Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.63 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HOẰNG HĨA 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“ỨNG DỤNG CƠNG NGHỆ THƠNG TIN TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”

Người thực hiện: Lương Thị Hạnh
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc mơn: Lịch sử

THANH HĨA, NĂM 2019

1

download by :


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài….......………………...... Trang 1
1. 2. Mục đích nghiên cứu …....……………… Trang 2
1. 3. Đối tượng nghiên cứu................................... Trang 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................ Trang 2
1. 5. Những điểm mới của SKKN...................... Trang 2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận………………………………

Trang 2



2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN … Trang 5
2. 3. Các giải pháp đã thực hiện để “Ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông……….… Trang 6
2. 3.1. Ý nghĩa của việc ứng dụng CNTT trong dạy học LS… Trang 6
2. 3. 2. Một số ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử….. …

Trang 10

- Sử dụng Internet trong dạy học lịch sử ở trường THPT … Trang 10
- Sử dụng một số phần mềm và các loại CD Rom…..

Trang 10

- Một số nguyên tắc khi ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử ở
trường THPT……………………………………………
Trang 11
2. 3. 3. Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
lịch sử ở trường THPT qua thực tế giảng dạy ……………… Trang 12
2. 3. 4. Kiểm chứng hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong dạy học
lịch sử ở trường THPT qua thực tế giảng dạy........................... Trang 17
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường................................. Trang 18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Trang 19

3.1. Kết luận ………………………………………… Trang 19
3.1. Kiến nghị………………………………………… Trang 20
Tài liệu tham khảo


2

download by :


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông là một quá trình sư phạm
đa dạng, phức tạp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên và học
sinh. Những hoạt động đó nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững tri thức,
phát triển tư duy lịch sử, qua đó giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách học
sinh. Cũng như các môn học khác ở trường THPT (trung học phổ thơng), mơn
Lịch sử có nhiệm vơ quan trọng trong việc hướng tới đào tạo một thế hệ trẻ
trở thành người làm chủ nước nhà, có trình độ, có văn hố, đáp ứng những
nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Song
trên thực tế, việc giảng dạy lịch sử ở trường THPT nhiều năm trước cho thấy
mục tiêu giáo dục đặt ra chỉ đạt ở mức rất khiêm tốn. Vậy làm thế nào để phát
huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử nói chung
và ở bậc THPT nói riêng? Câu hỏi này được đặt ra và bước đầu tìm được lời
giải đáp khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra chủ trương đổi mới phương pháp
dạy học với tinh thần: "Phải đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các công nghệ tiên tiến và phương pháp hiện đại hố vào
q trình dạy học’’. Ngày nay, khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ
vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Với xu thế phát
triển của thời đại, ứng dụng CNTT (cơng nghệ thơng tin) trong dạy học nói
chung, dạy học lịch sử nói riêng là một yêu cầu cấp bách. Việc ứng dụng
CNTT vào dạy học là việc làm phù hợp với mục tiêu, định hướng trong đổi
mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Đối với môn Lịch sử, việc ứng dụng CNTT

trong giảng dạy cũng chính nhằm thực hiện tinh thần ấy. Công nghệ thông tin
sẽ là một ưu thế và yếu tố trực quan đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp
thu, hiểu và ghi nhớ các sự kiện lịch sử mà học sinh được học. Cùng với đầu
tư trang thiết bị thì đổi mới phương pháp trong dạy học bằng việc ứng dụng
CNTT dạy học là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa để nâng cao chất
lượng dạy học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong giáo dục đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học, coi CNTT
như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở
các mơn. Đó chính là lý do khách quan khiến tôi chọn vấn đề này làm nội
dung nghiên cứu trong sáng kiến kinh nghiệm của mình.
Bên cạnh lý do trên, bản thân tôi nhận thấy: Việc ứng dụng CNTT
trong dạy học nói chung và trong giảng dạy lịch sử nói riêng là hướng tích
cực nhất, hiệu quả nhất nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục. Điều đó địi hỏi
người giáo viên phải chủ động học hỏi, mạnh dạn tìm tịi và áp dụng những
thành tựu CNTT vào cơng việc giảng dạy để bắt kịp với xu thế phát triển của
thời đại, đáp ứng phần nào yêu cầu của công tác đổi mới giáo dục. Trong
nhiều năm qua, Sở Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện việc ứng dụng
CNTT trong giảng dạy ở tất cả các cấp học, các mơn học trong đó có mơn
3

download by :


