Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.93 KB, 79 trang )














TIỂU LUẬN:
Phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng tại Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Ba Đình










LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta ngày một phát triển, đời sống người dân đang dần
được nâng cao, thị trường hàng hóa cũng ngày càng đa dạng và phong phú với nhiều mẫu
mã và chủng loại khác nhau đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, không phải


lúc nào người tiêu dùng cũng có thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cho mình.
Nắm bắt được thực tế đó, các ngân hàng đã phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng nhằm
tạo điều kiện cho khách hàng của mình thỏa mãn các nhu cầu mua sắm trước khi có khả
năng thanh toán. Và chỉ trong một thời gian ngắn sau khi sản phẩm này ra đời, số lượng
khách hàng tìm đến ngân hàng tăng lên, không ngừng tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho
ngân hàng.
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Ba Đình tham gia vào lĩnh vực này sau nhiều
ngân hàng khác nhưng cũng đã phát triển một số sản phẩm cho vay tiêu dùng như: cho
vay mua và sửa chữa nhà ở, cho vay mua xe ô tô, cho vay cán bộ công nhân viên chức
không có tài sản đảm bảo… Trải qua một quá trình triển khai và rút kinh nghiệm, Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Ba Đình đã thu được những kết quả khả quan. Tuy
nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, để mở rộng hoạt động
cho vay tiêu dùng một cách an toàn và hiệu quả nhằm hướng tới mục tiêu trở thành một
trong những chi nhánh ngân hàng có uy tín trong việc cung ứng sản phẩm cho vay tiêu
dùng không phải là điều đơn giản.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng cho vay tiêu dùng, đồng thời mong
muốn tìm hiểu về thực trạng và khả năng phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng
trong tương lai tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Ba Đình, nên em đã lựa chọn:
“Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Ba
Đình” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.



Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung chính được chia làm 3
chương:
Chương 1: Lý luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Ba Đình
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân

hàng Ngoại thương Ba Đình

























CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng
nhất trong nền kinh tế thị trường. Với sự hiện hữu của ngân hàng, các cá nhân, hộ gia
đình có thể nhận được các khoản vay để trang trải chi phí học tập, mua sắm ô tô, đồ dùng
gia đình, sửa chữa và xây dựng nhà cửa. Với các hãng kinh doanh, các khoản vay của
ngân hàng được coi như nguồn tài trợ hiệu quả khi cần bổ sung thêm vốn để mở rộng,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên
thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một địa chỉ đáng tin
cậy nếu chúng ta muốn cất giữ tiền hay mong nhận được lời khuyên về lĩnh vực đầu tư
cho khoản tiền tiết kiệm.
Do hoạt động ngân hàng có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế nên
khó có thể đưa ra một khái niệm thống nhất về ngân hàng mà tùy thuộc vào mục đích và
khía cạnh nghiên cứu. Đứng trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp, giáo sư
Peter S.Rose- Hoa Kì đã khẳng định “ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Song dưới giác độ nghiên cứu của một nhà quản lý, Luật các tổ chức tín dụng (được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 và có
hiệu lực từ 1/10/1998) không đưa ra định nghĩa về NHTM nhưng cũng đã gián tiếp nêu
lên định nghĩa đó thông qua định nghĩa về “Ngân hàng” và “Hoạt động ngân hàng”.



Trong đó “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan” và “Hoạt động của ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, có thể thấy NHTM là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong

các loại hình hoạt động tín dụng. Hoạt động của nó có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển
của nền kinh tế một nước. Do đó, pháp luật các nước rất quan tâm, xem xét tới loại hình
hoạt động tín dụng này. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ
thể của từng nước mà pháp luật về ngân hàng có những đặc điểm đặc thù về tổ chức và
hoạt động.
- Là trung gian về vốn, trung gian thanh toán, trung gian về thông tin… trong nền
kinh tế, giúp điều chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, giúp cho quá trình
thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra thuận tiện hơn.
- Là tổ chức kinh doanh có điều kiện: để được phép hoạt động trong lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng, ngân hàng các NHTM phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nghiêm ngặt về vốn,
các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới chi nhánh…
- Hoạt động của NHTM chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước
về hoạt động ngân hàng, thường là ngân hàng trung ương các nước.
- Sản phẩm mà các NHTM cung cấp là các dịch vụ tài chính. Những sản phẩm này
luôn thay đổi theo điều kiện thị trường, rất dễ bắt chước và không có bản quyền.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.



- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín
dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng

NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức
khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hoạt động tín dụng, cho vay là
hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
- Cho vay: NHTM được cho vay các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức
sau:
+ Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và đời sống.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
- Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và
bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một
khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ so với vốn
tự có của NHTM.
- Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải
thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công
ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của
công ty cho thuê tài chính.
1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ



Để thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân hàng,
NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán
giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước, NHTM phải mở tài khoản
tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi NHTM đó đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư

tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của NHTM được mở tài
khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở chính của
chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động
sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân
hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
1.1.2.4. Hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ
thanh toán và ngân quỹ, NHTM còn có thể thực hiện một số hoạt động khác, bao gồm:
- Góp vốn mua cổ phần: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh
với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy
định.



