Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lí tài sản tại Công ty cổ phần Khuôn mẫu chính xác và máy Computer Numeric Control

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.22 KB, 75 trang )







TIỂU LUẬN:
Nâng cao hiệu quả quản lí tài sản tại Công
ty cổ phần Khuôn mẫu chính xác và máy
Computer Numeric Control











LỜI MỞ ĐẦU

Tài sản là một nhân tố vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh
đối với mọi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp cho dù kinh doanh trong lĩnh vực nào, sản
xuất ra sản phẩm gì thì doanh nghiệp đó vẫn luôn cần đến tài sản để phục vụ cho mục
tiêu hoạt động của mình. Đặc biệt đối với một công ty mang đặc thù trong lĩnh vực chế
tạo và sản xuất máy móc, thiết bị như Công ty cổ phần Khuôn mẫu chính xác và máy
Computer Numeric Control thì tài sản lại càng là yếu tố không thể thiếu góp phần hình
thành và đưa Công ty đi vào sản xuất kinh doanh. Do vậy, việc quản lí tài sản trong
công ty có ý nghĩa rất quan trọng bởi có quản lí tài sản tốt thì hiệu quả sử dụng mới cao


và tài sản mới phát huy hết tác dụng của nó trong quá trình hoạt động của Công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, được sự giúp đỡ của PGS. TS.
Nguyễn Thị Bất cùng các cán bộ kế toán của Phòng Tài chính – Kế toán trong Công ty,
em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lí tài sản tại Công ty cổ phần
Khuôn mẫu chính xác và máy Computer Numeric Control” để nghiên cứu nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lí tài sản của Công ty. Bài viết ngoài phần mở
đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo - được chia thành ba chương chính:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tài sản và hiệu quả quản lí tài sản của doanh
nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả quản lí tài sản tại Công ty cổ phần Khuôn mẫu
chính xác và máy Computer Numeric Control
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí tài sản tại Công ty cổ phần
Khuôn mẫu chính xác và máy Computer Numeric Control trong thời gian tới
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN VÀ
HIỆU QUẢ QUẢN LÍ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Tổng quan về tài sản của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài sản
Tài sản là của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng. Đối với bất kì một
hoạt động nào, tài sản cũng là một nhân tố vô cùng quan trọng tạo nên cơ sở vật chất và
phương tiện để sử dụng. Đặc biệt đối với mọi doanh nghiệp, để có thể tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó cần thiết phải có ba yếu tố là tư liệu lao
động, đối tượng lao động và lao động. Tài sản là tư liệu lao động, là một trong ba yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất. Đó là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, biểu thị cho
những lợi ích mà đơn vị thu được trong tương lai hoặc những tiềm năng phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của đơn vị. Nói cách khác, tài sản là tất cả những thứ hữu hình
hoặc vô hình gắn với lợi ích trong tương lai của đơn vị thỏa mãn các điều kiện sau:
• Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị.
• Có giá trị thực sự đối với đơn vị.
• Có giá phí xác định.

1.1.2. Vai trò của tài sản đối với hoạt động của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp khi thành lập và bắt đầu tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh cần rất nhiều yếu tố, một trong các yếu tố quan trọng nhất là tài sản. Cùng với
nguồn vốn, tài sản là nhân tố góp phần quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Tài
sản tham gia vào mọi quá trình hoạt động của doanh nghiệp như: sản xuất, lưu thông,
phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Nếu không có những tài sản hữu hình như nhà xưởng,
máy móc, trang thiết bị, cơ sở vật chất thì doanh nghiệp sẽ không thế hình thành cũng
như không thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được. Nếu không có những tài
sản vô hình như phần mềm quản lí, phần mềm điều hành máy móc, quyền sử dụng đất
thì doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, tài sản hữu hình đóng vai trò rất lớn trong
việc sản xuất và lưu thông, phân phối sản phẩm. Nếu không có dây truyền máy móc thì
những sản phẩm sẽ không thể hình thành. Nếu không có những phương tiện vận tải,
chuyên chở thì những sản phẩm dù đã hoàn thành cũng không thể đến nơi tiêu thụ được.
Nếu thiếu một bộ phận thì hoạt động sản xuất của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn,
thậm chí bị đình trệ, dẫn đến doanh số sụt giảm, chậm tiến độ, các hoạt động sản xuất bị
gián đoạn và hàng loạt những phản ứng dây chuyền khác.
Có thể nói, những tác dụng mà tài sản đem lại đối với hoạt động của doanh
nghiệp đã cho thấy vai trò quan trọng của nhân tố này trong sự vận hành cũng như trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp biết quan tâm, đầu
tư đúng mức, hợp lí và biết duy trì, bảo dưỡng tài sản thì tài sản sẽ phát huy hết vai trò
của nó và thực sự là một yếu tố góp phần quyết định đến thành công của doanh nghiệp,
qua đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.1.3. Phân loại tài sản
Xét về mặt giá trị và tính chất luân chuyển, tài sản của doanh nghiệp được chia
thành hai loại:
1.1.3.1. Tài sản lưu động (Tài sản ngắn hạn)
Tài sản lưu động là những đối tượng lao động, tức là các vật bị tác động trong
quá trình chế biến bởi lao động của con người hay máy móc, do đó tài sản lưu động
phản ánh các dạng nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, phụ liệu Đặc điểm của tài sản lưu

động là chúng có thời gian luân chuyển ngắn, thường là trong vòng một chu kì kinh
doanh hay một năm. Trong một chu kì sản xuất, các nguyên vật liệu tham gia và bị chế
biến thành sản phẩm. Toàn bộ giá trị của các nguyên vật liệu đó được chuyển hóa hoàn
toàn vào giá thành sản phẩm, do đó không phải tính khấu hao đối với tài sản lưu động.
1.1.3.2. Tài sản cố định (Tài sản dài hạn)
Tài sản cố định - hiểu theo nghĩa rộng - là những yếu tố của tư liệu lao động
được sử dụng trong một thời gian luân chuyển tương đối dài và có giá trị đơn vị tương
đối lớn. Nói đến tài sản cố định là hàm ý nhấn mạnh về hình thái biểu hiện cụ thể của tài
sản đó. Hai tiêu chuẩn “thời gian” và “giá trị” có ý nghĩa quan trọng trong quản lí tài
sản cố định nhưng chỉ có tính chính xác tương đối và cần được xem xét trong từng
trường hợp cụ thể.
Tựu chung lại, tài sản cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những tài sản
của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển dài (thường là trên một năm hoặc một chu kì
kinh doanh) và có giá trị lớn. Nói cách khác, tài sản cố định là những tư liệu lao động
tham gia vào nhiều chu kì sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, tài
sản cố định bị hao mòn dần, giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí sản
xuất kinh doanh và giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc nó hư hỏng.
1.1.4. Nội dung của các loại tài sản
1.1.4.1. Nội dung của tài sản lưu động
a. Phân loại tài sản lưu động
٭Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển, tài sản lưu động gồm ba loại:
Tài sản lưu động sản xuất: Gồm những tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất
(nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ đang dự trữ trong kho) và tài sản
trong sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang).
Tài sản lưu động lưu thông: Bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông
(thành phẩm, hàng hóa dự trữ trong kho hay đang gửi bán), tài sản trong quá trình lưu
thông (vốn bằng tiền, các khoản phải thu).
Tài sản lưu động tài chính: Là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục
đích kiếm lời (đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán ).
٭Theo mức độ khả năng chuyển đổi, tài sản lưu động được chia thành những

