯƠNG DIỆN
GIỌNG ĐIỆU TRỮ TÌNH.
Người thực hiện:
TRẦN THỊ PHƯƠNG DUNG.
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục: 1
- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................. R
(Ghi rõ tên bộ môn)
- Lĩnh vực khác: ....................................................... 1
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
1 Mơ hình
1 Phần mềm
1 Phim ảnh
1 Hiện vật khác
Năm học: 2011-2012
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: TRẦN THỊ PHƯƠNG DUNG
2. Ngày tháng năm sinh: 26-07-1977
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: 120/2, Khu phố 7, phường Tân Hịa, thành phố Biên Hồ,
tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thoại: 061.3834289 (CQ)/
6. Fax:
(NR); ĐTDĐ: 01235527846
E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2000
- Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Ngữ văn
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy.
Số năm có kinh nghiệm: 11
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 01
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình Ngữ văn lớp11, học sinh được tiếp cận với khá
nhiều tác phẩm thơ trữ tình cả ở phần văn học trung đại và phần văn học
hiện đại. Cái tơi trữ tình ở mỗi giai đoạn lại được thể hiện dưới nhiều hình
thức nghệ thuật và giọng điệu khác nhau, tạo nên những phong cách, cá
tính độc đáo riêng cho từng nhà thơ. Nắm được nội dung và hình thức nghệ
thuật của thơ trữ tình khơng phải là điều dễ dàng đối với học sinh. Bởi vì
có nhiều học sinh chỉ quan tâm đến nội dung mà xem nhẹ hoặc khơng tìm
hiểu hình thức nghệ thuật của bài thơ. Điều này dẫn đến một thực trạng là
học sinh không thấy hết được cái hay, cái độc đáo của thơ trữ tình cả về
nội dung lẫn hình thức nghệ thuật nên thường diễn nơm thơ trữ tình khi
cảm nhận thơ. Chính vì thế, trong q trình giảng dạy và tiếp xúc với học
sinh, tơi nhận thấy một trong những yếu tố quan trọng giúp học sinh có thể
cảm nhận thơ trữ tình tốt hơn đó là giúp các em nắm được sự đa dạng của
giọng điệu trong thơ trữ tình.
Hơn nữa, giọng điệu trong thơ trữ tình ở những giai đoạn văn học
khác nhau lại có những đặc trưng khác nhau. Vì vậy, trong phạm vi giới
hạn của đề tài, tơi xin có một vài đóng góp ý kiến về việc tiếp cận bài ca
trù “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ ở phương diện giọng
điệu trữ tình để phần nào giúp hoc sinh nắm bắt tác phẩm một cách dễ
dàng hơn.
II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1.Cơ sở lí luận:
Theo GS Trần Đình Sử: giọng điệu nhà thơ là biểu thị lập trường, tư
tưởng, cảm xúc chủ thể, là nguyên tắc lí giải và chiếm lĩnh hiện thực của
thi nhân. Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: giọng điệu là một yếu tố “động”,
thể hiện thần thái, phong cốt của nghệ sĩ. Nguyễn Đăng Mạnh nhìn nhận:
giọng điệu là một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nghệ sĩ.
Giọng điệu cũng là một lĩnh vực được M.B.Khrav-chenko đặc biệt
quan tâm. Trong “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học” ông cho rằng: giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ
thuật, một nhà văn tài năng bao giờ cũng phải tạo ra được một giọng điệu
độc đáo, giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, góp phần tăng giảm hiệu
suất cảm xúc của tác phẩm văn chương, giọng điệu thể hiện ở nhiều cấp
độ khác nhau: từ ngữ, kết cấu, cách thức tạo nhịp, gieo vần, cách sử dụng
môtip và xây dựng hình tượng …
Như vậy, giọng điệu trong thơ trữ tình là sản phẩm sáng tạo đích
thực của nhà thơ. Giọng điệu kết hợp với các yếu tố hình thức khác nhau
tạo âm hưởng chung cho cả bài. Bên cạnh giọng điệu cá nhân cịn có giọng
điệu của thời đại. Giọng điệu cá nhân chịu sự quy định, ảnh hưởng của thời
đại đồng thời cũng góp phần làm phong phú, hoặc thay đổi cấu trúc giọng
điệu thời đại.