1.1.3. Các loại hình tín dụng ngân hàng
1.1.3.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Hoạt động cấp tín dụng giữ vai trò quan trọng đối với bản thân ngân hàng, bởi thu

nhập từ hoạt động này không những chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân
hàng mà còn đảm bảo cho việc trả lãi các nguồn vốn huy động được. Trong thực tế cuộc
sống, thuật ngữ tín dụng được dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán
chịu hàng hóa, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy tờ có giá. Trong
mỗi quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả
giữa hai chủ thể:
- Một bên thì trao ngay một số tài sản;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài sản đó trong một thời
gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện, chẳng hạn hai người thường có
thể cho nhau vay tiền, hay như một công ty thương mại bán hàng trả chậm cho một công
ty khác. Tuy nhiên theo thời gian, chúng ta thấy có một sự chuyên nghiệp hơn, và ngày
nay khi nói tới tín dụng, người ta nghĩ ngay tới các NHTM.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng và Luật các Tổ chức Tín dụng: NHTM là một doanh
nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín dụng. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, các hoạt động của ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng hơn. Ngân
hàng có thể thực hiện tư vấn, thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, giấy
tờ có giá như tín phiếu, trái phiếu và các dịch vụ ngân quỹ. Nhưng hoạt động truyền
thống luôn đóng vai trò quan trọng nhất đối với các NHTM là hoạt động huy động vốn và
hoạt động tín dụng.
Trên cơ sở tiếp cận chức năng hoạt động của NHTM thì tín dụng được hiểu là một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài
chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa



thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán.
Qua các khái niệm trên ta thấy bản chất của tín dụng là một giao dịch về tiền hoặc tài

sản trên cơ sở có hoàn trả mà thực chất là sự vay mượn dựa trên cơ sở tin tưởng, tín
nhiệm lẫn nhau. Trong đó sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất của tín dụng, là
nguyên tắc để phân biệt phạm trù tín dụng với phạm trù cấp phát của ngân sách nhà nước.
1.1.3.2. Các loại hình tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú
với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng từng loại tín dụng tùy thuộc vào đặc điểm
kinh tế của đối tượng sử dụng vốn, nhằm sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù
hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng.
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng, cần thiết phải phân loại cho vay.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu
thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học sẽ là tiền đề để thiết lập các quy
trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay, tuy nhiên trên thực tế, người ta thường phân
loại cho vay theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ theo thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được
sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động cho các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất.
+ Cho vay trung hạn: ở Việt Nam, đây là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ
trên 1 đến 5 năm, còn đối với nhiều nước loại tín dụng này có thời hạn đến 7 năm. Loại
hình tín dụng này thường được áp dụng cho vay các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh để
đổi mới hoặc mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi vốn nhanh.
+ Cho vay dài hạn: là khoản cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm (Việt Nam), còn
ở các nước khác có thời hạn trên 7 năm, chủ yếu được cho vay để phục vụ việc xây dựng



nhà xưởng, đầu tư dây chuyền công nghệ với những dự án lớn hay có thời gian thu hồi
vốn dài. Các khoản vay này thường có lãi suất cao hơn và ngân hàng chịu nhiều rủi ro.

- Căn cứ theo khách hàng vay vốn
+ Cho vay khách hàng cá nhân: các khoản tín dụng dành cho khách hàng cá nhân
chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, khoản cho vay này thường có rủi ro
cao nhưng lại đem lại lợi nhuận rất lớn cho ngân hàng.
+ Cho vay khách hàng doanh nghiệp: tín dụng ngân hàng luôn là nguồn tài trợ
quan trọng không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp khi các doanh nghiệp cần vốn tài
trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đầu tư
xây dựng cơ bản
+ Cho vay chính phủ
+ Cho vay các tổ chức tài chính khác: cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài
chính khác.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng khoản vay
+ Cho vay tiêu dùng: là loại hình cho vay để tài trợ cho việc tiêu dùng nhằm
giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả,
tạo điều kiện cho người vay được hưởng mức sống cao hơn. Thông thường quy mô
những khoản vay này thường nhỏ, rủi ro cao, tuy nhiên đây là hình thức đem lại lợi
nhuận cao cho ngân hàng. Đối tượng được vay là các cá nhân và hộ gia đình để phục vụ
cho mục đích xây dựng, sửa chữa, mua nhà ở, mua ô tô, du học, du lịch…
+ Cho vay phục vụ sản xuất- kinh doanh: là loại cho vay của tổ chức tín dụng
đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh. Các khoản vay này thường được sử dụng
vào việc tài trợ cho vốn lưu động, mua sắm tài sản cố định. Đối tượng khách hàng chủ
yếu của loại hình này là các doanh nghiệp.
- Căn cứ mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay có bảo đảm: là loại hình cấp tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách hàng không



