Mục lục
Trang
Lời nói đầu...................................................................................................3
Chương 1: Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
trong các doanh nghiệp ..............................................................................5
1. Khái niệm và kết cấu TSLĐ của doanh nghiệp ..................................5
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp...........................................................5
1.2. Khái niệm TSLĐ và sự cần thiết phải quản lý TSLĐ....................6
1.3. Kết cấu TSLĐ.................................................................................8
1.4. Vai trò của TSLĐ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.............8
1.5. Nguồn tài trợ TSLĐ của doanh nghiệp..........................................9
2. Phương pháp đánh giá và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử
dụng TSLĐ............................................................................................10
2.1. Hiệu quả sử dụng TSLĐ...............................................................10
2.2. Phương pháp đánh giá..................................................................11
2.2.1. Phương pháp so sánh.............................................................11
2.2.2. Phương pháp tỷ số.................................................................13
2.3. Nội dung quản lý TSLĐ...............................................................17
2.3.1. Quản lý dự trữ tồn kho...........................................................17
2.3.2. Quản lý ngân quỹ và các chứng khoán thanh khoản cao.......20
2.3.3. Quản lý các khoản phải thu...................................................25
3. Các nhân tố ảnh hưởng và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng TSLĐ....................................................................................29
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ...................29
3.2. Các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ...32
Chương 2: Thực trạng sử dụng TSLĐ tại xí nghiệp kinh doanh các
sản phẩm khí miền bắc............................................................................33
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
1. Giới thiệu chung về xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền
bắc..............................................................................................................33
1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của xí nghiệp.............33
1.2. Chức năng và nhiệm vụ của xí nghiệp.........................................37
1.3. Bộ máy tổ chức của xí nghiệp......................................................38
2. Thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp............40
2.1. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam và môi trường kinh doanh
của xí nghiệp trong những năm qua.............................................40
2.2. Hoạt động quản lý tài chính của xí nghiệp..................................42
2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh ở xí nghiệp...............................44
3. Thực trạng về sử dụng TSLĐ tại xí nghiệp II.....................................50
3.1. Tình hình nguồn tài trợ cho TSLĐ...............................................50
3.2. Thực trạng tình hình sử dụng hàng dự trữ, tồn kho......................53
3.3. Thực trạng tình hình sử dụng ngân quỹ........................................57
3.4. Thực trạng tình hình quản lý khoản phải thu...............................61
3.5. Đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ tại xí nghiệp...........................64
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại xí nghiệp kinh
doanh các sản phẩm khí miền bắc...........................................................68
1. Phương hướng hoạt động của xí nghiệp trong năm 2003.................68
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ.....................................70
2.1. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng hàng dự trữ, tồn kho........72
2.2. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngân quỹ..........................73
2.3. Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý các khoản phải thu............76
3. Một số kiến nghị với công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm khí
..............................................................................................................79
Kết luận......................................................................................................81
Nhận xét của đơn vị thực tập....................................................................82
Tài liệu tham khảo.....................................................................................83
2 2
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
Lời nói đầu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong những năm gần
đây, các doanh nghiệp ở Việt Nam cũng đang có những bước phát triển mới
và đóng góp phần nào trong sự phát triển chung của đất nước. Riêng đối với
doanh nghiệp nhà nước, quá trình quản lý doanh nghiệp đã có nhiều thay đổi
kể từ khi chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn sản xuất
theo kế hoạch mà nhà nước giao cho nên hoạt động của nó rất trì trệ và mang
tính thụ động. Song kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh
nghiệp nhà nước phải tự định hướng cho hoạt động của mình, chủ động trong
các kế hoạch sản xuất. Với môi trường kinh doanh ngày càng mang tính cạnh
tranh và có nhiều biến động, các doanh nghiệp luôn phải có những chính sách
quản lý phù hợp để đạt được mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Trình độ quản lý là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển
doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu của mình, mỗi doanh nghiệp phải quản
lý và sử dụng nguồn vốn cũng như tài sản của doanh nghiệp mình một cách
có hiệu quả. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Chính vì vậy mà trong thời gian thực tập tại xí nghiệp kinh doanh các
sản phẩm khí miền bắc, em đã đi sâu vào nghiên cứu hiệu quả sử dụng tài sản
lưu động và lựa chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản
lưu động tại xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc” với mong
muốn đưa ra được những biện pháp để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả sử
dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp.