2.Nội dung,biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
2.1.Khái quát về thơ trữ tình:
Thơ là một thể loại văn học ra đời rất sớm, phạm vi phổ biến sâu
rộng, tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên
tưởng, tượng phong phú. Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm
hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm,
truyền cảm của thơ được tạo nên bởi ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu
hình ảnh, nhạc điệu…
Thơ trữ tình đi sâu vào tâm tư, tình cảm, những chiêm nghiệm của
con người về cuộc đời. Là tấm gương của tâm hồn, tiếng nói của tình cảm
con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Lê Quý Đôn
khẳng định: “thơ phát khởi từ trong lịng người ta”. Đuy Be-lây thì cho
rằng “thơ là người thư kí trung thành của những trái tim”. Để cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của thơ, ta khơng thể khơng nhìn nhận tầm quan
trọng của giọng điệu trong thơ trữ tình.
2.2 Giọng điệu trong thơ trữ tình:
-Giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo nên phong cách nghệ thuật, thể hiện
lập trường xã hội, thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, sở trường ngơn ngữ
tác giả. Nó gắn chặt với đối tượng giao tiếp và cách thức tổ chức lời lẽ diễn
đạt.
-Giọng điệu thơ được trợ giúp của nhiều yếu tố như: ngữ điệu, nhịp
điệu và nhạc điệu.Vì vậy, khi tìm hiểu thơ trữ tình, cần giúp học sinh phân
định được sự khác nhau giữa các yếu tố này:
+Ngữ điệu: là một phạm trù của ngôn ngữ học, thực hiện các chức
năng phân biệt các kiểu thông báo, phân biệt các bộ phận của phát ngơn.
Giọng điệu và ngữ điệu có mối quan hệ chi phối và phụ thuộc lẫn nhau.
+Nhịp điệu: là sự lặp lại có tính chất chu kì, cách qng hoặc ln
phiên theo thời gian của các hiện tượng ngôn ngữ nhằm thể hiện sự cảm
nhận thẩm mĩ về thế giới trong sự vận động của nó. Maiacovxki đã từng
khẳng định: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu
thơ.”
+Nhạc điệu: được tổ chức nhờ nhiều yếu tố: ngắt nhịp, gieo vần,
phối thanh…làm cho câu văn thêm hay, thêm réo rắt và trầm bổng…
2.3 Giọng điệu trữ tình trong thơ ca trung đại:
Như chúng ta đã biết, văn học trung đại mang tính quy phạm rất cao.
Điều này thể hiện rất rõ ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật của tác
phẩm. Vì vậy, tài nghệ của các nhà thơ trung đại được bộc lộ chủ yếu ở
việc dùng từ, đặt câu, nghệ thuật điểm nhãn, tạo sự cân xứng, hài hòa trong
thơ...
V.Zhirmunxk đã từng nhận xét: nhà thơ trung đại ít có nhu cầu bộc
lộ cá tính, các thi nhân trung đại tập trung làm thơ hơn là sáng tạo thơ.
Khơng có ý thức bộc lộ, giải phóng cá tính bởi thế thơ trữ tình trung đại là
thơ trữ tình điệu ngâm. Con người trong thơ trung đại là con người siêu cá
thể chứ không phải con người phi ngã. Con người tồn tại như một phần
của vũ trụ, quan hệ gắn bó, cảm ứng lẫn nhau.
Nhưng trong thực tế, văn học trung đại ở thời kì cuối đã xuất hiện
nhiều tài năng lỗi lạc, tạo nên những giọng điệu thơ ca hết sức độc đáo.
Yếu tố cá nhân bắt đầu manh nha bộc lộ qua thể Hát nói. Với thơ hát nói,
mặc dù thiếu vắng chủ thể trữ tình dưới dạng trực tiếp nhưng tính cách chủ
thể đã in hằn lên câu chữ, khẩu khí, giọng điệu: đó là con người ngạo nghễ,
ngang tàng, thốt khỏi mọi cương tỏa, thách thức với cuộc đời, khẳng định
tài năng, phẩm chất. Điều này thể hiện rõ trong “Bài ca ngất ngưởng” của
Nguyễn Công Trứ.
2.4. Giọng điệu trữ tình trong “Bài ca ngất ngưởng” –Nguyễn Cơng
Trứ.