có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là

căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ
thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả
năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Căn cứ vào phương thức cho vay
+ Cho vay từng lần: đây là hình thức cấp tín dụng mà ngân hàng và khách hàng
sẽ ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu. Mỗi lần khách
hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng được thực hiện từ đầu, khách hàng và
ngân hàng sẽ thỏa thuận riêng cho từng lần đó về số lượng tín dụng, thời hạn khoản vay,
lãi suất áp dụng, tài sản đảm bảo, báo cáo tài chính…
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: đây là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng và
khách hàng cùng ký kết một hợp đồng hạn mức, hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối
kỳ. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và
nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hợp đồng hạn mức có thể bao gồm các điều khoản như
việc sử dụng vốn vay, lãi suất, kỳ hạn trả nợ, tài sản đảm bảo… và trong trượng hợp vỡ
nợ, các điều khoản liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng, chi trả những khoản vay còn
tồn đọng. Trong thời gian của hợp đồng hạn mức, khách hàng có thể thực hiện vay trả
nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi khi khách hàng có
nhu cầu vay vốn mà không vượt quá hạn mức đã ký thì chỉ cần nộp đơn xin vay và lập
hợp đồng vay là được ngân hàng xem xét với những điều kiện vay vốn đã được thỏa
thuận trước trong hợp đồng hạn mức.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng



Như chúng ta đã biết, đối với các NHTM thì các khoản cho vay dành cho cá nhân và

người tiêu dùng thường là những món vay nhỏ lẻ và chứa đựng nhiều rủi ro nên đã có
thời kì các NHTM từ chối những khoản cho vay này. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế
ngày càng phát triển và sức ép cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong hệ thống ngân hàng
đã buộc các nhà ngân hàng phải thay đổi và mở rộng các dịch vụ cung ứng của mình
nhằm nâng cao sức cạnh tranh, không những trong hệ thống ngân hàng mà còn cả với các
định chế tín dụng khác. Để làm được điều này yêu cầu ngân hàng buộc phải đa dạng hóa
các sản phẩm của mình, không chỉ dừng lại ở các sản phẩm truyền thống là huy động
vốn, tín dụng, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ… mà còn phát triển các sản phẩm mới như
cho vay tiêu dùng, tư vấn, dịch vụ cho thuê két, dịch vụ ngân hàng trọn gói…
Như vậy, có thể thấy rằng tín dụng tiêu dùng ra đời chính từ sự phát triển của nền
kinh tế thị trường cộng với sự canh tranh ngày càng gay gắt trong hệ thống ngân hàng.
Một lý do khác khiến tín dụng tiêu dùng ra đời và phát triển là việc giải quyết hai mâu
thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thanh toán của cá nhân
người tiêu dùng và mâu thuẫn giữa sản xuất hàng hóa với tiêu thụ hàng hóa.
Với mâu thuân thứ nhất, người tiêu dùng hay còn gọi là người nhận tài trợ, là những
người thuộc mọi tầng lớp dân cư, không phân biệt màu da, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ
học vấn… là những người có công việc và thu nhập ổn định, có nhu cầu mua sắm nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống khi chưa có đủ khả năng thanh toán để thực hiện những
mong muốn trên. Thuật ngữ “nhu cầu” ở đây được hiểu theo ba mức độ khác nhau là nhu
cầu tự nhiên, mong muốn và yêu cầu.
Trong khi nhu cầu tự nhiên là vô hạn thì nhu cầu có khả năng thanh toán là hữu hạn.
Để biến nhu cầu tự nhiên thành nhu cầu có khả năng thanh toán thì phải tính đến tình
trạng thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng. Trên thực tế, người tiêu dùng không
thể có ngay được các khoản thu nhập, các khoản tiền lớn trong hiện tại mà phải qua quá
trình tích lũy lâu dài, có thể gần cả đời người. Do đó, thông qua việc cấp tín dụng, ngân
hàng đã cho phép khách hàng được sử dụng hàng hóa trước khi có khả năng thanh toán.



Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa việc sản xuất hàng hóa với tiêu thụ hàng hóa của