Trong luận văn này em đã tiếp cận vấn đề từ việc đưa ra những lý luận
về phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, rồi tìm hiểu thực
trạng và đánh giá thực trạng sử dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp, trong đó
3 3
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
sử dụng hai phương pháp đánh giá là phương pháp tỷ số và phương pháp so
sánh. Từ đó tìm ra những điểm mạnh và những mặt còn hạn chế và đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp kinh
doanh các sản phẩm khí miền bắc.
Luận văn này bao gồm 3 chương:
Chương 1: Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
tại xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc. Phần này là những lý
luận chung về doanh nghiệp, về tầm quan trọng của việc nghiên cứu hiệu quả
sử dụng tài sản lưu động cũng như nội dung và phương pháp để nghiên cứu
đánh giá.
Chương 2: Thực trạng sử dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp kinh
doanh các sản phẩm khí miền bắc. Đây là phần thực tiễn hoạt động của xí
nghiệp. Trong chương này bên cạnh việc giới thiệu về lịch sử hình thành, quá
trình phát triển, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của xí nghiệp là việc
đi sâu vào tìm hiểu tình hình sử dụng tài sản lưu động của xí nghiệp trong ba
năm 2000, 2001, 2002; phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu
động của xí nghiệp trong ba năm này.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại
xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc. Chương này bao gồm
phương hướng hoạt động của xí nghiệp trong thời gian tới và những giải pháp
để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của xí nghiệp trên cơ sở lý luận
và phân tích thực tiễn của hai chương trên.
Do trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế nên luận văn này
không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo để đề tài thêm hoàn thiện.
4 4
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
*********
1. Khái niệm và kết cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp:
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt
động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Theo Luật doanh nghiệp của Việt Nam thì doanh nghiệp là một tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh, tức là thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng các dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ
thể kinh doanh sau: kinh doanh cá thể, kinh doanh góp vốn, công ty. Các
doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh,
doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều
hướng tới mục tiêu là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên để
đạt được mục đích này thì không phải là dễ, đặc biệt là trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Mỗi doanh nghiệp đều phải chịu sự tác động của hàng loạt
các yếu tố như: sự phát triển của công nghệ tạo ra các phương thức sản
5 5
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
xuất, phương thức quản lý mới; chịu sự ràng buộc của hệ thống pháp luật
bao gồm luật, các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế quản lý tài chính để
đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp; chịu sức ép
của thị trường cạnh tranh. Quá trình hoạt động cũng như phương thức quản
lý của mỗi doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Vì vậy mỗi doanh nghiệp
phải tự điều chỉnh hướng đi của riêng mình, đặc biệt muốn phát triển bền
vững, các doanh nghiệp phải làm chủ và dự đoán trước được sự thay đổi
của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Có như vậy thì mới có thể ra
được những quyết định quản lý đúng đắn, kịp thời và đạt được mục tiêu
của doanh nghiệp mình.
Điều quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp là hoạt động quản lý tài chính. Tài chính doanh nghiệp
được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong
nền kinh tế bao gồm quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, với thị
trường tài chính và các thị trường khác, quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Một trong những nội dung quan trọng của quản lý tài chính là các doanh
nghiệp phải biết xác định một cơ cấu vốn và tài sản một cách phù hợp, từ
đó có thể tiếp tục hoạt động để sử dụng tài sản của mình nhằm bảo toàn và
phát triển vốn của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất trên cơ sở phân
tích về doanh thu và chi phí. Quản lý tài chính tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp
có thể đứng vững trên thị trường và đem lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp và lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế.
1.2. Khái niệm TSLĐ và sự cần thiết phải quản lý TSLĐ:
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh đều cần phải trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản
xuất như thế nào. Trong nền kinh tế thị trường, dưới áp lực của sự cạnh
tranh gay gắt, cùng với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp,
6 6
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp đều nhằm tìm ra lời giải đáp
trên với mục đích thu được lợi ích tối đa. Để làm được điều này trước hết
doanh nghiệp phải có vốn. Nó là yếu tố không thể thiếu được của mọi quá
trình sản xuất kinh doanh.
Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang
nắm giữ. Tài sản và vốn là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn
lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Do vậy quản lý vốn và tài sản trở thành một trong những nội dung quan
trọng của quản trị tài chính. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý vốn và tài
sản là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường với
hiệu quả kinh tế cao nhất. Tài sản trong doanh nghiệp bao gồm tài sản cố
định và tài sản lưu động, trong đó giá trị các tài sản lưu động của các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng giá trị
tài sản của chúng.