Lịch sử. Trong thực tế giảng dạy lịch sử ở trường THPT Hoằng Hóa 4, tơi
thấy việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử ở trường THPT là vô cùng
cần thiết. Vì vậy, tơi xin đưa ra một vài ý kiến đóng góp xung quanh vấn đề
này trên cơ sở thực hiện một đề tài nhỏ với nhan đề: "Ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thơng ".
2.2. Mục đích nghiên cứu
Với nhan đề "Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở

trường trung học phổ thông". Đề tài sẽ làm rõ ý nghĩa của việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy - học
lịch sử ở trường THPT. Từ thực trạng giảng dạy lịch sử hiện nay, đề tài cũng
sẽ đưa ra một số ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử bậc THPT cùng
những đề xuất để nhằm góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nói
chung và dạy học lịch sử nói riêng.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công nghệ thơng tin cùng những
ứng dụng của nó nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh trong việc dạy và
học môn lịch sử ở trường THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi kết hợp nhiều phương pháp khác nhau:
Phương pháp thu thập thông tin bằng cách tri giác trực tiếp, phương pháp điều
tra, tổng hợp tài liệu, tổng kết kinh nghiệm. Trong chừng mực nhất định, tơi
cịn sử dụng phương pháp liên ngành, thống kê, tổng hợp, so sánh để làm sáng
tỏ các nội dung trình bày. Ngồi ra, tơi cịn tiến hành phương pháp nghiên cứu
thực tiễn: Thiết kế bài dạy, quan sát, dự giờ, khảo sát, thực nghiệm.
1. 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài - Nội dung của SKKN được tôi phát triển, nâng cao trên cơ sở
sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi đã làm ở nhiều năm trước.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
- Căn cứ vào mục tiêu giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước ta
Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ
thuật và công nghệ thông tin, việc đào tạo ra những con người có năng lực, có
trình độ nhận thức cao đang là mục tiêu hàng đầu của nhân loại trong thế kỉ
XXI. Xu thế chung đã đưa giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, thành lĩnh
vực được nhiều quốc gia chú trọng đầu tư. Đại hội lần thứ VII (1991) của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, đồng thời đã vạch ra phương hướng chung để đổi mới sự nghiệp giáo

dục. Từ thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước thời kì đổi mới, Đảng và nhà
nước ta đã xác định nhiệm vụ của giáo dục là nhằm “nâng cao dân trí, đào
4

download by :


tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng những con người mới năng động
sáng tạo”, “Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng tồn diện và có năng
lực chun mơn sâu, có tri thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế
nhiều thành phần”. (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII).
Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu
phải đổi mới phương pháp dạy học. Nghị quyết TW2, khoá VIII đã xác định
mục tiêu của việc đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo là nhằm: “khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình
dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học
sinh, nhất là sinh viên đại học.”
Với những chủ trương đó của Đảng và Nhà nước, CNTT đã mở ra triển
vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những
phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo
dự án, dạy học phát hiện  và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng
dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm,
dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông.
Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với máy tính, với Internet, dạy học theo
hình thức lớp học phân tán qua mạng, dạy học qua cầu truyền hình. Nếu trước
kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ
hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các
phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều
đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận động thì nay chú

trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc
chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang  “lấy học sinh làm trung tâm”
sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Chính vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy là cần
thiết. Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 07-10 - 2001 về việc đẩy
mạnh ứng dụng CNTT  phục vụ sự nghiệp Cơng nghiệp hóa và Hiện đại hóa
đã chỉ ra trọng tâm của ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT
và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo.
- Căn cứ vào đặc trưng mơn lịch sử
Lịch sử là q trình phát triển khơng ngừng của xã hội lồi người từ khi
con người xuất hiện. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra một lần duy
nhất gắn với một khoảng thời gian, không gian và nhân vật cụ thể. Trong học
tập lịch sử, học sinh không thể “trực tiếp quan sát” được các sự kiện, hiện
tượng, giáo viên cũng không thể tiến hành thí nghiệm lịch sử để dựng lại quá
khứ đúng như nó từng tồn tại mà chỉ giúp học sinh hiểu nó thơng qua các biểu
tượng lịch sử được hình thành trên cơ sở các sự kiện lịch sử mà giáo viên
cung cấp. Với một giờ văn, học sinh có thể được nghe cơ giáo tả về vẻ đẹp
của một hiện thực nào đó: một áng mây tím nhạt lúc hồng hơn, một cánh
5

download by :