các nhà sản xuất kinh doanh. Những người sản xuất chỉ đạt được hiệu quả trong hoạt
động của mình khi họ nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng và đáp ứng tốt nhu cầu
này. Các công ty thương mại lớn có thể cho phép các công ty con của mình bán chịu hàng
hóa cho khách hàng, chủ yếu là bán trả góp để nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên,
trong trường hợp này, thường thì người tiêu dùng chỉ được thỏa mãn với một số loại hàng
hóa nhất định. Khắc phục được nhược điểm đó, các tổ chức tín dụng có thể đáp ứng nhu
cầu về nhiều loại hàng hóa khác nhau do các công ty thương mại khác nhau cung cấp
thông qua tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho người tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng ra đời đã giúp những người có tiền sử dụng tiền của mình một cách
hiệu quả thông qua việc cho vay. Nhưng quan trọng hơn, cho vay tiêu dùng đáp ứng được
nhu cầu vượt quá khả năng thanh toán, nâng cao mức sống của người tiêu dùng, đồng
thời đẩy mạnh tiêu thụ cho người bán, giúp quá trình lưu thông hàng hóa từ khâu sản xuất
đến tiêu dùng được thông suốt và hiệu quả.
Ngày nay, lĩnh vực cho vay tiêu dùng đang phát triển mạnh mẽ. Nhiều công ty chuyên
môn hoá đã tìm kiếm nhiều dạng dịch vụ khác nhau và hiện đang mở rộng dần ra, phù
hợp với việc cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ. Lĩnh vực này cũng không còn chỉ do
các ngân hàng và công ty tài chính thực hiện nữa mà các công ty bảo hiểm, công ty
chứng khoán, ngân hàng tiết kiệm bưu điện vv cùng tham gia cung cấp dịch vụ này.
Tại Việt Nam, hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM đã phát triển vào những năm
1993 - 1994, trong thời gian đầu này tập trung nhiều vào cho vay trả góp, các sản phẩm
cung ứng còn rất đơn điệu. Tuy nhiên, do chưa có hành lang pháp lý rõ ràng nên hoạt
động được một thời gian các ngân hàng tỏ ra rất lúng túng trong việc cấp tín dụng theo
hình thức này.
Hiện nay, khi mà một số văn bản pháp luật hướng dẫn đã ra đời thì lĩnh vực cho vay
tiêu dùng ở nước ta lại đang trong xu thế rộ lên, hiện nó đang được xem là thị trường
tiềm năng và có nhiều điều kiện phát triển mạnh của các NHTM tại Việt Nam.
1.2.2. Khái niệm cho vay tiêu dùng




Có nhiều quan điểm khác nhau về cho vay tiêu dùng. Có người cho rằng: “cho vay
tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng đối với người tiêu dùng nhằm tài trợ cho chính sự tiêu
dùng”, người khác lại nói: “tín dụng tiêu dùng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân
hàng và một bên là cá nhân người tiêu dùng trong đó ngân hàng chuyển giao tiền cho
khách hàng với nguyên tắc người đi vay (khách hàng) sẽ hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một
thời điểm xác định trong tương lai”. Nhưng nhìn chung, ta có thể hiểu “cho vay tiêu dùng
là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ
gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng, với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi sau một thời gian nhất định”.
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu, mua sắm, sửa chữa nhà cửa… của các cá nhân, hộ gia đình. Các khoản vay này giúp
người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo
cho họ có được một cuộc sống có chất lượng cao hơn.
1.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
1.2.3.1. Quy mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu
vốn không cao vì nhu cầu của người tiêu dùng đối với các loại hàng hóa xa xỉ là không
cao hoặc đã có tích lũy từ trước đối với những tài sản có giá trị lớn. Mặt khác, do cho vay
tiêu dùng có độ rủi ro cao hơn nên ngân hàng cũng thường thận trọng hơn trong việc
quyết định số tiền cho vay căn cứ vào khả năng trả nợ và tài sản đảm bảo của khách hàng.
Song nếu xét về quy mô thì nhu cầu vay tiêu dùng là khá lớn do đối tượng của loại hình
cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội, từ những người có thu nhập cao đến những
người có thu nhập trung bình và thấp với nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng. Khi chất
lượng cuộc sống và trình độ dân trí được nâng cao, người dân càng có nhu cầu vay ngân
hàng để cải thiện và nâng cao mức sống. Do đó, nền kinh tế càng phát triển, số lượng các
khoản vay tiêu dùng sẽ càng nhiều.
1.2.3.2. Các khoản vay tiêu dùng có lãi suất “cứng nhắc”




Không như hầu hết các khoản vay kinh doanh, lãi suất có thể thay đổi tùy theo điều
kiện thị trường, các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cố định, đặc biệt là trong cho
vay tiêu dùng trả góp. Ngay khi quan hệ tín dụng được xác lập thì mức lãi suất đã được
ấn định và duy trì trong suốt thời hạn vay. Mặt khác, khi vay tiền, người tiêu dùng thường
không quan tâm nhiều tới lãi suất mà họ chỉ quan tâm tới khoản tiền phải trả hàng kỳ,
thời gian được giải ngân và khả năng trả nợ của mình bởi vì người tiêu dùng thường coi
vay mượn là công cụ để đạt được một cuộc sống thoải mái hơn chứ không phải là một lựa
chọn dùng trong tình trạng khẩn cấp hoặc để tạo ra lợi nhuận.
1.2.3.3. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao
Vì đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên hoạt
động này không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan của người tiêu dùng mà còn
chịu tác động từ các yếu tố khách quan từ bên ngoài. Ta có thể thấy một số nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới tình trạng này là:
- Thông tin tài chính của cá nhân và hộ gia đình thường khó đầy đủ và rõ ràng
như thông tin về doanh nghiệp (công khai thông qua báo cáo tài chính), dẫn đến rủi ro
đạo đức và rủi ro thông tin không cân xứng. Các cá nhân có thể tìm cách trốn tránh không
trả các khoản vay cho dù có khả năng thanh toán.
- Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập ổn định tại thời điểm hiện tại của người
vay. Do vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khoẻ, mất việc làm hay gặp các biến cố bất
ngờ ảnh hưởng đến thu nhập hàng tháng, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong thu hồi nợ.
Đây là rủi ro khó lường trước, khác với món vay kinh doanh ta có thể hạn chế được thông
qua nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
- Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế. Khi nền kinh tế mở
rộng, người dân lạc quan về tương lai thì họ sẽ vay ngân hàng nhiều hơn, và khi nền kinh
tế suy thoái, tình trạng thất nghiệp tăng thì họ sẽ hạn chế vay mượn ngân hàng.
1.2.3.4. Các koản cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn
Do số lượng món vay tiêu dùng nhiều, khách hàng đông và đa dạng nhưng số lượng
mỗi khoản vay lại nhỏ, ngân hàng phải huy động nhiều nhân lực cho hoạt động cho vay,




từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định cho vay, giải ngân cũng như
kiểm soát và thu nợ đối với khách hàng sau khi cho vay. Mặt khác, ngân hàng cũng gặp
không ít khó khăn để quản lý các khoản cho vay tiêu dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng
lớn do đối với khách hàng cá nhân, thông tin về tình hình tài chính thường không công
khai minh bạch như ở các công ty lớn. Tất cả những điều này kiến chi phí tính trên một
đơn vị tiền tệ cho vay tiêu dùng cao hơn so với các loại hình cho vay khác.
1.2.3.5. Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có khả năng sinh lời
cao nhất
Do các khoản vay tiêu dùng thường được định giá cao, theo ước tính chỉ khi nào lãi
suất vay vốn trên thị trường và tỉ lệ tổn thất tín dụng tăng lên đáng kể thì hầu hết các
khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Việc định giá cao là do cho vay
tiêu dùng có chi phí lớn và rủi ro cao, hơn nữa là do tâm lý người vay không quan tâm tới
lãi suất phải trả, họ thường quan tâm tới khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là lãi suất.
Mặt khác, nếu như trong kinh doanh, người ta phải hạch toán lãi lỗ thì trong tiêu dùng
người ta đặt yếu tố thỏa mãn lên hàng đầu dù có phải trả chi phí lớn hơn.
1.2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Có nhiều cách phân loại cho vay tiêu dùng, tuỳ theo tiêu thức chúng ta lựa chọn mà
cho vay tiêu dùng được phân chia thành:
1.2.4.1 Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng bất động sản: Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài trợ cho nhu
cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà cửa của cá nhân hay hộ gia đình. Những món vay
thường có quy mô lớn và thời gian dài. Việc đánh giá giá trị tài sản tài trợ có vai trò vô
cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nếu như trong cho vay tiêu dùng thông thường thì
thu nhập tương lai của người vay là yếu tố quan trọng để ngân hàng quyết định có cho
vay hay không thì trong cho vay tiêu dùng bất động sản, giá trị và tình hình biến động giá
của tài sản được tài trợ là yếu tố mà ngân hàng rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng tài trợ
cho loại tài sản này có giá trị lớn, nên sự biến động theo hướng không có lợi của nó sẽ
dẫn tới những thiệt hại rất lớn cho ngân hàng.




Cho vay tiêu dùng thông thường: Đây là những khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải
thiện đời sống như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học hành, y tế
hoặc giải trí Những khoản tín dụng thường có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ ngắn, do đó
mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản cho vay tiêu dùng bất động
sản. Đối với loại cho vay này, yếu tố quyết định cho vay hay không là khả năng trả nợ
của người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị tài sản đảm bảo. Có thể thấy một số loại
hình cho vay tiêu dùng thông thường như:
- Cho vay du học: Là khoản cho vay đối với thân nhân của những người đi du
học nhằm mục đích hỗ trợ tài chính cho người đi du học (tại chỗ hoặc nước ngoài).
- Cho vay mua xe hơi: Là khoản cho vay đối với cá nhân có nhu cầu mua ô tô
phục vụ cho nhu cầu cá nhân.
- Cho vay hỗ trợ tiêu dùng khác: Là các khoản vay để phục vụ cho các mục đích
đa dạng khác như chữa bệnh, cưới hỏi, đi du lịch…
1.2.4.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay tiêu dùng trả góp: Theo hình thức tài trợ này, thì người đi vay trả nợ cho
ngân hàng (gồm cả gốc và lãi) theo những kỳ hạn nhất định do ngân hàng quy định
(tháng, quý ). Hình thức này áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc với những
khách hàng mà thu nhập định kỳ của họ không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Là khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để
đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời hoặc mua hàng hoá có giá trị không lớn và được thanh
toán một lần khi khoản vay đáo hạn.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng
cho phép khách hàng vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín
dụng nhất định bằng cách sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi
dựa trên tài khoản vãng lai.
1.2.4.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người




tiêu dùng. Như vậy, cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức NHTM tài trợ cho các hãng
bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để họ bán hàng trả góp cho người tiêu dùng.
Có thể thấy rõ quy trình của hoạt động cho vay tiêu dùng gián tiếp thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình cho vay tiêu dùng gián tiếp