Đối với tài sản lưu động chúng ta có thể hiểu đó là những tài sản sử dụng
cho quá trình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, có thời gian sử dụng,
luân chuyển, thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu
động liên tục vận động, chu chuyển trong chu kỳ kinh doanh nên nó tồn tại ở tất
cả các khâu, các lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất của một doanh nghiệp.
Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động (TSLĐ) có ảnh hưởng rất
quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp đó.
Các doanh nghiệp cần phải quản lý tốt và có hiệu quả TSLĐ vì:
- TSLĐ có thời gian luân chuyển ngắn, thường xuyên biến đổi, nhạy
cảm với những biến đổi của thị trường, của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sử dụng TSLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý tốt TSLĐ sẽ góp phần giảm chi phí giá
thành sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
7 7
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
- Xác định nhu cầu tài sản lưu động hợp lý trong mối tương quan với
nhu cầu tài sản cố định, từ đó tránh được tình trạng dư thừa hay thiếu hụt
TSLĐ; sử dụng TSLĐ một cách hợp lý, tiết kiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp được bình thường và liên tục.
- Việc quản lý TSLĐ giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình về việc
sử dụng TSLĐ tại doanh nghiệp, từ đó dự báo và đề ra các kế hoạch về TSLĐ
cũng như việc xác định nguồn tài trợ hợp lý cho TSLĐ của doanh nghiệp
trong kỳ kinh doanh.
1.3. Kết cấu tài sản lưu động:
Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển:
- TSLĐ sản xuất: gồm tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất (nguyên,
nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ,…đang dự trữ trong kho) và tài sản trong sản
xuất (giá trị sản phẩm dở dang).
- TSLĐ lưu thông: gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông (thành
phẩm, hàng hóa dự trữ trong kho hay đang gửi bán) và tài sản trong quá trình
lưu thông (tiền, các khoản phải thu).
- TSLĐ tài chính: là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với các mục
đích kiếm lời (đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán,…).
Theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán:
- Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt tại két, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển.
- Đầu tư ngắn hạn: đầu tư chứng khoán ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác.
- Các khoản phải thu: phải thu của khách hàng, phải thu nội bộ, phải thu
khác, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, tạm ứng, chi phí trả trước.
- Dự trữ, tồn kho: gồm nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm.
8 8
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
- TSLĐ khác: bao gồm các khoản tạm ứng chưa thanh toán, chi phí trả
trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý và các khoản thế chấp,
ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này tập trung vào ngân quỹ,
các khoản phải thu và hàng tồn kho, dự trữ.
1.4. Vai trò của TSLĐ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh:
TSLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản
xuất. Trong cùng một lúc, TSLĐ của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp
các giai đoạn luân chuyển. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục
doanh nghiệp cần phải đảm bảo đủ về nhu cầu TSLĐ. Nếu không quá trình
sản xuất sẽ bị gián đoạn, gặp nhiều trở ngại, tăng chi phí hoạt động và dẫn
tới kết quả kinh doanh không tối ưu.
Trong quá trình theo dõi sự vận động của TSLĐ, doanh nghiệp quản
lý gần như được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Vì vậy mà TSLĐ có ảnh hưởng lớn đến việc thiết lập chiến lược sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô TSLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất. Với
một quy mô TSLĐ hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí,
tăng hiệu quả hoạt động, từ đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thị trường.
Ngoài ra cơ cấu TSLĐ còn thể hiện phần nào tình hình tài chính hiện
tại của doanh nghiệp. Cụ thể: khả năng sinh lời của các khoản đầu tư ngắn
hạn, tính an toàn cao hay thấp của các khoản phải thu, mức độ phụ thuộc
của doanh nghiệp đối với sự biến động của thị trường (nguyên, nhiên vật
liệu, hàng hoá,…).
1.5. Nguồn tài trợ TSLĐ của doanh nghiệp:
9 9
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
Để tài trợ cho TSLĐ người ta có thể sử dụng nhiều nguồn khác nhau.
Điều quan trọng là xác định hợp lý từng nguồn để có thể kiểm soát và sử
dụng một cách có hiệu quả. Sự hiệu quả được thể hiện ở việc giảm chi phí
tài trợ, tạo sự phù hợp giữa chu kỳ của TSLĐ và kỳ hạn nguồn tài trợ. Có
hai nguồn tài trợ chính cho TSLĐ của một doanh nghiệp là:
Nguồn tài trợ ngắn hạn: bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng, tạo vốn
bằng cách bán nợ, chiết khấu thương phiếu và các khoản vốn chiếm dụng
của các đối tượng khác như các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp, các
khoản phải trả cán bộ công nhân viên nhưng chưa đến hạn trả, các khoản
đặt cọc của khách hàng, mua chịu hàng hoá.