đồng lúa xanh mát tươi tắn như cô gái tuổi dậy thì, một dịng sơng q hương
với những điệu hị tha thiết…Tất cả đều hiện ra trước mắt các em một cách dễ
dàng, chân thực bởi đó là những hiện thực các em được nhìn, được cảm, được
tiếp xúc hàng ngày. Thế nên, việc tái tạo hình ảnh của chúng đối với học sinh
khơng gặp mấy khó khăn. Nhưng ở mơn lịch sử thì lại khác, thơng qua lời
nói, thơng qua những biện pháp sư phạm, giáo viên cung cấp cho các em
những hiểu biết về quá khứ. Để quá khứ lịch sử trở nên sống động không khô

khan, để những biểu tượng lịch sử được tái hiện chân thực, chính xác và để đi
đến những khái niệm đúng, để rút ra quy luật, bài học lịch sử thì giáo viên
phải kích thích được tư duy học sinh, phải giúp các em tích cực làm việc. Có
như thế, học sinh mới không dừng lại ở mức biết lịch sử mà đạt đến hiểu lịch
sử và vận động những hiểu biết ấy vào thực tiễn, để lịch sử thực sự "trở thành
cơ giáo của cuộc sống, là bó đuốc soi đường đi đến tương lai’’. Đó là nguyên
tắc cơ bản của hoạt động dạy nói chung và dạy học lịch sử nói riêng.
Trong học tập lịch sử cũng như trong mọi môn học khác phải đồng thời
tiến hành ba nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển kỹ năng. Thực hiện
một cách nhuần nhuyễn ba nhiệm vụ có liên quan đến nhau địi hỏi chúng ta
phải phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập.
Tuy nhiên, việc phát huy tính tích cực trong học tập lịch sử không phải là bỏ
công sức để lượm lặt sự kiện quá khứ mà phải hiểu quá khứ để "bắt quá khứ
trả lời hiện tại và dự đoán tương lai".
Trên thực tế, quá trình nhận thức của học sinh phải trải qua nhiều khâu,
nhiều giai đoạn khác nhau, như Lênin đã khẳng định: tức là bắt đầu từ "trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng", rồi từ "tư duy trừu tượng đến thực
tiễn". Để mỗi khâu của quá trình nhận thức đạt hiệu quả thì giáo viên nói
chung và giáo viên lịch sử nói riêng phải phát huy được tính tích cực của học
sinh trong học tập, hay nói cách khác, phải đổi mới phương pháp dạy học. Đó
chính là con đường để dẫn đến chân lý khoa học.
Tuy nhiên, để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch
sử, giáo viên phải làm cho học sinh thấy có hứng thú với mơn sử, thích học
sử. CNTT sẽ giúp giáo viên thực hiện điều đó. CNTT nói riêng và khoa học
cơng nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các
ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục đáp
ứng được hỏi cấp thiết của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách
phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học
hiện đại, phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực thành của học sinh.

Với thông tin được số hố và nối mạng, con người có thể tích hợp thơng tin
trong những “kho tin” khổng lồ được liên kết tích hợp với nhau, biến chúng
thành nguồn tài ngun q giá, có thể chia sẻ, trao đổi thơng tin trên phạm vi
tồn cầu một cách dễ dàng thơng qua Internet. Như vậy, với tác động của
CNTT và truyền thơng, mơi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác động mạnh
6

download by :


mẽ tới mọi thành tố của quá trình quản lý, giảng dạy, đào tạo và học tập dựa
trên sự hỗ trợ của CNTT. Mơn Lịch sử cũng khơng nằm ngồi ảnh hưởng đó.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
- Thực trạng giảng dạy lịch sử ở trường THPT
Tồn tại ở trường phổ thông với tính cách là một mơn khoa học, bộ mơn
lịch sử có tác động nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình cảm đạo
đức, phát triển năng lực nhận thức và hành động cho học sinh. Như chúng ta
đã nói, lịch sử là một mơn học đặc thù, kiến thức lịch sử là kiến thức về quá
khứ. Có những sự kiện đó diễn ra cách ngày nay hàng trăm, hàng ngàn năm
thậm chí lâu hơn nữa. Yêu cầu bộ mơn địi hỏi giáo viên phải tái hiện những
sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra trước mắt mình.
Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh phổ thông cũng hạn chế nên việc
sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện là một nguyên tắc
trong dạy học lịch sử. Trong lúc đó, các phương tiện trực quan phục vụ dạy
học lịch sử hiện nay cịn thiếu thậm chí khơng phù hợp. Thử lấy ví dụ về hệ
thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều hệ thống bản đồ, tranh ảnh
lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ Giáo dục phát hành là không đủ cho
các bài dạy. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu quá nhỏ không thể sử dụng
được. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc đơn điệu và thiếu đồng bộ,
chưa kể đến phim tài liệu thì hầu như khơng có. So với u cầu đặt ra của bộ