loại sau:
Tài sản bằng tiền: Là tài sản của đơn vị tồn tại trực tiếp dưới hình thái giá trị.
Thuộc về tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng (hoặc Kho bạc) và tiền
đang chuyển (kể cả nội tệ và ngoại tệ).
Vàng bạc, đá quý và kim khí quý: Đây là nhóm tài sản đặc biệt, chủ yếu dùng
vào mục đích dự trữ. Tuy vậy, trong một số ngành như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm
thì trị giá kim cương, đá quý, vàng bạc có thể rất lớn.
Các tài sản tương đương tiền: Nhóm này gồm các tài sản tài chính có khả năng
chuyển đổi thành tiền: chứng khoán, giấy tờ có giá Tuy nhiên, không phải tất cả các
loại chứng khoán đều thuộc nhóm này mà chỉ có những chứng khoán có tính thanh
khoản cao mới được coi là tài sản lưu động thuộc nhóm này.
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Là những khoản đầu tư về vốn nhằm
mục đích kiếm lời có thời hạn thu hồi trong vòng một năm hay một chu kì kinh doanh.
Thuộc đầu tư tài chính ngắn hạn gồm các khoản đầu tư cổ phiếu, góp vốn đầu tư, cho
vay ngắn hạn
Các khoản phải thu: Là tài sản của đơn vị nhưng đang bị các tổ chức, tập thể
hay cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị có trách nhiệm thu hồi. Thuộc về các khoản
phải thu bao gồm: khoản phải thu ở người mua, tiền đặt trước cho người bán, khoản nộp
thừa cho Ngân sách, các khoản phải thu nội bộ
Hàng tồn kho: Là tài sản lưu động tồn tại dưới hình thái vật chất có thể cân,
đong, đo, đếm được. Hàng tồn kho có thể có do đơn vị tự sản xuất hay mua ngoài.
Thuộc về hàng tồn kho bao gồm: vật liệu, dụng cụ, hàng mua đang đi đường, thành
phẩm, hàng hóa, sản phẩm dở dang
Tài sản lưu động khác: Là những tài sản lưu động còn lại ngoài những loại đã
kể ở trên như: các khoản tạm ứng cho công nhân viên chức, các khoản chi phí trả trước,
các khoản tiền kí quỹ, kí cược ngắn hạn
٭Căn cứ vào mục đích sử dụng tài sản trong doanh nghiệp, người ta chia tài sản
lưu động thành hai loại là tài sản lưu động trong kinh doanh và tài sản lưu động ngoài
kinh doanh.
b. Quản lí tài sản lưu động

٭Quản lí dự trữ, tồn kho
Có hai phương pháp phổ biến được dùng để quản lí dự trữ, tồn kho là:
• Quản lí dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất –
EOQ (Economic Ordering Quantity)
Mô hình EOQ giả định là những lần cung cấp hàng hóa là bằng nhau. Khi doanh
nghiệp tiến hành dự trữ hàng hóa sẽ phát sinh hai loại chi phí chính:
Chi phí lưu kho (chi phí tồn trữ): Đây là những chi phí liên quan đến việc tồn
trữ hàng hóa, bao gồm:
- Chi phí hoạt động, như chi phí bốc xếp hàng hóa, chi phí bảo hiểm hàng hóa,
chi phí hao hụt mất mát, chi phí bảo quản hàng
- Chi phí tài chính, bao gồm chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về
thuế, khấu hao
Chi phí đặt hàng (chi phí hợp đồng): Bao gồm chi phí quản lí giao dịch và vận
chuyển hàng hóa. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn định và không phụ
thuộc vào số lượng hàng hóa được mua.
Gọi chi phí đặt hàng là F
2
, bao gồm các chi phí liên quan đến giao dịch và vận
chuyển hàng hóa.
Gọi chi phí lưu kho là F
1
, bao gồm chi phí thuê bãi, nhân công, bảo quản kho, chi
phí bốc xếp
Tổng chi phí lưu kho được tính như sau:
F
1
= C
1



Q/2
Trong đó: C
1
: Chi phí lưu kho trên một đơn vị hàng hóa.
F
1
: Tổng chi phí lưu kho.
Q/2 : Mức độ hàng hóa trung bình trong kho.
Tổng chi phí đặt hàng:
F
2
= C
2


D/Q
Trong đó: C
2
: Chi phí đặt hàng trên một lần đặt hàng.
D : Nhu cầu sử dụng hàng hóa trong một năm.
F
2
: Tổng chi phí đặt hàng.
Tổng chi phí dự trữ:
TC = F
1
+ F
2

= C

1



2
Q
+ C
2



Q
D

=
2
1
C


Q + C
2


D


Q
1


Tìm Q
*
bằng cách lấy vi phân TC theo Q ta có: Q
*
=
1
2
2
C
DC

Phương pháp này có ưu điểm là áp dụng được với hầu hết doanh nghiệp, tuy
nhiên nhược điểm của nó là phức tạp, không đơn giản trong cách tính bởi muốn tìm
được lượng dự trữ tối ưu cần phải xác định đầy đủ và chính xác các thành phần trong
công thức trên, các chi phí lưu kho, chi phí đặt hàng
• Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có liên quan
chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một đơn đặt hàng nào đó
họ sẽ tiến hành “hút” những loại hàng hóa và sản phẩm dở dang của các đơn vị khác mà
họ không cần phải dự trữ. Sử dụng phương pháp này sẽ giảm tới mức thấp nhất chi phí
cho dự trữ nhưng nó đòi hỏi các bộ phận cấu thành phải hoàn hảo, do đó phương pháp
này được phát triển cùng với hệ thống quản lí chất lượng. Đây chỉ là một phương pháp
quản lí được áp dụng trong một số loại dự trữ nào đó của doanh nghiệp và phải kết hợp
với các phương pháp quản lí khác.
Điều kiện áp dụng: Phương pháp này áp dụng đối với những công ty có tình hình
quản lí và dự trữ ổn định.
Ưu điểm của phương pháp này là: Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang hay thành
phẩm được cung cấp ngay khi cần hoặc khi hết hàng dự trữ trong kho, do vậy sẽ giảm
thiểu các chi phí liên quan đến lưu trữ và bảo quản hàng hóa.
Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là chỉ áp dụng được đối với các