Nguồn tài trợ dài hạn: bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu (vốn góp ban
đầu, vốn huy động thêm bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, lợi nhuận giữ
lại) và vay dài hạn.
Mỗi nguồn tài trợ trên đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Nếu sử
dụng toàn bộ là nguồn tài trợ dài hạn thì doanh nghiệp sẽ ít phải chịu rủi ro
về khả năng thanh toán, không phải chịu rủi ro về lãi suất huy động. Tuy
nhiên huy động nguồn tài trợ dài hạn doanh nghiệp phải chịu phí tổn cao vì
chi phí huy động của nguồn dài hạn thường cao hơn nguồn ngắn hạn và có
thể dẫn tới hiện tượng lãng phí vốn khi chưa tài trợ cho nhu cầu TSLĐ mới.
Ngược lại nếu sử dụng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho TSLĐ thì chi phí
huy động thấp hơn và tránh được những lãng phí khi không có nhu cầu mới.
Nhưng sử dụng nguồn này doanh nghiệp lại phải đối mặt với những rủi ro về
thanh khoản, rủi ro biến động lãi suất. Do vậy các doanh nghiệp thường sử
dụng kết hợp cả hai nguồn trên để tài trợ cho nhu cầu TSLĐ. Tuy nhiên cũng
cần thấy rằng thông thường các doanh nghiệp không chọn duy nhất một mô
hình nào mà tuỳ từng thời kỳ doanh nghiệp sẽ có sự lựa chọn phù hợp.
10 10
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
2. Phương pháp đánh giá và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ:
2.1. Hiệu quả sử dụng TSLĐ:
Hiệu quả sử dụng TSLĐ là một phạm trù kinh tế phản ánh tình hình sử
dụng TSLĐ của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh
với tổng chi phí thấp nhất. Hiệu quả TSLĐ được biểu hiện tập trung ở các mặt
sau:
Khả năng sử dụng tiết kiệm, hợp lý TSLĐ của doanh nghiệp càng cao và
càng tăng so với mức sử dụng chung của ngành và so với kỳ trước đó. Việc sử
dụng tiết kiệm TSLĐ chỉ là một chỉ tiêu cần được xem xét khi tính hiệu quả
sử dụng TSLĐ. Bởi nó giúp doanh nghiệp giảm chi phí, không phải tài trợ
thêm cho TSLĐ khi mở rộng quy mô, từ đó tăng lợi nhuận và đáp ứng đầy đủ,
thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Tốc độ luân chuyển cao của TSLĐ trong quá trình sản xuất. Đây cũng
là biểu hiện của hiệu quả sử dụng TSLĐ vì khi TSLĐ có tốc độ luân
chuyển cao thì khả năng thu hồi vốn cao và nhanh, tiếp tục tái đầu tư cho
kỳ sản xuất tiếp theo, chớp được cơ hội kinh doanh và tăng khả năng cạnh
tranh.
Mặt biểu hiện nữa là khả năng sinh lời và khả năng sản xuất của TSLĐ
phải cao, không ngừng tăng so với ngành và giữa các thời kỳ. Điều này có
nghĩa là một đồng giá trị TSLĐ phải đem lại một khoản doanh thu cao (thể
hiện khả năng sản xuất) và một khoản lợi nhuận cao (thể hiện khả năng sinh
lời).
Ngoài ra hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp còn là việc doanh
nghiệp có một kết cấu tài sản hợp lý cùng với một kết cấu tối ưu của TSLĐ.
2.2 . Phương pháp đánh giá:
.2.1. Phương pháp so sánh:
11 11
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
Ngoài việc quan sát, thu thập, thống kê số liệu, tài liệu liên quan thì để
phân tích và đánh giá được hiệu quả sử dụng TSLĐ có nhiều phương pháp
trong đó có thể sử dụng hai phương pháp là phương pháp so sánh và
phương pháp tỷ số.
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân
tích hoạt động kinh doanh. Khi sử dụng phương pháp này thì chúng ta phải
lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh. Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ
được lựa chọn làm căn cứ để so sánh, được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục
đích của nghiên cứu mà lựa chọn gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh có
thể là:
- Tài liệu của năm trước (kỳ trước) nhằm đánh giá xu hướng phát triển
của các chỉ tiêu.