mơn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể
nói những phương tiện dạy học đó không đáp ứng được yêu cầu và không thể
tạo nên hứng thú học tập cho học sinh.
Về phía học sinh, đa số các em coi bộ môn lịch sử là “mơn phụ”. Vì
vậy, các em ít chú ý nghe giảng (và giáo viên cũng chỉ nói những nội dung
trong sách giáo khoa). Các em ghi chép một cách máy móc những gì giáo
viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc lịng những gì ng Photozoom để phóng lớn. Những bức ảnh sử dụng trong bài này được
cắt dán vào các slide theo dụng ý của giáo viên: ảnh tổng thống Dương Văn
Minh, ảnh nhân dân miền Nam hân hoan mừng ngày chiến thắng…
Khi xử lý lược đồ các chiến dịch: sử dụng chương trình Paint để xóa hết
những kí hiệu, chữ viết, các mũi tên,… để biến lược đồ trở thành lược đồ
câm, sau đó dùng PowerPoint  vẽ lại các đối tượng trên lược đồ và cho hiệu
ứng các đối tượng đó thành các đối tượng động. Hoặc ta có thể hoàn toàn vẽ
lại lược đồ rồi cho hiệu ứng các đối tượng. Với 3 lược đồ ở 3 chiến dịch: Tây
Nguyên, Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh, việc sử dụng các hiệu
ứng đối với các lược đồ câm đó tạo ra sự hứng thú cho học sinh khi giáo viên
trình bày diễn biến các chiến dịch trên lược đồ.
Một điều cần lưu ý khi xử lý tư liệu là: Nên đặt tất cả các hình ảnh, tư
liệu, phim kể cả bài giảng PowerPoint vào trong một thư mục trên máy tính.
Bởi vì nếu ta khơng làm như vậy khi copy thì các đoạn phim sẽ khơng hiển thị
và khi sao chép thì phải sao chép cả thư mục. Đối với phim, khi download về
thường có định dạng đuôi là flv, cần phải dùng phần mềm để chuyển flv sang
avi hoặc mpg mới đưa vào PowerPoint để trình chiếu được.
+ Ứng dụng CNTT để tích hợp chức năng nghe, nhìn, góp phần nâng
cao hiệu quả bài dạy lịch sử.
Dạy học lịch sử là một hoạt động mang tính đặc thù, một q trình sư
phạm phức tạp. Người học chỉ có thể hiểu quá khứ trên cơ sở các sự kiện lịch
sử. Việc cung cấp sự kiện càng cụ thể, càng giàu hình ảnh bao nhiêu thì người
học càng hứng thú và hiểu lịch sử bấy nhiêu. Cơng việc này địi hỏi giáo viên
thực sự tâm huyết với nghề. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật,

với những ứng dụng của CNTT vào quá trình dạy học thì điều này với giáo
viên khơng cịn là q khó. CNTT khơng những cho phép chúng ta truy cập,
17

download by :


tìm kiếm, xử lý tư liệu mà cịn giúp chúng ta tích hợp được các chức năng
nghe, nhìn, góp phần nâng cao hiệu quả của việc giảng day lịch sử ở trường
phổ thơng. Chúng ta có thể sử dụng phần mềm Microsoft PowerPonit để thiết
kế các slide minh hoạ các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong đó có chứa trang
ảnh, phim tư liệu, bản đồ động..., tạo những biểu tượng lịch sử rõ ràng, sống
động. Để tăng hiệu quả bài dạy, để tạo sự hứng thú cho học sinh và giúp các
em tích cực học tập, khi trình bày những sự kiện có hình ảnh động (diễn biến
trận đánh, chiến dịch) thì lời nói của giáo viên phải đi liền với các hiệu ứng và
tiếng động (nếu có) để cho các kênh này ln có sự kết hợp nhuần nhuyễn với
nhau.Ví như khi trình bày về diễn biến chiến dịch Tây Ngun, tơi kết hợp lời
nói của giáo viên với lược đồ chiến dịch, sử dụng các hiệu ứng để trình bày
diễn biến trên lược đồ, đồng thời trình chiếu ở một góc slide đoạn phim tư
liệu câm để minh hoạ cho lời nói của giáo viên. Hoặc khi giảng đến chiến
dịch Hồ Chí Minh, ở sự kiện xe tăng của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn
bộ Nội các Sài Gòn, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không
điều kiện, tôi thiết kế một slide trong đó có hình ảnh xe tăng ta tiến vào Dinh
Độc Lập, hình ảnh Dương Văn Minh và bút tích bản thảo lời tuyên bố đầu
hàng của tổng thống Dương Văn Minh. Đoạn phim tư liệu về chiến dịch Hồ
Chí Minh, tơi trích trong CD Rom Hồ Chí Minh tồn tập của NXB Chính trị
quốc gia là một tư liệu lịch sử có giá trị và rất hữu ích cho học sinh trong việc
tái tạo lại lịch sử và hình thành ở các em niềm tự hào dân tộc, có ý thức sống
xứng đáng với sự hy sinh của cha anh.
+ Một số lưu ý khi ứng dụng CNTT trong dạy học LS ở trường THPT