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
-Nguyễn Cơng TrứVũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ dỗn Thừa Thiên.
Đơ mơn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì,
Bụt cũng nực cười ơng ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Cũng như những bài ca trù khác , “ Bài ca ngất ngưởng” có sự kết
hợp của cả yếu tố Hán văn và Việt văn. Giọng điệu vừa nghiêm trang vừa
hóm hỉnh. Qua đó, chân dung nhân vật trữ tình được tái hiện khá đầy đủ
với hình ảnh “Ơng ngất ngưởng” trên con đường hoạn lộ và ngay cả khi
cáo quan về hưu. “Ngất ngưởng” ngay trong cả suy nghĩ hành động.
2.4.1. Tìm hiểu về tác giả :
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt
hiệu Hi Văn, xuất thân trong một gia đình Nho học, người làng Uy Viễn,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ đến năm 1819, ơng sống trong
nghèo khó và chính thời gian này, ơng có điều kiện tham gia sinh hoạt hát
ca trù vốn khá phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông.
Năm 1819, ông thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Nhưng con
đường hoạn lộ của ông không được bằng phẳng. Ông được thăng chức và
bị giáng chức thất thường, có lúc được bổ nhiệm làm Tổng đốc Hải An, có
lúc bị giáng chức làm lính thú ở Quảng Ngãi.
Là nhà nho tài tử, cá tính độc đáo, sống bản lĩnh, phóng khống, tự
tin. Khí phách ngang tàng nhiều lúc trở thành ngông nghênh. Đây cũng là
biểu hiện của một ý thức cá nhân phóng túng, thấy mình hơn người.
Sáng tác nhiều thể loại nhưng ơng đặc biệt u thích và sở trường
thể hát nói. Ơng là người đầu tiên đã có cơng đem đến cho hát nói một nội
dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó. Góp phần quan trọng cho
việc phát triển thể hát nói trong văn học Việt Nam.
2.4.2. Tìm hiểu tác phẩm :
*Hồn cảnh sáng tác:
Bài thơ được viết trong thời kì tác giả cáo quan về hưu, ở ngồi
vịng cương tỏa của quan trường và những ràng buộc lễ giáo phận sự, có
thể bộc lộ hết tâm tư phóng khống của bản thân đồng thời là cái nhìn
mang tính tổng kết về cuộc đời phong phú.
* Thể loại hát nói:
Hát nói (ca trù) là một thể thơ vận luật tương đối tự do, phóng
khống kết hợp với song thất lục bát, lục bát với kiểu nói lối của hát chèo.
Lời thơ của hát nói gồm hai phần: mưỡu và lời của lối hát nói:
-Mưỡu: nói lên ý bao trùm của cả bài hát nói gồm 1 hay 2 câu lục bát.
-Lời thơ của hát nói: gồm 11 câu chia làm ba khổ:
+Khổ đầu có 4 câu, vần cuối mỗi câu lần lượt là: trắc, bằng, bằng, trắc.
+Khổ giữa có 4 câu, vần cuối mỗi câu lần lượt là: trắc, bằng, bằng, trắc.
+Khổ cuối có 3 câu, vần cuối mỗi câu lần lượt là: trắc, bằng, bằng.
Thể hát nói có hình thức tự do, phù hợp với quan niệm mới mẻ về
phong cách sống. Tính chất tự do, phóng túng của nhịp điệu, vần , đối
xứng của hát nói được khai thác để diễn đạt nội dung tự sự và chất trữ tình
của bài thơ.
“Bài ca ngất ngưởng”gồm 19 câu dôi hai khổ, được viết theo lối tự
thuật, tự nhìn nhận và đánh giá bản thân với giọng điệu tự hào, sảng khoái,
tự tin, ngạo nghễ và thách thức.