- Các mục tiêu đã dự kiến (kế hoạch, dự toán, định mức) nhằm đánh giá
tình hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định mức.
- Các chỉ tiêu trung bình ngành, khu vực kinh doanh, nhu cầu đơn đặt hàng,…
nhằm khẳng định vị trí của doanh nghiệp và khả năng đáp ứng nhu cầu,…
Các chỉ tiêu của kỳ được so sánh với kỳ gốc lựa chọn được gọi là chỉ tiêu
kỳ thực hiện và là kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được.
Để phép so sánh có ý nghĩa thì điều kiện tiên quyết là các chỉ tiêu được
sử dụng phải đồng nhất. Trong thực tế thường điều kiện có thể so sánh được
giữa các chỉ tiêu kinh tế cần được quan tâm cả về mặt thời gian và không
gian. Về mặt thời gian thì các chỉ tiêu được tính trong cùng một khoảng thời
gian hạch toán phải thống nhất trên ba mặt: phải cùng phản ánh nội dung kinh
tế, phải cùng một phương pháp tính toán và phải cùng một đơn vị đo lường.
Về mặt không gian thì các chỉ tiêu cần phải được quy đổi về cùng quy mô và
điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Thông thường, người ta sử dụng các kỹ thuật so sánh sau:
12 12
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
- So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện khối
lượng quy mô của các hiện tượng kinh tế.
- So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện kết
cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức phổ biến của các hiện tượng kinh tế.
- So sánh bằng số bình quân: số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt
đối, biểu hiện của tính chất đặc trưng chung về mặt số lượng, nhằm phản ánh
đặc điểm chung của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng
một tính chất. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu của phân tích, tính chất và nội
dung của các chỉ tiêu kinh tế mà người ta sử dụng kỹ thuật so sánh thích hợp.
Quá trình phân tích theo kỹ thuật của phương pháp so sánh có thể thực
hiện theo ba hình thức:
- So sánh theo chiều dọc: là quá trình so sánh nhằm xác định tỷ lệ quan
hệ tương quan giữa các giữa các chỉ tiêu từng kỳ của các báo cáo kế toán tài
chính, nó còn được gọi là phân tích theo chiều dọc.
- So sánh theo chiều ngang: là quá trình so sánh nhằm xác định các tỷ lệ
và chiều hướng biến động giữa các kỳ trên báo cáo kế toán tài chính.
- So sánh xác định xu hướng và tính liên hệ của các chỉ tiêu: các chỉ tiêu
riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo được xem xét trong mối
quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và chúng có thể được xem
xét nhiều kỳ để cho ta thấy rõ hơn xu hướng phát triển của các hiện tượng
nghiên cứu.
Các hình thức sử dụng kỹ thuật so sánh trên thường được phân tích trong
các báo cáo kế toán tài chính, nhất là bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh
13 13
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
doanh, bảng cân đối kế toán và bảng lưu chuyển tiền tệ là các báo cáo tài
chính định kỳ quan trọng của doanh nghiệp.
Trong chuyên đề này, việc sử dụng phương pháp so sánh để nghiên
cứu được áp dụng cả sử dụng cả so sánh bằng số tuyệt đối, tương đối với
số liệu được thu thập trong ba năm 2000, 2001, 2002; hình thức so sánh
là so sánh theo chiều ngang, so sánh kết quả năm sau so với năm trước
để thấy được tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như xu hướng
phát triển của nó và so sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng, kết
cấu của các thành phần trong TSLĐ.
2.2.2. Phương pháp tỷ số:
Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để
phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu
khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện do nguồn thông tin kế toán - tài
chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn làm cơ sở để hình thành
những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh
nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; việc áp dụng công nghệ tin học ngày
càng rộng rãi với nhiều chức năng và công dụng mới cho phép tích luỹ dữ
liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số; đồng thời
phương pháp này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và
phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục
theo từng giai đoạn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ, người ta sử dụng các tỷ số sau:
- Vòng quay TSLĐ:
Vòng quay TSLĐ
=
Doanh thu
TSLĐ bình quân
14 14
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
Chỉ tiêu này cho biết TSLĐ luân chuyển được mấy vòng trong kỳ.
Nếu số vòng quay tăng chứng TSLĐ luân chuyển với tốc độ cao, một điều
rất có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy vòng quay TSLĐ
càng tăng thì hiệu quả sử dụng TSLĐ càng tăng và ngược lại.