công ty lớn có các công ty vệ tinh, đòi hỏi các bộ phận cấu thành phải hoàn hảo; hoặc
mô hình công ty mẹ - công ty con; hay các công ty trong cùng một tập đoàn có quan hệ
ràng buộc với nhau, ví dụ: Toyota, Honda, Canon
٭Quản lí tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh
nghiệp ở ngân hàng, được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản, nộp
thuế, trả nợ Doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt vì hai lí do chính:
• Duy trì số dư tiền mặt, đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày. Những giao
dịch này thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng, từ đó tạo ra số
dư giao dịch.
• Duy trì số dư kí quỹ theo yêu cầu của ngân hàng khi ngân hàng cung cấp các
khoản vay hoặc các dịch vụ. Số dư tiền mặt loại này là số dư bù đắp.
Ngoài ra cũng cần đề cập đến hai lí do thứ cấp của việc nắm giữ tiền mặt trong
doanh nghiệp là:
• Duy trì số dư dự phòng, đáp ứng nhu cầu trong trường hợp biến động không
lường trước được của các luồng tiền vào và ra.
• Duy trì số dư nhằm mục đích đầu cơ để cho phép doanh nghiệp hưởng lợi thế
khi mua hàng cũng như tận dụng các cơ hội kiếm lời trong kinh doanh.
٭Quản lí các khoản phải thu
Các khoản phải thu xuất phát từ quan hệ tín dụng thương mại, nó tạo ra cả chi
phí trực tiếp và chi phí gián tiếp nhưng cũng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp vì chính
sách tín dụng thương mại sẽ làm tăng doanh số bán. Doanh nghiệp có thể áp dụng các
biện pháp sau trong việc quản lí khoản phải thu:
Chính sách tín dụng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, có một hình thức không thể thiếu là mua bán chịu.
Tín dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên
giàu có nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Điều đó được thể hiện trên những nét cơ bản sau:
• Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng. Do được trả tiền chậm
nên sẽ có nhiều người đến mua hàng hóa của doanh nghiệp hơn, từ đó làm cho doanh

thu tăng. Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng thì doanh nghiệp bị chậm trễ
trong việc trả tiền và vì tiền có giá trị theo thời gian nên doanh nghiệp sẽ quy định giá
cao hơn.
• Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hóa.
• Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn và
hạn chế một phần hao mòn vô hình.
• Chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp có thể tăng khi cấp tín dụng thương
mại cho khách hàng.
• Tín dụng thương mại làm tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để
bù đắp thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn cấp tín dụng càng dài thì chi phí càng lớn.
Những tác động trên buộc nhà quản lí phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng
thêm, từ đó quyết định có nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng hay không và
các điều khoản trong đó như thế nào cho phù hợp. Thực tiễn cho thấy doanh thu có
khuynh hướng tăng lên khi các tiêu chuẩn tín dụng được nới lỏng.
Phân tích tín dụng thương mại
• Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng
Việc phân tích khả năng tín dụng của khách hàng là một vấn đề quan trọng đối
với nhà quản lí để thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng. Công việc này phải bắt
đầu bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lí, sau đó là việc xác
minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng. Tín dụng thương mại sẽ được cấp
nếu khả năng tín dụng của khách hàng đáp ứng được những tiêu chuẩn tối thiểu mà
doanh nghiệp đưa ra.
• Theo dõi khoản phải thu:
+ Sắp xếp tuổi của các khoản phải thu. Theo phương pháp này, nhà quản lí sắp
xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu
nợ khi đến hạn.
+ Xác định số dư khoản phải thu. Theo phương pháp này, yếu tố thay đổi theo
mùa vụ của doanh số bán sẽ hoàn toàn không tác động đến khoản phải thu. Sử dụng
phương pháp này, doanh nghiệp có thể thấy được nợ tồn đọng mà khách hàng nợ doanh
nghiệp. Cùng với cách theo dõi khác, người quản lí có thể thấy được ảnh hưởng của các

chính sách tài chính nói chung và chính sách tín dụng thương mại nói riêng đối với hoạt
động của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Nội dung của tài sản cố định
a. Phân loại tài sản cố định
٭Theo công dụng và tình hình sử dụng, tài sản cố định được chia thành:
Tài sản cố định phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh: Đây là tài sản cố
định đang thực tế sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Những tài sản cố định này bắt buộc phải trích khấu hao và tính vào chi phí sản xuất kinh
doanh.
Tài sản cố định hành chính sự nghiệp: Là tài sản cố định của các đơn vị hành
chính sự nghiệp như đoàn thể quần chúng, tổ chức y tế, văn hóa
Tài sản cố định phúc lợi: Là những tài sản cố định của đơn vị dùng cho nhu cầu
phúc lợi công cộng như nhà văn hóa, nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà nghỉ mát
Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ Nhà nước: Là những tài sản
cố định doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cất giữ hộ Nhà nước
theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tài sản cố định chờ xử lí: Bao gồm những tài sản cố định không cần dùng, chưa
cần dùng vì thừa so với nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới quy
trình công nghệ, bị hư hỏng chờ thanh lí. Những tài sản cố định này cần xử lí nhanh
chóng để thu hồi vốn để đầu tư đổi mới tài sản cố định.
٭Theo hình thái biểu hiện, tài sản cố định được chia thành hai loại:
• Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ
thể. Thuộc về loại này gồm có:
+ Nhà cửa, vật kiến trúc: Là tài sản cố định của doanh nghiệp hình thành sau quá
trình thi công, xây dựng như: trụ sở làm việc, nhà xưởng, nhà kho, sân bãi; các công
trình cơ sở hạ tầng như: đường sá, cầu cống, cầu tàu, cầu cảng
+ Máy móc thiết bị: Bao gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như: máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây truyền công
nghệ, những máy móc đơn lẻ
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Là các phương tiện vận tải đường sắt,