Để có thể áp dụng thành công CNTT vào giảng dạy, trước GV cần nắm
vững một số kỹ năng cơ bản nhất để soạn giáo án và thiết kế các bước lên lớp
một cách hợp lí và hiệu quả nhất trên giáo án điện tử. Các kỹ năng cơ bản cần
nắm như: Soạn thảo văn bản bằng MS Word; sử dụng mạng Internet và khai
thác mạng Internet; sử dụng phần mềm MS PowerPoint và gần đây nhất là kỹ
năng soạn thảo giáo án điện tử E-learning. Trong quá trình soạn giáo án điện
tử ứng dụng CNTT, tơi nhận thấy có những điểm cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, khi thiết kế các slide: Tuy giáo án điện tử có nhiều ưu điểm
nhưng cũng khơng thể tránh được những hạn chế nhất định. Một trong những
hạn chế của nó là do chạy lần lượt các slide nên không để lại dàn bài như viết
bảng. Khi soạn giáo án giáo viên có thể khắc phục hạn chế này bằng cách ở
mỗi slide, giáo viên nên để lại những đề mục chính của bài để học sinh nắm
được dàn ý cơ bản, bố cục của bài. Hoặc giáo viên có thể tạo một slide dàn ý
sau cùng để củng cố bài học. Cũng có những ý kiến cho rằng để khắc phục
hạn chế trên giáo viên nên kết hợp cơng cụ trình chiếu với ghi bảng. Một điều
cần lưu ý là nếu kết hợp hai hình thức trên với nhau giáo viên phải thực sự
nhuần nhuyễn, thành thao các thao tác, chủ động thời gian, kiến thức, công
nghệ và hoạt động học của học sinh. Nếu khơng chính điều đó sẽ gây mất thời
gian, giáo viên làm việc quá nhiều mà hiệu quả không cao. Kinh nghiệm của
18

download by :


tôi khi dạy bài 23 - tiết 2 lịch sử 12 là tơi kết hợp cả ghi bảng và trình chiếu.
Tuy nhiên, phần ghi bảng tôi chỉ viết tên các đề mục lớn. Trong các slide của
phần trình chiếu, tơi luôn để tên bài và đề mục của nội dung mình đang giảng
để học sinh dễ hình dung. Theo tơi, sự kết hợp các phương pháp truyền thống
và hiện đại một cách nhuần nhuyễn tất nhiên sẽ đưa lại chất lượng và hiệu quả
cao trong quá trình giảng dạy.

Thứ hai, khi tạo các hiệu ứng cho các nội dung thể hiện trên các
slide, không nên chọn các hiệu ứng quá phức tạp và cầu kì. Nhiều GV có thói
quen lựa chọn, có phần lạm dụng các hiệu ứng trình chiếu phức tạp trong một
slide và cho rằng điều đó sẽ nâng cao chất lượng tiết học, gây hứng thú cho
học sinh. Nhưng trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy như thế sẽ làm mất sự
tập trung chú ý của học sinh vào nội dung bài học, đôi khi làm cho các em
q phấn khích, trầm trồ mà khơng chú ý đến nội dung, lời nói của giáo viên.
Mặt khác, các hiệu ứng phải phù hợp với ý đồ sư phạm của GV: kiến thức
đưa ra lúc nào, nhằm mục đích gì, có như vậy bài giảng mới đạt hiệu quả giáo
dục như mong muốn. Trong các bài dạy sử dụng CNTT, tôi thường chọn cách
hiệu ứng đơn giản (Etrance - Blins), các dịng chữ hiện ra nhanh, gọn, khơng
làm mất sự tập trung chú ý của học sinh, không mất thời gian của bài dạy.
Ngoài ra, khi soạn bài giảng ứng dụng CNTT, giáo viên cũng cần chú ý
đến việc dùng màu nền, màu chữ, cỡ chữ cho phù hợp. Tránh dùng nhiều màu
sắc trang trí sặc sỡ, các ảnh động không cần thiết ở mỗi slide. Màu chữ không
chọn cùng tông màu với nền của slide, học sinh sẽ khó nhìn. Tên đề mục lớn,
phần ghi nhớ có thể để màu khác để phân biệt. Cỡ chữ có thể chọn cỡ từ 26
đến 28 là vừa phải (Nếu nhỏ q thì HS cuối lớp sẽ khơng nhìn thấy, lớn q
thì phải tốn nhiều slide, giáo viên khó cho học sinh thấy được tổng thể nội
dung bài dạy).
2. 3. 4. Kiểm chứng hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong dạy
học lịch sử ở trường THPT qua thực tế giảng dạy
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục đào tạo, những năm đây trường
THPT Hoằng Hóa 4 đã đưa CNTT vào trong giảng dạy. Bản thân tôi cũng đã
thực hiện nhiều tiết dạy có ứng dụng CNTT. Qua thực tế giảng dạy ở cả 3
khối 10, 11, 12, tôi nhận thấy, những tiết dạy có ứng dụng CNTT đem lại hiệu
quả cao hơn, học sinh hứng thú hơn, tích cực và chủ động hơn. Chẳng hạn
như khi giảng về chiến dịch Tây Ngun, tơi kết hợp lờii nói với việc dùng
các hiệu ứng để cho học sinh nhận thấy điểm tấn công chủ yếu của ta trong
chiến dịch này là Buôn Ma Thuột (dùng hiệu ứng cho học sinh thấy vị trí