- Kỳ luân chuyển TSLĐ: là số ngày bình quân cần thiết để TSLĐ thực
hiện một vòng quay trong kỳ.
Kỳ luân chuyển TSLĐ
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của TSLĐ trong kỳ
Với thời gian của kỳ phân tích được quy ước là 1 năm tương ứng với
360 ngày; 1 quý tương ứng với 90 ngày; 1 tháng tương ứng với 30 ngày.
Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng
lớn, hiệu quả sử dụng TSLĐ càng cao. Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển
của trình độ kinh doanh, công tác quản lý và tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
- Khả năng sinh lời TSLĐ:
Khả năng sinh lời
=
LNST
TSLĐ
TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSLĐ. Nó cho biết mỗi đơn
vị TSLĐ có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
- Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành:
Khả năng thanh toán
=
TSLĐ
hiện hành Nợ ngắn hạn
TSLĐ ở đây thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn
dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn
15 15
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp,
các khoản phải trả, phải nộp khác,… Cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời
gian nhất định, tới một năm. Tỷ số này là thước đo khả năng thanh toán
ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ
nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong
một giai đoạn tương đương với thời hạn của khoản nợ đó.
- Tỷ số khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán
=
TSLĐ - dự trữ
nhanh Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản
quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao
gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho)
là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng TSLĐ và dễ bị lỗ nhất nếu
được bán. Do vậy tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả
các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
- Vòng quay tiền:
Vòng quay tiền
=
Doanh thu
Tiền + chứng khoán dễ chuyển nhượng
Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng
số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn
hạn dễ chuyển nhượng). Tỷ số này cho biết số vòng quay của tiền trong một
năm. Nếu tỷ số này càng lớn chứng tỏ trong một năm TSLĐ của doanh
nghiệp quay được nhiều vòng hơn và doanh nghiệp sử dụng TSLĐ có hiệu
quả hơn.
- Thời gian vòng quay tiền:
16 16
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
Thời
gian vòng
=
Số ngày trong kỳ
quay tiền Số vòng quay tiền
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để tiền chu chuyển được một
vòng. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng TSLĐ càng cao và ngược lại.
- Vòng quay dự trữ, tồn kho:
Vòng quay dự trữ
=
Doanh thu
Giá trị dự trữ bình quân
Đây là chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa
doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản
phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Tỷ số này cao chứng tỏ doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả và ngược lại.
- Thời gian vòng quay dự trữ:
Thời gian vòng quay dự trữ
=
Số ngày trong kỳ
Số vòng quay dự trữ
Chỉ tiêu này cho biết kỳ đặt hàng bình quân của doanh nghiệp là bao nhiêu ngày.
- Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân
=
Khoản phải thu x 360
Doanh thu
Kỳ thu tiền được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán
trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản
phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của
doanh nghiệp và các khoản trả trước. Tuy nhiên nếu tỷ số này cao thì không
17 17
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
tốt cho doanh nghiệp. Nó chứng tỏ vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng trong
khâu thanh toán hoặc do khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp kém.
2.3. Nội dung quản lý TSLĐ:
2.3.1. Quản lý dự trữ, tồn kho:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp
thông thường phải dự trữ một lượng hàng hoá nhất định để cho doanh
nghiệp có thể hoạt động một cách liên tục. Hàng hoá tồn kho bao gồm ba
loại: nguyên liệu thô, sản phẩm dở dang và sản phẩm hoàn thành. Nguyên
liệu thô là những nguyên liệu và bộ phận, linh kiện rời do các doanh nghiệp
mua và sử dụng trong quá trình sản xuất.
Trong sản xuất nếu các doanh nghiệp mua nguyên liệu với số lượng
quá lớn hay quá nhỏ đều không đạt hiệu quả tối ưu bởi nếu mua với số
lượng quá lớn thì doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều chi phí tồn trữ và rủi ro
do hàng hoá bị hư hao, mất mát. Mặt khác nếu mua hàng hoá với số lượng
quá nhỏ có thể dẫn đến gián đoạn sản xuất và làm tăng những chi phí
không cần thiết và không đạt hiệu quả cao.