2.4.3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
Có thể nói, từ ngữ đáng chú ý nhất của bài thơ đó là từ “ngất
ngưởng”. Đây là từ ngữ xuất hiện nhiều nhất, xuyên suốt bài thơ (từ nhan
đề đến cuối các câu: 4,8,12 và giữa câu 19). Vì vậy, giáo viên cần giúp học
sinh hiểu rõ khái niệm “Ngất ngưởng” ở đây là chỉ một tư thế, một thái độ,
một tinh thần, một phong cách sống vượt lên thế tục, vượt lên mọi lề lối
thông thường. Đây cũng chính là cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
2.4.4.Giọng điệu tự tin, đề cao và khẳng định cái tôi trước cuộc đời:
(câu 1,2)
Bài thơ được mở đầu bằng một câu thơ chữ Hán có tính chất như
một tun ngơn, thể hiện cái chí làm trai của tác giả:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
(Mọi việc trong khoảng trời đất này đều là của ta)
để khẳng định, đề cao vai trò, trách nhiệm, danh phận của cá nhân trước
cuộc đời. Đây cũng là điều được Nguyễn Công Trứ nhắc đến rất nhiều
trong các sáng tác của ông “Vũ trụ chức phận nội” (việc vũ trụ là phận sự
của ta –Phận sự làm trai), “Trong vũ trụ đã đành phận sự” (Chí nam nhi).
Theo Nguyễn Công Trứ, kẻ làm trai phải làm nên việc lớn, “phải có danh
gì với núi sơng”, phải được lưu danh trong sử sách. Sự tự ý thức này được
thể hiện qua giọng điệu thơ hết sức khẳng khái , tự tin vào bản lĩnh, khao
khát được cống hiến tài năng, sức lực, trí tuệ để giúp dân, giúp nước.
Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn công Trứ, ông tự xưng danh như
một cách để khẳng định bản thân trước cuộc đời: “Ông Hi Văn tài bộ đã
vào lồng”. Cách thức khẳng định cá nhân này ta cũng có thể thấy được ở
một số tác giả khác trong văn học trung đại như Hồ Xuân Hương trong bài
Mời trầu: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của xuân Hương mới quệt rồi”
Hay ở Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Nhưng chưa ai vừa xưng danh lại vừa khẳng định tài năng của bản thân với
giọng điệu vô tư, hồn nhiên và khẳng khái đến như vậy. Đó phải chăng là
nhiệt huyết của tác giả đối với cuộc đời. Tự đề cao tầm quan trọng và tài
năng của bản thân để thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ đối với quê hương,
đất nước.
2.4.5.Giọng điệu tự hào, sảng khoái khẳng định tài năng cá nhân trên
con đường hoạn lộ: (câu 3-6)
Bằng việc sử dụng hệ thống từ Hán -Việt kết hợp với các câu thơ
ngắn, dài khác nhau, cách ngắt nhịp và nghệ thuật điệp từ , Nguyễn Công
Trứ đã tái hiện lại con đường học hành, thi cử lẫn con đường hoạn lộ của
bản thân với những thành tích đáng khâm phục song cũng đầy những bước
thăng trầm bằng giọng điệu thơ tự hào, sảng khoái, uy nghiêm, trang trọng
và hết sức hãnh diện:
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây,cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”
Khẳng định tài năng lỗi lạc, xuất chúng, danh vị xã hội vẻ vang.
Điều này cho thấy tác giả có ý thức sâu sắc về bản thân, về chốn quan
trường và rộng hơn là cả xã hội thời bấy giờ. Qua đó trực tiếp thể hiện thái
độ, phong cách sống “ngất ngưởng”của mình. Sự tự ý thức này báo hiệu
sự đòi hỏi bức thiết về sự xuất hiện và khẳng định cái tơi trong văn học
cũng như ngồi đời.
2.4.6.Giọng điệu hóm hỉnh, lạc quan, yêu đời khi giã từ chốn quan
trường: (câu 7-18)
Nguyễn Cơng Trứ là người có cá tính độc đáo. Đã làm thì làm hết
sức mà đã chơi thì chơi cũng hết mình. Đoạn đời treo ấn trả triều đình có
lẽ là đoạn đời có nhiều điều thú vị, bất ngờ nhất, được tái hiện bằng một
giọng điệu hết sức hóm hỉnh, lạc quan, yêu đời, vượt lên những lề lối thông
thường, sống “ngất ngưởng” giữa đời thường:
“Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Ngay cả trong quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện
một cái tôi “ngất ngưởng”, phóng túng, tơ đậm tính cách con người ơng:
chẳng quan tâm đến chuyện được- mất, chẳng bận lịng vì kẻ khen- chê,
trước sau một lịng giữ trọn đạo vua tơi. Giọng điệu thơ thanh thản như
chính thái độ sống của ơng vậy:
“Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”.