(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ kí hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân
hàng đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa
và loại tài sản bán chịu.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng kí kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá.
Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán toàn bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có những ưu điểm như giúp ngân hàng tiếp cận được với
đối tượng có nhu cầu vay cao, tiết kiệm được chi phí liên quan đến việc thẩm định và
đánh giá khách hàng (do có sự trợ giúp của phía nhà bán lẻ), gia tăng uy tín và mở rộng
địa bàn hoạt động. Tuy nhiên, cho vay gián tiếp cũng sẽ làm tăng rủi ro đối với ngân
hàng do ngân hàng không thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, mặt khác nhân viên
bán lẻ không được đào tạo về chuyên môn xét duyệt thẩm định các khoản vay lớn. Sự kết
hợp đồng thời giữa 3 bên: ngân hàng, người bán lẻ và khách hàng cũng đòi hỏi một sự
phối hợp nhịp nhàng và một hợp đồng chặt chẽ về trách nhiệm các bên.

Ngân hàng

Công ty bán lẻ


Người tiêu dùng
(6) (3) (2)
(1)
(5)
(4)




Cho vay tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện thông qua 3 phương thức. Các
phương thức phân chia này chủ yếu dựa trên mức độ liên quan của công ty bán lẻ đối với
những rủi ro mà ngân hàng sẽ phải gánh chịu. Ở mức cao nhất, công ty bán lẻ sẽ cam kết
thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không
thanh toán cho ngân hàng. Đây là phương thức an toàn nhất đối với ngân hàng. Theo
phương thức thứ hai, trách nhiệm thanh toán của công ty bán lẻ đối với ngân hàng chỉ có
giới hạn, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận. Phương thức thứ ba thì ngân
hàng sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro: sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, công ty bán lẻ
không còn trách nhiệm trong việc chúng có được hoàn trả hay không. Chỉ những công ty
bán lẻ rất được ngân hàng tin cậy mới áp dụng hình thức này. Ngoài ba phương thức trên,
nếu người tiêu dùng không trả được nợ thì ngân hàng có thể thanh lý tài sản bằng cách
bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Đây là hình thức trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc
với khách hàng của mình, thẩm định và đánh giá nhu cầu vay vốn của khách hàng và việc
thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính ngân hàng. Có thể hình dung quy trình cho
vay tiêu dùng trực tiếp qua sơ đồ các bước sau:


Sơ đồ 1.2: Quy trình cho vay tiêu dùng trực tiếp

(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng tín dụng với nhau.


Ngân hàng

Công ty bán lẻ

Người tiêu dùng
(5) (4) (2)
(3)
(1)



(2) Người tiêu dùng trả trước nhà cung cấp một phần số tiền mua hàng hoá của
mình.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho nhà cung cấp.
(4) Nhà cung cấp giao hàng hoá cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Ưu điểm của hình thức tài trợ này là: rất linh hoạt vì có sự đàm phán trực tiếp giữa
ngân hàng và khách hàng, quyết định cho vay hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ngân
hàng, ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ kiến thức kinh nghiệm của cán
bộ tín dụng. Hơn nữa, khi khách hàng quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có nhiều khả năng
họ sẽ sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm, dịch
vụ chuyển tiền và như vậy quyền lợi của cả hai phía ngân hàng và khách hàng đều được
thỏa mãn trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp của cả hai bên.
1.2.5. Đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng
Đối tượng mà các NHTM hướng tới khi thực hiện cho vay tiêu dùng là các cá nhân,
hộ gia đình có nhu cầu vay vốn phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Việc phân loại các đối tượng
vay tiêu dùng sẽ giúp các NHTM trong việc đưa ra những sản phẩm cho vay tiêu dùng
phù hợp và đem lại hiệu quả cao nhất. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại đối tượng của
hoạt động cho vay tiêu dùng, dưới đây là các tiêu thức phổ biến thường gặp.

1.2.5.1 Phân theo mức thu nhập
Những người có thu nhập thấp: họ là những người có hoàn cảnh khó khăn, rất muốn
cải thiện đời sống của mình nhưng bị hạn chế do thu nhập không đủ để thoả mãn nhu cầu
đa dạng của họ. Tuy nhiên, họ cũng có mong muốn cuộc sống tốt hơn như bất kỳ những
người có thu nhập cao hơn nào. Do đó, ngân hàng cũng cần có các biện pháp phù hợp để
thu hút những người này đến ngân hàng hiện tại và trong tương lai. Xét trong hoàn cảnh
cụ thể ở Việt Nam thời gian này thì đây là những khách hàng tiềm năng đối với các
NHTM.
Những người có thu nhập trung bình: khi thu nhập tăng thì nhu cầu cải thiện điều kiện
sống của người tiêu dùng cũng tăng. Đối với những người thuộc nhóm này thì nhu cầu tín



dụng tiêu dùng có hướng tăng trưởng ngày càng mạnh bởi khoản tích lũy của nhóm này
tuy ít song thu nhập trong tương lai của họ có phần ổn định để có thể chi trả cho những
nhu cầu tiêu dùng hiện tại.
Những người có thu nhập cao: những người thuộc nhóm này thường cần tới những
khoản vay tiêu dùng với mục đích coi đó như là một khoản linh hoạt để chi tiêu và trợ
giúp thêm cho khả năng thanh toán, khi mà tiền vốn của họ đã đem đầu tư trung và dài
hạn. Mặc dù khoản vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại là những món tiền lớn so với các nhóm
khách hàng khác nên ngân hàng tỏ ra quan tâm đặc biệt đến nhóm khách hàng này.