Do đó doanh nghiệp sẽ có lợi khi mua vừa đủ nguyên liệu để tạo ra một
miếng đệm an toàn giữa cung ứng và sản xuất. Tồn kho trong quá trình sản
xuất là các loại nguyên liệu nằm trong từng công đoạn của dây chuyền chế
tạo. Thông thường không thể có sự đồng bộ hoàn toàn giữa các công đoạn sản
xuất của doanh nghiệp bởi các bộ phận sản xuất không thể có cùng công suất
hoạt động trong mọi thời điểm. Bởi vậy mỗi công đoạn sản xuất đều có một
lượng tồn kho riêng. Nếu không có một lượng nguyên liệu hay bán thành
phẩm dự trữ nào đó thì một công đoạn sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào các bộ
phận đứng trước nó. Do đó các loại nguyên vật liệu tồn kho có tác dụng tạo ra
sự thông suốt và tính hiệu quả trong quá trình sản xuất. Dây chuyền sản xuất
18 18
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
càng dài và các công đoạn sản xuất càng nhiều sẽ dẫn tới nhu cầu tồn kho
càng lớn.
Khi tiến hành sản xuất xong, hầu như các doanh nghiệp chưa thể tiêu
thụ hết sản phẩm, phần thì do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và tiêu dùng,
phần do phải có đủ lượng hàng mới xuất được. Lúc này sản phẩm hoàn
thành tồn kho tạo ra khoảng an toàn cần thiết giữa sản xuất và tiêu thụ.
Những doanh nghiệp có đặc điểm kinh doanh mang tính mùa vụ và có quy
trình chế tạo tốn nhiều thời gian thường có lượng sản phẩm hoàn thành tồn
kho lớn bởi nhu cầu đối với sản phẩm trong những mùa tiêu thụ vượt quá
năng lực sản xuất của doanh nghiệp và ngược lại. Do đó các doanh nghiệp
này cần có sản phẩm dự trữ.
Lý thuyết về mô hình EOQ, mô hình độ lớn của đơn hàng tối ưu, mô hình
này được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau. Khi
doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng hoá sẽ kéo theo hàng loạt các chi phí như chi
phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm,…
nhưng tựu chung lại có hai loại chi phí chính là chi phí lưu kho và chi phí đặt
hàng.
Chi phí lưu kho (chi phí tồn trữ) là những chi phí liên quan đến việc tồn
trữ hàng hoá bao gồm: chi phí hoạt động (gồm chi phí bốc xếp hàng hoá, chi
phí bảo hiểm hàng hoá, chi phí do giảm giá trị hàng hoá, chi phí hao hụt mất
mát, chi phí bảo quản,…) và chi phí tài chính (bao gồm chi phí sử dụng vốn
như trả lãi tiền vay, chi phí về thuế, khấu hao).
Nếu gọi số lượng mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ trung bình
sẽ là Q/2 và C
1
là chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của
doanh nghiệp (T
1
) sẽ là:
T
1
=
Q
C
1
19 19
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
2
Chi phí đặt hàng (chi phí hợp đồng) bao gồm chi phí quản lý giao dịch
và vận chuyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn
định không phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua. Nếu gọi D là toàn bộ
lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, tháng) thì
số lượng lần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q và gọi C
2
là chi phí mỗi lần đặt
hàng thì tổng chi phí đặt hàng (T
2
) sẽ là:
T
2
=
D
C
2
Q
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá, ta sẽ có: TC = T
1
+ T
2
TC
=
Q
C
1
+
D
C
2
2 Q
TC sẽ nhỏ nhất khi: Q
*
=
2.D.C
2
C
1
Vậy Q
*
sẽ là lượng hàng hoá dự trữ tối ưu.
Điểm đặt hàng mới: Về mặt lý thuyết người ta có thể giả định là khi nào
lượng hàng kỳ trước hết mới nhập kho lượng hàng mới. Trong thực tiễn hoạt
động hầu như không có doanh nghiệp nào để đến khi nguyên vật liệu hết rồi
mới đặt hàng. Nhưng nếu đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu
tồn kho. Do vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới.
Thời điểm đặt hàng mới được xác định bằng số lượng nguyên liệu sử dụng
mỗi ngày nhân với độ dài của thời gian giao hàng.
Trong thực tế nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định
mà chúng luôn biến động không ngừng, đặc biệt là đối với những doanh
nghiệp sản xuất mang tính thời vụ hoặc sản xuất những hàng hoá nhạy cảm
20 20
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
với thị trường. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất, doanh nghiệp
cần phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn
là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng. Lượng
dự trữ an toàn tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp.