Bn Ma Thuột trong khi nói). Để đảm bảo cho kế hoạch đánh Buôn Ma
Thuột chắc thắng, ta chủ trương đánh nghi binh ở Plâycu và Kon Tum ( tơi
dùng hiệu ứng kết hợp lời nói cho học sinh thấy 2 địa danh này). Với kế sách
này, ta đó thu hút hoả lực của địch về Plâycu và Kon Tum. Ngày 10 - 3 - 75,
ta tấn công Buôn Ma Thuột và giành thắng lợi (tôi dùng hiệu ứng cho hiện
19

download by :


các hướng tấn công của ta vào Buôn Ma Thuột sau đó dùng đọan phim tư liệu
về chiến dịch này cho học sinh xem). Tôi nhận thấy, với cách này, học sinh
tập trung ở mức cao nhất với bài giảng của người thầy, các em hứng thú trả
lời các câu hỏi của giáo viên đưa ra. Điều đó có nghĩa là, việc ứng dụng
CNTT trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng sẽ tạo ra hiệu quả
to lớn, đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
Sau bài giảng, tơi có cho học sinh làm bài kiểm tra để đo mức độ hiểu
bài và lấy ý kiến các em qua phiếu trắc nghiệm để kiểm chứng mức độ hứng
thú của các em với tiết dạy có ứng dụng CNTT. Kết quả như sau :
1. Kết quả kiểm chứng mức độ hiểu bài
STT

Lớp

Sĩ số

Điểm
giỏi

Điểm

khá

Điểm Điểm yếu,
TB
kém

Điểm từ TB
trở lên

1

12A5

43

12

26

5

0

43

2

12A6

42


17

22

3

0

42

3

12A10

43

14

23

6

0

43

2. Kết quả kiểm chứng mức độ hứng thú của các em với tiết dạy có
ứng dụng CNTT
STT


Lớp

Sĩ số

Rất thích

Thích

Khơng thích

1

12A5

43

25

18

0

2

12A6

42

27


15

0

3

12A10

43

26

17

0

Như vậy, nhìn vào những con số và kết quả khảo sát trên, chúng ta
nhận thấy các em đều rất hứng thú với giờ dạy có ứng dụng CNTT và ở
những giờ đó, các em rất hiểu bài. Điều đó thể hiện qua kết quả kiểm tra sau
bài giảng. Rõ ràng, CNTT đã đóng góp khơng nhỏ đến kết quả đó.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2. 4. 1. Đối với hoạt động giáo dục
Hiệu quả của sáng kiến đã giúp hoạt động giáo dục ngày càng khởi sắc,
nó khơng chỉ phát huy tính tích cực của học sinh mà còn đem đến cho học
sinh niềm hứng thú trong học tập, học sinh hiểu bài, nắm vững bài ngay trên
lớp. Qua đó hình thành kỷ năng, giúp học sinh tự nhận thức, tìm tịi, nghiên
cứu, biết sử dụng một số kỷ thuật dạy học tích cực vào giải quyết tình huống
trong học tập có hiệu quả, đây là kết quả đáng ghi nhận.

2. 4.2. Đối với bản thân.
Qua sáng kiến đã cho thấy việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử
mà tôi sử dụng đã phát huy được tính tích cực và hiệu quả, kiến thức, kỷ
20

download by :