2.4.7.Giọng điệu thách thức, khẳng định bản lĩnh: (câu 19)
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Với giọng điệu thách thức, câu thơ kết như khẳng định một lần nữa cá
tính, sự tự tin, bản lĩnh mạnh mẽ của một con người có tâm hồn tự do,
phóng khống, từng làm nên sự nghiệp lớn và ít nhiều có sự phá cách về
quan niệm sống, vượt qua những khuôn khổ khắt khe của lễ giáo phong
kiến, theo đuổi cái tâm tự nhiên, ngạo nghễ, ngất ngưởng trước triều đình
và cuộc đời.
3. Kết luận:
Giọng điệu trong “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ rất
sôi nổi, mạnh bạo bởi cái nguồn cảm hứng mau lẹ, bởi phong cách phóng
túng ngang tàng, bởi lối diễn đạt hùng mạnh bằng những hình ảnh, âm
thanh sống động. Nếu ngồi đời, Nguyễn Cơng Trứ là con người hành
động, thì trong thơ ơng, nhiều cảm xúc đều được “biểu hiện bằng cử
động”(Phan Cơn và Lê Trí Viễn, lịch sử Văn Hóa Việt Nam tập 3, Giáo
dục, Hà Nội,1976, tr. 293)
Qua giọng điệu của bài thơ, người đọc có thể hình dung con người
Nguyễn Cơng Trứ trong “ơng ngất ngưởng”: là một nhà nho tài tử ở hậu
kì văn học trung đại Việt Nam, trung thành với lí tưởng trí quân trạch dân,
cuộc đời làm quan đầy những bước thăng trầm, nhưng có cá tính độc đáo,
phong cách sống phóng khoáng, tự tin, đầy bản lĩnh.
III.HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
-Học sinh tiếp thu kiến thức cách dễ dàng hơn, hiểu biết sâu hơn
về cá tính độc đáo của Nguyễn Cơng Trứ qua giọng điệu trữ tình trong
bài thơ.
-Học sinh có ý thức tự bồi dưỡng năng lực tự học của bản thân,
tự tìm hiểu thêm về cuộc đời cũng như phong cách sáng tác của tác giả.
-Học sinh có thêm điều kiện để so sánh giọng điệu trữ tình trong
thơ Nguyễn Công Trứ và một số các tác giả khác trong văn học trung đại.
- Học sinh có thể học tập thái độ sống tích cực của tác giả, ý
thức trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội.
IV.ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
1. Đối với giáo viên:
-Chú trọng đến từng đối tượng học sinh để có những cách thức tiếp
cận vấn đề phù hợp với đặc điểm và trình độ của học sinh.
-Khuyến khích các em tự học nhóm, tự tìm tài liệu học tập, phát huy
tính tự giác trong học tập của các em.
-Liên hệ vấn đề giảng dạy với thực tiễn cuộc sống để tạo hứng thú
trong giờ học cho học sinh.
2. Đối với học sinh:
-Phải biết tự giác trong học tập, đọc và tìm hiểu kĩ văn bản trước khi
lên lớp.
-Biết tham khảo và xử lí tài liệu.
-Tích cực xây dựng bài học, mạnh dạn đề xuất những ý kiến, đóng góp
mới mẻ, những băn khoăn, thắc mắc cần giải đáp.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giọng điệu trong thơ trữ tình – Nguyễn Đăng điệp- NXB Văn học Hà
Nội 2002.
2. Văn học trung đại Việt Nam – GS.Lê Trí Viễn, PTS.Đoàn Thu Vân,
GV. Lê Thu Yến, GV. Lê văn Lực, GV. Phạm Văn Phúc.- khoa Văn
ĐHSP TPHCM 1997.
3. Bài giảng văn học THPT – Huỳnh Tấn Kim Khánh – NXB Trẻ 2000.
4. Tiếng Việt –Sách giáo viên 11 –Hồng Dân (chủ biên) – NXBGD 2000.
5. SGK Ngữ văn 11 – Phan Trọng Luận (chủ biên) – NXBGD 2007.
6. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng ngữ văn 11 –
BGDVĐT- NXBGDVN – 2010.
7. 131 bài văn chọn lọc 11 – Hồng Vân, Hương Trà – NXB Thanh Hóa2001.
NGƯỜI THỰC HIỆN
Trần Thị Phương Dung