đường thủy, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống
thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải
+ Thiết bị, dụng cụ dùng cho quản lí: Gồm các thiết bị dụng cụ dùng cho công
tác quản lí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thiết bị dụng cụ đo lường, máy
vi tính, máy photocopy, máy in, máy hút bụi, hút ẩm
+ Tài sản cố định hữu hình khác: Bao gồm các tài sản cố định chưa được quy
định, phản ánh vào các loại trên.
• Tài sản cố định vô hình: Là các tài sản cố định không có hình thái vật chất
nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh
doanh. Thuộc về tài sản cố định vô hình gồm có:
+ Quyền sử dụng đất: Bao gồm toàn bộ chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra
liên quan trực tiếp đến đất sử dụng như: tiền chi ra để có được quyền sử dụng đất hợp
pháp, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng, lệ phí trước bạ (nếu có) ;
hoặc giá trị quyền sử dụng đất nhận góp vốn.
+ Bản quyền, bằng sáng chế: Là các chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra để
có được các bản quyền tác giả, bằng sáng chế.
+ Nhãn hiệu hàng hóa: Là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp đến việc mua
nhãn hiệu hàng hóa.
+ Phần mềm máy tính: Là toàn bộ các chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra
để có được phần mềm máy vi tính.
+ Tài sản cố định vô hình khác: Bao gồm các tài sản cố định vô hình khác mà
chưa được phản ánh vào các loại trên như: quyền đặc nhượng; quyền thuê nhà; quyền sử
dụng hợp đồng; tài sản cố định vô hình đang triển khai
٭Phân loại theo quyền sở hữu, tài sản cố định được chia thành tài sản cố định tự có
và thuê ngoài.
• Tài sản cố định tự có: Là những tài sản cố định xây dựng, mua sắm hoặc chế
tạo bằng nguồn vốn của doanh nghiệp do ngân sách cấp, do đi vay của ngân hàng, bằng
nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn liên doanh
• Tài sản cố định đi thuê: Bao gồm:
+ Tài sản cố định thuê tài chính: Là tài sản thuê mà bên cho thuê có sự chuyển

giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Quyền sở
hữu tài sản có thể chuyển giao vào cuối thời hạn thuê.
+ Tài sản cố định thuê hoạt động (thuê vận hành): Là tài sản thuê không có sự
chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Đây là hình
thức cho thuê tài sản có thời hạn nhất định (thời gian thuê chỉ chiếm một phần trong
khoảng thời gian hữu dụng của tài sản) và sẽ trả lại bên cho thuê khi kết thúc thời gian
thuê tài sản.
٭Phân loại theo nguồn hình thành:
• Tài sản cố định mua sắm, xây dựng bằng vốn được cấp.
• Tài sản cố định mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn tự bổ sung của đơn vị (quỹ
đầu tư phát triển, quỹ phúc lợi ).
• Tài sản cố định mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn đi vay.
• Tài sản cố định nhận góp liên doanh bằng hiện vật.
b. Khấu hao tài sản cố định và quản lí quỹ khấu hao
• Khái niệm
Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần về giá trị và hiện vật.
Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định dùng cho hoạt động kinh doanh được chuyển
dịch vào giá trị sản phẩm làm ra (với doanh nghiệp sản xuất cung cấp dịch vụ) hoặc vào
chi phí kinh doanh hàng hóa (với doanh nghiệp kinh doanh thương mại) dưới hình thức
trích khấu hao. Như vậy, khấu hao tài sản cố định chính là sự biểu hiện bằng tiền của
phần giá trị tài sản cố định đã hao mòn. Mục đích của việc trích khấu hao tài sản cố định
là biện pháp chủ quan nhằm thu hồi vốn đầu tư để tái tạo lại tài sản cố định khi nó bị hư
hỏng hoặc đã hết thời hạn sử dụng có ích.
• Phân loại
Hao mòn hữu hình: Là sự hao mòn vật lí trong quá trình sử dụng do bị cọ sát, bị
ăn mòn, bị hư hỏng từng bộ phận. Hao mòn hữu hình của tài sản cố định hữu hình có
thể diễn ra hai dạng dưới đây:
+ Hao mòn dưới dạng kĩ thuật xảy ra trong quá trình sử dụng.
+ Hao mòn do tác động của thiên nhiên (độ ẩm, hơi nước, không khí ) không
phụ thuộc vào việc sử dụng chúng.

Do có sự hao mòn hữu hình nên tài sản cố định mất dần giá trị và giá trị sử dụng
lúc ban đầu, cuối cùng phải thay thế bằng một tài sản khác.
Hao mòn vô hình: Là sự giảm giá trị của tài sản cố định hữu hình do tiến bộ
khoa học kĩ thuật. Hao mòn vô hình xảy ra do tài sản cố định hữu hình bị lỗi thời về mặt
kĩ thuật, còn gọi là hao mòn về kinh tế của mỗi tài sản cố định, người sử dụng tài sản cố
định phải dự tính được tính chất và quá trình xảy ra sự hao mòn vô hình tài sản cố định
để có những quy định khấu hao thích hợp nhằm thu hồi đủ vốn đầu tư trước khi tài sản
cố định bị thanh lí.
• Phương pháp tính khấu hao tài sản cố định
Việc trích khấu hao tài sản cố định có thể được tiến hành theo nhiều phương
pháp khác nhau, trong đó ba phương pháp được sử dụng phổ biến là:
Phương pháp khấu hao đường thẳng
Phương pháp này còn được gọi là khấu hao đều theo thời gian. Theo phương
pháp này, việc tính khấu hao tài sản cố định phải dựa trên nguyên giá tài sản cố định và
thời gian sử dụng tài sản cố định. Theo phương pháp này, mức khấu hao hàng năm được
tính bằng công thức sau:
M
k
= NG/T
Trong đó: M
k
: Số khấu hao hàng năm.
NG : Nguyên giá tài sản cố định.
T : Thời gian sử dụng định mức của tài sản cố định.
Nguyên giá của tài sản cố định được tính như sau:
NG = NGB – D + C
1

Trong đó: NGB : Giá mua ghi trên hóa đơn.
D : Chiết khấu khi mua hàng.