năng, phương pháp dạy học của bản thân ngày một cũng cố và phát huy. Giờ
học được học sinh đón nhận đầy hứng khởi, thích thú qua sự tương tác giữa
cơ và trị trong mỗi tiết học, điều đó khơng những giúp giáo viên khẳng định
được vị trí quan trọng của mơn học mà cịn thay đổi được cách nhìn nhận
chưa đúng của học sinh, của giáo viên ở các bộ môn khác trong nhà trường,
của xã hội về môn học này. Kết quả của sáng kiến càng giúp tôi tự tin, say mê
tìm tịi, nghiên cứu mạnh dạn ứng dụng CNTT vào trong quá trình giảng dạy.
2. 4. 3. Đối với đồng nghiệp trong nhà trường.
Kinh nghiệm dạy học được thể hiện qua sáng kiến là một kinh nghiệm
dạy học hay, hiện đại, phù hợp với xu thế giảng dạy hiện nay nên tôi đã được
bạn bè, đồng nghiệp dự giờ khen ngợi và đánh giá cao không chỉ đối với đồng
nghiệp dạy bộ môn lịch sử mà cả đồng nghiệp các bộ môn khác trong nhà
trường. Tôi đã chia sẻ kinh nghiệm dạy học này cho bạn bè, đồng nghiệp
trong các buổi sinh hoạt chuyên đề, chuyên môn do nhóm, tổ, nhà trường tổ
chức. Những kinh nghiệm này đã được đồng nghiệp hưởng ứng đón nhận và
đang dược áp dụng trong thực tiễn giảng dạy ở trường THPT Hoằng Hóa 4
nơi tơi cơng tác.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trên đây là một vài ý kiến đóng góp của tôi về một số ứng dụng CNTT
trong dạy học lịch sử nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Qua thực tế giảng dạy và ứng dụng CNTT tôi nhận thấy :

Thứ nhất: CNTT là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Những ứng dụng được lựa
chọn phù hợp sẽ mang lại sự hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập.
Thứ hai: Ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử
nói riêng là điều cần thiết. Nhưng cho dù phương tiện kỹ thuật có hiện đại đến
đâu chăng nữa thì nó chỉ hỗ trợ cho việc giảng dạy và tạo ra bài giảng hay
hơn, sinh động hơn, song nó khơng là tất cả và khơng thể thay thế vai trị chủ
đạo của ngườ giáo viên trong giờ lên lớp.
Thứ ba: Để tiết dạy thật sự đạt hiệu quả cao hơn, giáo viên phải biết
phối hợp giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại để làm mới hơn, hấp
dẫn hơn, hiệu quả giờ dạy cao hơn mà không làm mất đi, hoặc sai lệch về
mục đích, mục tiêu giảng dạy trong nhà trường. Trên thực tế, hiệu quả tiết học
vẫn tập trung vào vai trị của giáo viên. Người giáo viên khơng chỉ là người
truyền thụ kiến thức mà cũng phải biết cách dẫn dắt học sinh tham gia tích
cực bài giảng và kết quả là phải xem học sinh lĩnh hội kiến thức được đến
đâu. Việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử có đạt hiệu quả hay khơng
cũng là do giáo viên, thể hiện khả năng của giáo viên.

21

download by :


Trong những năm gần đây, CNTT đã được ứng dụng rộng rãi trong giảng
dạy. Điều đó đã dẫn đến những đổi thay lớn lao về chất lượng của giáo dục bởi
CNTT giúp phần quan trọng làm tăng hứng thú học tập của học sinh, giúp các
em phát huy khả năng tìm tịi, sáng tạo, chủ động. Vì vậy, chất lượng dạy và học
ngày càng được nâng lên do những cố gắng, nỗ lực của cả thầy và trò.
Tại trường THPT Hoằng Hóa 4, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy
được Ban giám hiệu, các thầy cô ở các tổ bộ môn rất quan tâm. Những buổi

hội giảng được tổ chức sơi nổi cùng với sự hỗ trợ của CNTT đó đem lại hứng
thú cho các em học sinh, khiến mỗi giờ lên lớp với các em là một niềm vui
được khám phá, được tìm hiểu. Khơng những vậy, CNTT cũng được ứng
dụng trong các giờ ngoại khố thơng qua các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử, về
văn học và các mơn học hấp dẫn khác. Tất cả đó góp phần tạo nên một mơi
trường sư phạm lành mạnh, có ý nghĩa giáo dục cao.
Vậy làm thế nào để việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và
dạy học lịch sử nói riêng đạt hiệu quả cao nhất ? Đây đang là vấn đề được
ngành giáo dục đặc biệt quan tâm. Sở Giáo dục và Đào tạo cũng đã tích cực
triển khai việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy tới các trường phổ thơng. Tuy
nhiên, trình độ tin học của cán bộ giáo viên trong tỉnh nói chung cịn nhiều hạn
chế. Điều kiện cơ sở vật chất ở các huyện và thành phố có sự khác nhau, trang
thiết bị phục vụ dạy học còn thiếu thốn. Để việc ứng dụng CNTT trong giảng
dạy đáp ứng được mục tiêu giáo dục, và để ngành giáo dục theo kịp bước tiến
của khoa học kỹ thuật thì lãnh đạo các ban ngành, Sở Giáo dục cần phải có sự
đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất và trình độ tin học cho giáo viên. Song, một
điều cũng cần lưu ý là việc ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung và dạy học
lịch sử nói riêng muốn đạt được kết quả tốt cũng cần phải kết hợp hài hoà với
các phương pháp truyền thống, phù hợp với nội dung, điều kiện cụ thể.
Những vấn đề tôi đưa ra trong đề tài này chỉ là những ý kiến mang tính
chủ quan, những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy những
năm gần đây nên chắc chắn không thể tránh khỏi những điều khiếm khuyết.
Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo chân tình của các bậc tiền bối và sự đóng
góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị :
Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây tôi xin mạnh dạn đề xuất
một số kiến nghị sau:
Một là: Đối với Bộ GD&ĐT
Nội dung sách giáo khoa lịch sử cịn khơ khan, nặng về trình bầy kiến
thức và lý luận. Vì vậy, khi biên soạn sách giáo khoa lịch sử mới cần phong