1.2.5.2. Phân theo tình trạng công tác hoặc lao động
Nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân phụ thuộc vào tính chất công việc, nghề nghiệp
hoặc nơi công tác. Xét theo đặc điểm phân loại trên, chúng ta có các nhóm khách hàng
sau:
- Những khách hàng làm công ăn lương
- Những người có công việc kinh doanh riêng
- Những người hành nghề chuyên nghiệp (ca sĩ, luật sư, bác sĩ …̣)

- Những người lao động tự do
Theo cách phân loại trên thì trên thực tế những người thuộc nhóm 3 đầu có thu nhập
ổn định và cao hơn so với nhóm cuối và nhu cầu vay tiêu dùng phân theo tình trạng công
tác hay lao động cũng chủ yếu xuất phát từ những nhóm đó.
1.2.6. Phân biệt cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh của ngân hàng thương mại
Mặc dù cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh đều là hình thức cấp tín dụng của
ngân hàng cho khách hàng, song giữa chúng vẫn có những điểm khác biệt lớn.
Tiêu chí so sánh Cho vay tiêu dùng Cho vay kinh doanh
Khái niệm
L
à hình th
ức cấp tín dụng trong
đó ngân hàng thỏa thuận để
khách hàng là cá nhân hay hộ
L
à hình th
ức cấp tín dụng
của ngân hàng cho các cá
nhân, doanh nghiệp và các



Tiêu chí so sánh Cho vay tiêu dùng Cho vay kinh doanh
gia đ
ình s
ử dụng một khoản tiền
với mục đích tiêu dùng với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi sau một thời gian nhất
định

ch
ủ thể khác sử dụng với
mục đích kinh doanh trong
một thời gian nhất định và có
trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện cả gốc và lãi khi đến
hạn thanh toán.
Đối tượng vay vốn
Đ
ối t
ư
ợng vay tiêu dùng chủ
yếu là các cá nhân và hộ gia
đình.
C
ác cá nhân, h
ộ gia
đ
ình, các
doanh nghiệp và tổ chức
kinh doanh khác.
Mục đích sử dụng
vốn vay
Khách hàng vay tiêu dùng chủ
yếu nhằm mục đích phục vụ đời
sống như mua sắm các hàng
hóa, dịch vụ, xây dựng và sửa
chữa nhà cửa…
Tài trợ cho việc xây dựng
nhà xưởng, mua sắm máy

móc, thiết bị, nguyên vật
liệu… phục vụ cho sản xuất
kinh doanh.
Đặc điểm
Quy mô
và số
lượng
Quy mô m
ỗi khoản vay tiêu
dùng nhỏ nhưng số lượng các
khoản vay tiêu dùng lại lớn.
Quy mô m
ỗi khoản vay
thường rất lớn song số lượng
khoản vay ít.
Lãi suất

Lãi suất của các khoản cho vay
tiêu dùng thường cao và cố định
trong suốt thời hạn vay vốn.
Các khoản cho vay kinh
doanh thường có lãi suất thấp
hơn và thay đổi theo điều
kiện thị trường.
Lợi
nhuận
Các khoản vay tiêu dùng mang
lại lợi nhuận cao cho ngân hàng
Các khoản cho vay kinh
doanh mang lại thu nhập

thấp hơn cho ngân hàng
Rủi ro
Cho vay tiêu dùng thường tiềm
ẩn nhiều rủi ro hơn các loại cho
vay khác.
Các khoản cho vay kinh
doanh có độ rủi ro thấp hơn.



Tiêu chí so sánh Cho vay tiêu dùng Cho vay kinh doanh
Chi phí
Chi phí c
ủa các khoản cho vay
tiêu dùng thường lớn, nhất là chi
phí quản lý các khoản vay tiêu
dùng này.
Các kho
ản cho vay kinh
doanh thường có chi phí thấp
hơn.

Về quy trình cho vay, cả hai hình thức cho vay này đều phải qua các bước sau:
- Bước 1: Tìm hiểu sơ bộ về khách hàng.
- Bước 2: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
- Bước 3: Phân tích tín dụng.
- Bước 4: Quyết định tín dụng.
- Bước 5: Giải ngân.
- Bước 6: Thu nợ.
Tuy giống nhau về các bước trong quy trình nhưng nội dung quy trình, thủ tục của