C
1
: Chi phí vận chuyển, lắp đặt và chạy thử lần đầu.
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ tính bởi chỉ cần xác định được
nguyên giá và thời gian định mức sử dụng của tài sản là có thể xác định được khấu hao
của tài sản đó. Ngoài ra, tổng mức khấu hao của tài sản cố định được phân bổ đều đặn
trong các năm sử dụng tài sản và không gây ra sự đột biến trong giá thành sản phẩm
hàng năm.
Nhược điểm: Phương pháp này có hạn chế là hao mòn của tài sản cố định là
không đều nhau qua các năm, do vậy phương pháp khấu hao đường thẳng (hay còn gọi
là khấu hao đều) không phản ánh được hao mòn vô hình của tài sản cố định do công
nghệ, vì vậy giá trị còn lại trên sổ sách kế toán của tài sản thường nhỏ hơn giá trị thị
trường của tài sản đó.
Phương pháp khấu hao đường thẳng là phương pháp thích hợp được áp dụng đối
với những doanh nghiệp có tài sản cố định được sử dụng trong suốt đời sống kinh tế.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Phương pháp này cho phép doanh nghiệp khấu hao nhanh với một tỉ lệ khấu hao
nhanh hàng năm lớn hơn phương pháp khấu hao đường thẳng trong năm thứ nhất.
Trong những năm tiếp theo, chi phí khấu hao được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của
tài sản nhân với tỉ lệ khấu hao nhanh. Tỉ lệ khấu hao được xác định bằng cách lấy tỉ lệ
khấu hao đường thẳng nhân với hệ số khấu hao nhanh.
Mk
i
= G
di


T
kh


Trong đó: Mk
i
: Mức khấu hao tài sản cố định năm thứ i.
G
di
: Giá trị còn lại của tài sản cố định đầu năm thứ i.
T
kh
: Tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm của tài sản cố định.
i : Thứ tự của các năm sử dụng tài sản cố định (
ni ,1
)
Ưu điểm của phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần:
- Thu hồi vốn nhanh, giảm bớt được tổn thất do hao mòn vô hình.
- Đây là biện pháp “hoãn thuế” trong những năm đầu của doanh nghiệp.
Nhược điểm: Phương pháp này có thể gây nên sự đột biến về giá thành sản phẩm
trong những năm đầu do chi phí khấu hao lớn, sẽ bất lợi trong cạnh tranh. Do vậy đối
với những doanh nghiệp kinh doanh chưa ổn định, chưa có lãi thì không nên áp dụng
phương pháp khấu hao này.
Phương pháp khấu hao theo tổng số năm
Theo phương pháp này, khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân nguyên
giá ban đầu của tài sản với một tỉ lệ khấu hao giảm dần. Ví dụ, nếu một tài sản có
nguyên giá ban đầu là 12 triệu đồng, đời sống kinh tế dự kiến là 5 năm thì cơ sở để tính
tỉ lệ khấu hao sẽ là 1 + 2 + 3 + 4 + 5 = 15. Tỉ lệ khấu hao nhanh là một phân số với mẫu
số cố định là 15, tử số thay đổi theo từng năm với giá trị 5 ở năm thứ nhất, 4 ở năm thứ
hai, và tiếp tục cho đến năm cuối là 1.
Ưu điểm: Phương pháp khấu hao này phản ánh giá trị tài sản sát với giá trị thị
trường, đồng thời đề cập hết giá trị hao mòn vô hình của tài sản cố định và giúp doanh
nghiệp tiết kiệm thuế trong những năm đầu do giá trị khấu hao lớn nên lượng thuế phải
nộp giảm đi.

Nhược điểm: Phương pháp này tính toán phức tạp và đòi hỏi phải có sự theo dõi
sổ sách kế toán chi tiết hơn, cụ thể hơn và khó hơn phương pháp khấu hao đường thẳng.
Phương pháp khấu hao theo tổng số năm thường được áp dụng đối với những
doanh nghiệp kinh doanh ổn định và hoạt động kinh doanh có lãi.
• Quản lí số khấu hao lũy kế của tài sản cố định
Thông thường số khấu hao lũy kế của tài sản cố định được các doanh nghiệp sử
dụng để tái đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Tuy nhiên, doanh nghiệp có quyền
sử dụng linh hoạt số khấu hao lũy kế phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của mình khi
doanh nghiệp chưa có nhu cầu tái tạo lại tài sản cố định. Quản lí quá trình mua sắm, sửa
chữa, nhượng bán và thanh lí tài sản cố định được thực hiện thông qua nghiên cứu dự án
đầu tư của doanh nghiệp.
c. Quản lí tài sản cố định
٭Quản lí tài sản cố định về mặt hiện vật
Hệ thống theo dõi tài sản cố định: Doanh nghiệp cần hoàn thiện hệ thống theo
dõi và kiểm soát tài sản cố định. Đơn giản nhất là lập các sổ theo dõi tổng hợp và chi
tiết. Sổ tổng hợp phản ánh khái quát tình hình quản lí các nhóm tài sản cố định, các
chủng loại thiết bị nhưng chỉ ghi các thông tin cơ bản nhất. Sổ chi tiết dùng để lưu trữ
đầy đủ các thông tin về từng nhóm nhỏ hoặc từng đối tượng thiết bị. Tuy nhiên, biện
pháp tốt nhất là áp dụng máy tính để theo dõi các sổ trên. Cơ sở dữ liệu trong máy tính
sẽ liên tục cập nhật các thông tin về tài sản cố định, khi cần biết chỉ cần dùng một lệnh
đơn giản để gọi ra màn hình hoặc in ra giấy.
Phân cấp quản lí tài sản cố định: Từng nhóm hoặc từng cá nhân sẽ được giao
quản lí các nhóm máy móc thiết bị hoặc các tổ hợp dây truyền thiết bị; phải căn cứ vào
công nghệ, sự sắp xếp ca kíp và cách thức tổ chức phân xưởng để phân định trách nhiệm
rõ ràng. Không có mô hình nào chung cho mọi doanh nghiệp mà chỉ nên áp dụng sự
phân cấp hoặc giao trách nhiệm quản lí vận hành sao cho phù hợp với hoạt động của
doanh nghiệp.
٭Quản lí tài sản cố định về mặt kĩ thuật
Nhà kinh doanh muốn khai thác có hiệu quả nhất các tài sản cố định thì cần lưu
tâm trước hết về mặt quản lí kĩ thuật, quy phạm kĩ thuật và tình trạng hoạt động của