phú hấp dẫn hơn đối với cả người dạy và người học
Hai là: Đối với Sở GD&ĐT:

22

download by :


Cần tổ chức các lớp tập huấn cho giáo viên về việc sử dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy lịch sử.
Ba là: Đối với nhà trường
+ Cần tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, các
phương tiện để ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tương ứng với
nội dung kiến thức trong sách giáo khoa .
+ Có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những giáo viên có nhiều
sáng kiến kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
Bốn là: Đối với giáo viên
+ Cần phối hợp nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, đặc biệt
là tích cực ứng dụng CNTT trong giảng dạy lịch sử ở trường THPT.
+ Cần tạo bầu khơng khí thoải mái tích cực trong giờ học tạo mọi điều
kiện để học sinh tương tác lẫn nhau, HS bày tỏ và bảo vệ ý kiến của mình.
Năm là: Đối với học sinh
Học sinh cần có tinh thần tự giác học tập, hợp tác phối hợp trong giờ
học với giáo viên.
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết


Lương Thị Hạnh

23

download by :


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Đồng - Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực – một
phương pháp vô cùng quý báu. Nghiên cứu giáo dục tháng 8 - 1995
2. Nguyễn Mạnh Hưởng: Sử dụng CNTT và truyền thông vào dạy học
lịch sử ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số 133 ( 3 - 2006)
3. Phan Ngọc Liên (chủ biên) - Trịnh Đình Tùng - Nguyễn Thị Côi:
Phương pháp dạy học lịch sử, NXB ĐHSP Hà Nội, tập 1-2 năm 2002
4. Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị: Phương pháp dạy học lịch sử. NXB
Giáo dục, 1992
5. Phan Ngọc Liên- Trịnh Đình Tùng: Phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học cơ sở, NXB Giáo dục, 1998
6. Đổi mới dạy học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm - Hội giáo dục sử
học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996
7. Vấn đề đổi mới chương trình và nội dung giáo dục hiện nay, Tạp chí
nghiên cứu cộng sản số 3 năm 1993
8. Quách Tuấn Ngọc: Đổi mới phương pháp dạy học bằng CNTT - xu
thế của thời đại. tạp chí đại học và giáo dục chuyên ngành, số 8, 1999
9. Nguyễn Tiến - Đặng Xuân Hường - Trương Cẩm Hồng: Microsoft
PowerPonit 2000. NXB Giáo dơc, 1999.
10. Giáo trình Tin học (NXB Đại học sư phạm Hà Nội - 2003)
11. Hướng dẫn thiết kế bài giảng trên máy vi tính (NXB Giáo dục 2006)
12. Cơng nghệ thông tin với việc đổi mới phương pháp dạy học
13. (Website của Bộ GD-ĐT)

14. (Website hỗ trợ giáo viên)
15. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 - NXB Giáo dục.
16. Sách giáo viên Lịch sử lớp 12 - NXB Giáo dục.

24

download by :


BÁO CÁO CÁC ĐỀ TÀI SKKN
Đã được hội đồng khoa học ngành xếp loại
Họ tên: Lương Thị Hạnh
Ngày sinh: 01/9/1976
Ngày vào ngành: 30/10/1999
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Môn giảng dạy: Lịch sử
Đơn vị: Trường THPT Hoằng Hóa 4.
TT
1
2

Cấp đánh
giá
Một vài suy nghĩ về phương pháp dạy HĐKH
học lịch sử thế giới giai đoạn 1945 –
ngành
2000, ở lớp 12 THPT.
Sử dụng phương tiện cơng nghệ hiện HĐKH
đại, sơ đồ hố kiến thức trong dạy học
ngành

lịch sử ở trường THPT.
Tên đề tài

Kết quả
xếp loại
Loại C

Năm
ĐGXL
2014

Loại B

2018

Hoằng Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2019

Lương Thị Hạnh

25

download by :



×