từng bước giữa hai hình thức này có nhiều điểm khác biệt, tùy thuộc vào quy định cụ thể
của từng ngân hàng.
1.2.7. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với sự phát triển kinh tế xã hội
1.2.7.1. Đối với người tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt với những người có thu nhập thấp và trung
bình, họ sẽ được hưởng các dịch vụ, tiện ích trước khi có đủ khả năng về tài chính như
mua sắm các hàng hoá thiết yếu có giá trị cao như nhà cửa, xe hơi… hay trong trường
hợp chi tiêu cấp bách như nhu cầu về y tế.
Có thể nói rằng bất cứ một người nào đều mong muốn được thoả mãn những nhu cầu
của riêng mình, bắt đầu từ những hàng hoá thiết yếu rồi đến những hàng hoá xa xỉ hơn.
Tuy nhiên thực tế là một người trẻ lại chưa có đủ khả năng chi trả cho những nhu cầu của
mình mà họ cần thời gian tích luỹ tiền, người tiêu dùng sẽ khéo léo phối hợp giữa thoả



mãn nhu cầu ở hiện tại với khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, nghĩa là họ sẽ thụ
hưởng phần thu nhập có trong tương lai.
Mặt khác, việc thỏa mãn trước nhu cầu sẽ thúc đẩy người tiêu dùng phấn đấu để chi
trả cho nhu cầu đó càng sớm càng tốt vì thông thường khi vay ngân hàng để mua sắm thì
chính tài sản đó sẽ trở thành vật đảm bảo đối với ngân hàng, mà tâm lý chung của nhiều
người là không muốn nắm giữ tài sản mà không phải của mình. Điều này gián tiếp đưa
đến việc tăng thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng.
Chính vì những lý do trên mà ngày càng nhiều các cá nhân, hộ gia đình tìm đến ngân
hàng với mong muốn ngân hàng sẽ giúp đỡ họ trong việc mua sắm hàng hóa thiết yếu,
những hàng hóa có giá trị cao nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và nâng cao cuộc sống.
1.2.7.2. Đối với người sản xuất
Mục tiêu của tất cả các nhà sản xuất là tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất kinh doanh,
tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ sản xuất cùng loại hàng hóa và đứng vững trên
thị trường. Để đạt được mục tiêu đó thì dù bằng cách này hay cách khác, các nhà sản xuất
đều mong muốn tiêu thụ được càng nhiều hàng hóa càng tốt, họ sẵn sàng bán hàng hóa

trả góp, thậm chí bán chịu trong một thời gian. Việc tạo điều kiện để người tiêu dùng có
thể mua hàng hoá nhiều hơn và nhanh hơn là đã giúp nhà sản xuất bán được sản phẩm,
quay vòng vốn nhanh hơn, mở rộng sản xuất, do đó lợi nhuận cũng tăng lên. Đây cũng là
nguyên do khiến càng ngày càng nhiều nhà sản xuất mong muốn hợp tác với ngân hàng
để mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.2.7.3. Đối với ngân hàng thương mại
Trước hết, cho vay tiêu dùng giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như ta
đã biết, cho vay tiêu dùng có chi phí cao nhưng đồng thời cũng tạo ra lợi nhuận lớn hơn
nhiều trên một đồng vốn bỏ ra so với các hình thức cho vay khác. Cho vay tiêu dùng
cũng giúp ngân hàng thu hút thêm khách hàng sử dụng các hình thức dịch vụ khác, bởi vì
thông thường khi cho vay tiêu dùng, ngân hàng thường có ràng buộc khách hàng phải
chuyển tiền hoặc sử dụng trả lương qua tài khoản tại ngân hàng… Tuy nhiên, khách hàng
cũng có xu hướng sử dụng kèm các dịch vụ ngân hàng cá nhân tại ngân hàng mình đã có



quan hệ tín dụng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng nâng cao năng lực
cạnh tranh và hội nhập với xu thế quốc tế.
1.2.7.4. Đối với nền kinh tế
Có thể nói rằng hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế, dù là trực tiếp hay gián tiếp
cũng đều được hưởng những lợi ích do hoạt động của ngân hàng mang lại. Việc ngân
hàng thực hiện cho vay tiêu dùng không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng mà việc cho vay này còn thúc đẩy sản xuất, tạo
công ăn việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của các hãng sản xuất kinh doanh, tạo ra sự
năng động cho nền kinh tế.
Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho người tiêu dùng, các NHTM đã góp phần kích
cầu trong nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng cạnh tranh của hàng
hóa trong nước, từ đó hỗ trợ nhà nước trong việc đạt được các mục tiêu xã hội như xóa
đói, giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, giảm tệ nạn xã hội, nâng cao
mức sống cho người dân.

1.2.8. Phát triển cho vay tiêu dùng
1.2.8.1. Khái niệm
Xét một cách tổng quát, phát triển được hiểu là sự tăng lên về chất lượng và số lượng.
Trong lĩnh vực ngân hàng, phát triển nói chung và phát triển cho vay tiêu dùng nói riêng
là một chỉ tiêu rất tổng hợp, có liên quan chặt chẽ đến việc gia tăng về quy mô, đối tượng
cho vay, sự thay đổi theo hướng tích cực trong cơ cấu các sản phẩm cho vay tiêu dùng
đang cung cấp. Phát triển cho vay tiêu dùng cũng được biểu hiện cụ thể qua chất lượng
và hiệu quả của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hang đó.
1.2.8.2. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh sự phát triển trong hoạt động cho vay tiêu dùng của một
ngân hàng, trong đánh giá cho vay tiêu dùng người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:

×