máy móc thiết bị. Bên cạnh đó, hợp lí hóa máy móc trong nhà máy cũng là một khâu
không kém phần quan trọng. Mặc dù đã có thiết kế và hoạch định trước nhưng không
phải bao giờ việc bố trí thiết bị cũng hợp lí, đôi khi gây lãng phí thời gian và làm tăng
chi phí vận hành của hệ thống thiết bị. Đối với các máy móc thiết bị lẻ, không tạo thành
dây truyền cũng cần chú ý việc bố trí nhằm giảm chi phí vận chuyển và thời gian gián
đoạn giữa các khâu công việc.
1.2. Quản lí tài sản và hiệu quả quản lí tài sản trong doanh nghiệp
1.2.1. Quản lí tài sản trong doanh nghiệp
1.2.1.1. Sự cần thiết phải quản lí tài sản trong doanh nghiệp
Quản lí tài sản trong doanh nghiệp là một hoạt động hết sức cần thiết bởi có quản
lí tài sản tốt thì tài sản mới phát huy hết công suất và đem lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động. Sự cần thiết phải quản lí tài sản trong doanh nghiệp
được nhìn nhận dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, quản lí tài sản giúp doanh nghiệp tiết kiệm nguồn lực và tăng hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp có kế hoạch và chính sách quản lí tài sản phù
hợp với tình hình thực tế và hoạt động của doanh nghiệp mình thì tài sản thực sự là nhân
tố quan trọng góp phần không nhỏ vào thành công của doanh nghiệp. Nhờ kế hoạch
quản lí tài sản có hiệu quả mà doanh nghiệp không tốn kém chi phí mua hàng hóa,
nguyên vật liệu dư thừa hoặc đầu tư không hiệu quả vào tài sản cố định, do vậy nguồn
lực của doanh nghiệp sẽ được tiết kiệm tới mức tối đa. Mặt khác, hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cũng được nâng lên đáng kể khi doanh nghiệp có biện pháp
quản lí tài sản hợp lí, bởi khi đó doanh nghiệp có một kế hoạch quản lí rõ ràng đối với
từng bộ phận tài sản lưu động cũng như tài sản cố định, do vậy hiệu quả sản xuất tăng
lên.
Thứ hai, việc quản lí tài sản còn giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội
trong kinh doanh. Việc nâng cao hiệu quả quản lí tài sản cố định và tài sản lưu động sẽ
làm phát huy tối đa vai trò và chức năng của hai loại tài sản này trong việc tạo ra lợi
nhuận cho doanh nghiệp, do vậy doanh nghiệp sẽ có thêm vốn để nắm bắt các cơ hội
đầu tư trong kinh doanh. Chẳng hạn, việc đẩy nhanh tốc độ của vòng quay hàng tồn kho
sẽ giúp giảm thiểu chi phí lưu kho và tăng lượng tiền mặt nhờ quá trình tiêu thụ hàng

tồn kho, do vậy doanh nghiệp sẽ có thêm vốn để đầu tư vào các dự án, qua đó tận dụng
được các cơ hội đầu tư.
Thứ ba, quản lí tài sản trong doanh nghiệp còn là vấn đề rất cần thiết bởi nó góp
phần nâng cao khả năng tự chủ tài chính doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là doanh
nghiệp có quyền điều hành, quản lí mọi công việc của mình, không bị các tác nhân khác
chi phối. Quản lí tài sản có hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp vững mạnh trong sản xuất
kinh doanh, có vốn để thực hiện các mục đích kinh doanh khác, hạn chế số lượng vốn
huy động từ bên ngoài, do vậy góp phần nâng cao khả năng tự chủ về tài chính của
doanh nghiệp.
1.2.1.2. Nội dung quản lí tài sản trong doanh nghiệp
Quản lí tài sản trong doanh nghiệp bao gồm hai nội dung là quản lí tài sản lưu
động và quản lí tài sản cố định.
a. Nội dung quản lí tài sản lưu động
Tài sản lưu động bao gồm các khoản mục: tiền và các khoản tương đương tiền,
các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản lưu động khác. Vì vậy, nội dung quản lí tài
sản lưu động chính là quản lí các khoản mục trên, trong đó quan trọng nhất là quản lí
tiền, các khoản phải thu và hàng tồn kho.
Tiền mặt là tài sản không sinh lời. Số dư tiền mặt dư thừa sẽ giảm hiệu suất sinh
lời của vốn chủ sở hữu và do đó giảm giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Do vậy, nội dung
quản lí tiền mặt đối với các nhà quản trị doanh nghiệp là giảm thiểu lượng tiền mặt
doanh nghiệp phải nắm giữ mà vẫn đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường.
Các khoản phải thu xuất hiện khi doanh nghiệp bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ
trả tiền sau chứ không nhận tiền mặt ngay khi bán hàng. Như vậy, các khoản phải thu
cần phải được quản lí một cách năng động và linh hoạt để đảm bảo rằng chính sách về
các khoản phải thu của doanh nghiệp đạt hiệu quả. Thông thường, các doanh nghiệp
luôn cố gắng giảm chu kì chuyển đổi thành tiền của các khoản phải thu bởi động thái
này sẽ làm giảm nhu cầu tài trợ ngoại sinh, giảm chi phí và tối đa hóa lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Hàng tồn kho là một bộ phận quan trọng quá trình sản xuất của hầu hết các

doanh nghiệp. Hàng tồn kho bị ảnh hưởng chủ yếu bởi doanh số bán. Vì hàng tồn kho
được xác định trước khi hoạt động bán hàng diễn ra nên việc dự báo doanh số bán hàng
là rất cần thiết cho việc quản lí hàng tồn kho hiệu quả. Quản lí hàng tồn kho hợp lí đòi
hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận bán hàng, mua hàng, sản xuất và tài chính.
Do vậy, nội dung của quản lí hàng tồn kho là đảm bảo lượng hàng tồn kho cần thiết để
duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường với chi phí thấp nhất có thể.
b. Nội dung quản lí tài sản cố định
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc có
giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, phương tiện vận tải, hệ thống dây truyền sản
xuất, các tài sản cố định vô hình Việc quản lí tài sản cố định thường phức tạp và khó
khăn hơn quản lí tài sản lưu động. Nội dung của quản lí tài sản cố định thường được
xem xét trên hai khía cạnh là quản lí tài sản cố định về mặt giá trị và quản lí tài sản cố
định về mặt hiện vật. Về mặt giá trị, mỗi doanh nghiệp tùy theo đặc điểm và tình hình
sản xuất cần xác định phương pháp khấu hao tài sản cố định cho phù hợp để bảo đảm có
thể tái đầu tư khi tài sản cố định đó được sử dụng hết vòng đời kinh tế. Về mặt hiện vật,
quản lí tài sản cố định là chú trọng đến vần đề duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng kịp thời tài
sản đó, quá trình này sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. Do vậy,
nội dung quản lí tài sản cố định trong doanh nghiệp cần chú ý đến các vấn đề trên để
quá trình quản lí đạt hiệu quả tối đa.
1.2.2. Hiệu quả quản lí tài sản của doanh nghiệp
Hiệu quả quản lí tài sản là thuật ngữ dùng để mô tả việc tổ chức và điều khiển tài
sản hoạt động theo những yêu cầu nhất định sao cho tài sản có thể phát huy một cách tối
đa vai trò và công suất của nó. Hiệu quả quản lí tài sản được dùng để đánh giá tình hình
quản lí và sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong các thời kì khác nhau, hoặc trong
quan hệ so sánh với các doanh nghiệp cùng loại. Dựa trên các Báo cáo tài chính, người
ta xem xét các tỷ số về khả năng hoạt động của doanh nghiệp để đánh giá hiệu quả quản
lí tài sản của doanh nghiệp đó.
1.2.2.1. Hiệu quả quản lí tài sản ngắn hạn
a. Vòng quay tiền
Vòng quay tiền =

Doanh thu
Tiền và tài sản tương đương tiền
Tỷ số này cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Chỉ tiêu này lớn khi tiền và
tài sản tương đương tiền nhỏ hơn doanh thu và ngược lại.
Tử số được xác định bằng cách xác định doanh thu như trên. Mẫu số chính là
tổng giá trị của các khoản tiền mặt, tiền trong quỹ, tiền gửi tại ngân hàng của doanh
nghiệp và các tài sản tương đương tiền, tức là có khả năng tốt trong việc chuyển đổi
thành tiền như chứng khoán thanh khoản cao, các giấy tờ có giá
Chỉ tiêu này được đưa ra nhằm đánh giá khả năng quản lí loại tài sản có tính
thanh khoản cao nhất trong các tài sản là tiền trong việc tạo ra doanh thu. Nó cho biết
nắm giữ mỗi một đồng “tiền và tài sản tương đương tiền” thì sẽ tạo được bao nhiêu
đồng doanh thu.
b. Vòng quay khoản phải thu
Vòng quay khoản phải thu =
Doanh số bán hàng
Các khoản phải thu
Vòng quay khoản phải thu cho biết các khoản phải thu sẽ được thu hồi bình quân
bao nhiêu lần trong năm.
Tử số là doanh số bán hàng được tính như doanh thu của hoạt động sản xuất kinh
doanh, mẫu số là giá trị của các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp dựa theo số
liệu trên Bảng Cân đối kế toán. Kì thu tiền bình quân và vòng quay khoản phải thu đều
có chung một đối tượng xem xét là chất lượng tín dụng của các khoản phải thu và hiệu
quả của chính sách tín dụng và thu hồi các khoản vay của công ty. Vòng quay cho
chúng ta biết thông tin dưới dạng số lần, còn kì thu tiền bình quân cho biết thông tin
dưới dạng số ngày. Nhìn chung, vòng quay cao thường tốt hơn bởi vì đó là bằng chứng
cho thấy hiệu quả của việc chuyển các khoản phải thu thành tiền. Tuy nhiên, nếu hệ số
này quá cao thì chứng tỏ rằng chính sách tín dụng và thu hồi các khoản phải thu của
công ty quá chặt chẽ.
c. Kì thu tiền bình quân
Kì thu tiền

bình quân
=
Các kho
ản phải thu

Doanh số bán hàng bình quân hàng ngày
Kì thu tiền bình quân là số ngày bình quân cần có để chuyển các khoản phải thu
thành tiền.
Giá trị các khoản phải thu trên tử số là giá trị của các khoản phải thu ngắn hạn
của doanh nghiệp theo số liệu trên Bảng Cân đối kế toán. Mẫu số được xác định bằng
cách lấy doanh số bán hàng một năm chia cho số ngày trong năm.
Kì thu tiền bình quân giúp chúng ta đánh giá khả năng chuyển đổi thành tiền của
các khoản phải thu, hay nói cách khác là khả năng của công ty trong việc thu nợ từ
khách hàng. Hệ số này cũng giúp đưa ra những thông tin về chính sách tín dụng của
công ty. Nếu kì thu tiền bình quân tăng dần hoặc cao hơn so với con số bình quân của
ngành thì chứng tỏ chính sách tín dụng của công ty là dễ dãi và các khoản phải thu
không đủ tính thanh khoản. Việc nới lỏng tín dụng sẽ cần thiết trong trường hợp cần
kích thích bán hàng, tuy nhiên việc làm này cũng làm tăng chi phí cho công ty. Nếu kì
thu tiền bình quân được rút ngắn lại hoặc thấp hơn so với con số bình quân của ngành
thì chứng tỏ chính sách tín dụng của công ty là khắt khe, điều này khiến cho công ty có
thể bị mất nhiều khách hàng quan trọng.
d. Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá v
ốn hàng bán

Hàng tồn kho bình quân
Để xem xét hiệu quả của công ty trong việc quản lí và bán hàng trong kho, người
ta sử dụng chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho. Đó là tiêu chuẩn để đánh giá tính thanh
khoản của hàng tồn kho của một công ty.

Giá vốn hàng bán được xác định bằng cách lấy giá thành sản xuất cộng chênh
lệch sản phẩm tồn kho. Trong đó, chênh lệch sản phẩm tồn kho bằng chi phí nguyên vật
liệu tồn kho đầu kì cộng chi phí nguyên vật liệu phát sinh trong kì và chi phí nguyên vật
liệu tồn kho cuối kì. Giá thành sản xuất bằng chi phí sản xuất trực tiếp (như chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí vật tư trực tiếp, chi phí sản xuất chung) cộng chênh lệch sản
phẩm dở dang.
Hàng tồn kho bình quân được tính bằng trung bình cộng của giá trị hàng tồn kho
cuối kì trước và giá trị hàng tồn kho của kì đang tính.
Nhìn chung, vòng quay hàng tồn kho cao cho thấy dấu hiệu của việc quản lí có hiệu quả
hàng tồn kho và chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty, hàng tồn kho được bán
càng nhanh thì vốn lưu trong kho càng thấp. Tuy nhiên, nếu vòng quay này quá cao
cũng có nghĩa là công ty đang bị thiếu hoặc bị mất các đơn đặt hàng, giá hàng đang
giảm hoặc công ty đang thiếu các nguyên vật liệu. Ngược lại, nếu hệ số này quá thấp thì
lại là dấu hiệu của việc công ty còn đọng quá nhiều hàng trong kho hoặc hàng trong kho
bị lỗi thời, chất lượng kém…
e. Vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động =
Doanh t
hu

Tài sản lưu động
Tỷ số này cho biết một đồng đầu tư vào tài sản lưu động thì tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu. Cũng như trên, doanh thu được xác định bằng cách lấy tổng doanh thu
của ba hoạt động: hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác
của doanh nghiệp. Tài sản lưu động được xem xét là những tài sản tham gia trực tiếp
vào quá trình sản xuất và bị chế biến thành sản phẩm, bao gồm tổng giá trị của tiền,
chứng khoán thanh khoản, hàng tồn kho, các khoản phải thu, chi phí trả trước ngằn
hạn Chỉ tiêu vòng quay vốn lưu động đo lường hiệu quả của việc doanh nghiệp quản lí
tài sản lưu động như thế nào, từ đó giúp doanh nghiệp có những điều chỉnh cần thiết
trong việc đầu tư vào tài sản.

1.2.2.2. Hiệu quả quản lí tài sản dài hạn
Hiệu quả quản lí tài sản dài hạn được xem xét qua chỉ tiêu hiệu suất sử dụng
tài sản cố định vì chỉ tiêu này giúp đánh giá một cách khái quát quá trình quản lí tài sản
cố định của doanh nghiệp.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu

Tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đồng đầu tư vào tài sản cố định thì doanh nghiệp thu
được bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định xem xét mức đầu tư
của công ty vào tài sản cố định (đất đai, nhà xưởng, trang thiết bị) và điều này cực kì
quan trọng đối với những công ty đòi hỏi vốn lớn như một nhà sản xuất với các khoản
đầu tư vào tài sản lâu dài.
Trong công thức trên, nếu lấy tổng doanh thu từ từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ hoạt động khác sẽ có được tổng
doanh thu để tính toán hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Còn tài sản cố định được xác
định bằng cách lấy nguyên giá tài sản trừ đi khấu hao tài sản cố định, trong đó phương
pháp trich khấu hao tài sản cố định tùy thuộc vào từng doanh nghiệp cụ thể.
1.2.2.3. Hiệu quả quản lí tổng tài sản
Hiệu quả quản lí tổng tài sản được xem xét thông qua chỉ tiêu hiệu suất sử dụng
tổng tài sản bởi việc đánh giá hiệu suất sử dụng của tài sản sẽ giúp ta nhìn nhận được
quá trình quản lí tài sản của doanh nghiệp có hiệu quả hay không.
Hiệu suất sử dụng
tổng tài sản
=
Doanh thu

Tổng tài sản
Tỉ số này cho biết cứ 100 đồng tài sản thì đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ
tiêu doanh thu được xác định bằng tổng của doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh

doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ hoạt động khác (hay còn gọi là
hoạt động bất thường). Chỉ tiêu tổng tài sản được xác định bằng cách lấy tổng giá trị của
tài sản lưu động và giá trị còn lại của tài sản cố định trên Bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản lại xem xét mức độ hiệu quả của việc quản lí tất cả
tài sản của một công ty. Nhìn chung, hệ số này càng cao thì mức đầu tư để tạo doanh số
bán hàng càng thấp và do vậy đem lại lợi nhuận càng lớn cho công ty. Nếu hiệu suất tài
sản tương đối thấp so với mức của ngành hoặc thấp so với chính mức độ trước đây của
công ty thì có nghĩa là công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản hoặc là tốc độ bán hàng
của công ty quá chậm.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lí tài sản của doanh nghiệp
1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp (nhân tố chủ quan)
1.3.1.1. Chu kì sản xuất kinh doanh
Theo nghĩa chung nhất, chu kỳ sản xuất kinh doanh được hiểu là sự biến động
của các hoạt động kinh tế ngắn hạn trong một thời kỳ nhất định, trong đó các giai đoạn
tăng trưởng và các giai đoạn suy giảm luân chuyển lẫn nhau không ngừng. Chu kì sản
xuất kinh doanh là một trong những nhân tố chủ quan có tác động đến hiệu quả quản lí
tài sản của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp, nếu chu kì sản xuất kinh doanh
ngắn, doanh nghiệp đó sẽ thu hồi được vốn nhanh, tốc độ luân chuyển vốn gia tăng, đặc
biệt là vốn lưu động, sản lượng tiêu thụ tăng, từ đó hiệu quả quản lí tài sản sẽ cao. Nhờ
chu kì sản xuất kinh doanh ngắn mà doanh nghiệp có nhiều lợi thế hơn trong việc sử
dụng vốn để tái đầu tư vào tài sản, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cấp trang thiết bị,
máy móc, nhà xưởng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên Điều này diễn ra hoàn
toàn ngược lại đối với một doanh nghiệp có chu kì sản xuất kinh doanh dài, tốc độ luân
chuyển vốn sẽ chậm, gây ứ đọng vốn, tốn kém chi phí, ách tắc trong quá trình sản xuất;
sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm; vốn đầu tư kinh doanh vào các nhà máy và các máy
móc trang thiết bị cũng giảm mạnh nên doanh nghiệp đã khó khăn nay lại càng gặp khó
khăn nhiều hơn. Có thể nói, chu kì sản xuất kinh doanh là yếu tố vô cùng quan trọng tác
động đến hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả quản lí tài sản nói riêng của doanh
nghiệp.

1.3.1.2. Khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp
Một cách chung nhất, vốn được hiểu là các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tiền này được hình thành tại những thời điểm
khác nhau và bằng những cách thức khác nhau. Vốn là điều kiện không thể thiếu để
thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi thành lập
doanh nghiệp, pháp luật quy định mức vốn pháp định đối với một số loại hình doanh
nghiệp, như vậy nếu không đáp ứng được yêu cầu về vốn pháp định thì doanh nghiệp sẽ
không thể thành lập được. Tuy nhiên, ngay cả đối với những loại hình doanh nghiệp
không yêu cầu vốn pháp định, doanh nghiệp cũng sẽ không thể đi vào hoạt động được
nếu không có vốn. Đâu sẽ là nguồn tài trợ cho việc xây dựng nhà xưởng, mua máy móc
thiết bị sản xuất, nguyên vật liệu ? Hay nói cách khác, đâu sẽ là nguồn tài trợ cho tài
sản của doanh nghiệp?
Chúng ta đã biết, nếu không có tài sản thì doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động
và sản xuất được, do vậy, vốn gián tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
nên tài sản, và khi đã có tài sản rồi thì vốn lại một lần nữa là nhân tố tác động đến hiệu
quả quản lí tài sản của doanh nghiệp. Hiệu quả quản lí tài sản của doanh nghiệp sẽ được
cải thiện đáng kể nếu doanh nghiệp biết sử dụng vốn để đầu tư đổi mới máy móc, dây
truyền, trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiếp cận trình độ khoa học công
nghệ hiện đại Điều này làm cho lượng nguyên vật liệu bị tiêu hao ít đi, giảm thiểu các

×