2.3.2. Quản lý ngân quỹ và các chứng khoán thanh khoản cao:
2.3.2.1. Sự cần thiết của việc giữ tiền mặt:
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được dùng để trả lương, mua nguyên vật
liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ,…
Tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt rất thấp, thậm chí tỷ lệ sinh lời trên
tiền giấy trong két của doanh nghiệp và tiền trong tài khoản bảo chi có tỷ lệ
sinh lời bằng không. Trong khi đó sức mua của tiền tệ luôn có khuynh hướng
giảm do chịu ảnh hưởng của lạm phát. Bởi vậy có thể nói tỷ lệ sinh lời thực
trực tiếp của tiền giấy và tiền gửi ngân hàng đối với tài khoản bảo chi có tỷ
lệ âm.
Các chứng khoán thanh khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng cách mua chứng khoán có tính thanh khoản cao
Bán những chứng khoán thanh khoản cao để bổ sung cho tiền mặt
Tiền mặt
Tiền mặt
Tiền mặt
Quản lý tiền mặt có liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài
sản gắn với tiền mặt như các loại chứng khoán thanh khoản cao. Các loại
chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt,
vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán
thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng một
cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Như vậy trong quản trị tài chính người
ta sử dụng chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở
mức độ mong muốn. Ta có thể thấy điều này qua sơ đồ luân chuyển sau:
21 21
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc gửi tiền mặt là
cần thiết nhưng việc giữ đủ tiền mặt phục vụ cho hoạt động kinh doanh có
những lợi thế sau:
- Khi mua các hàng hoá dịch vụ, nếu có đủ tiền mặt, doanh nghiệp có thể
được hưởng lợi thế chiết khấu.
- Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt các chỉ số khả năng thanh toán ngắn hạn
giúp doanh nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được
hưởng mức tín dụng rộng rãi.
- Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận
lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả.
- Việc có đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong
trường hợp khẩn cấp như đình công, hoả hoạn, chiến dịch marketing của đối
thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh.
Như vậy chúng ta thấy tuy rằng tiền mặt tại quỹ và tiền gửi trong tài
khoản bảo chi của doanh nghiệp tại ngân hàng không sinh lời nhưng việc
nắm giữ nó là rất cần thiết và điều cần thiết là chúng ta phải giữ một lượng
vừa đủ để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được duy
trì tốt đồng thời lại không gây lãng phí cho doanh nghiệp, đảm bảo khả
năng sinh lời cho doanh nghiệp là lớn nhất.
2.3.2.2. Nội dung quản lý ngân quỹ và chứng khoán thanh khoản cao:
22 22
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
a/ Xác định mức dự trữ tiền mặt tối ưu (theo mô hình Baumol):
Người đầu tiên vận dụng mô hình EOQ vào quản trị tiền mặt là nhà
khoa học người Hoa Kỳ William J. Baumol (1952). Mô hình này cho
rằng mỗi doanh nghiệp đều có một dòng lưu kim thuần ổn định, là kết
quả của dòng lưu kim chi phí và dòng lưu kim thu nhập trên phương diện
kế hoạch. Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền
mặt và dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền
mặt này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao để lại có lượng tiền như ban đầu.
Có hai loại chi phí cần được xem xét trong trường hợp này: thứ nhất
là khoản thiệt hại tiền lãi do số tiền được giữ dưới dạng tiền mặt hoặc chính
là chi phí cơ hội cho việc lưu giữ tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp và thứ
hai là chi phí trong mỗi lần giao dịch chứng khoán.
Nếu ta gọi M là cán cân tiền mặt thì cán cân tiền mặt trung bình (mức
dự trữ tiền mặt trung bình) là M/2. Vậy số tiền lãi bị bỏ qua do duy trì cán
cân tiền mặt trung bình (C
1
) là:
C
1
=
M
i
2
với i là lãi suất sinh lời của các công cụ được giao dịch trên thị trường tiền tệ.
Gọi C
b
chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản cao và M
n
là
tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm. Vậy chi phí cho mỗi lần giao dịch
chứng khoán (C
2
) là:
C
2
=
M
n
i
M
Gọi TC là tổng chi phí dự trữ tiền mặt. Ta có: TC = C
1
+ C
2
23 23
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
TC
=
M
i +
M
n
i
2 M
Tổng chi phí sẽ nhỏ nhất khi : M
*
=
2.M
n
.C
b
i
Vậy M
*
chính là mức dự trữ tiền mặt tối ưu.
Từ công thức trên cho thấy nếu lãi suất càng cao thì người ta càng giữ ít
tiền mặt và ngược lại nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao họ càng
giữ nhiều tiền mặt.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp rất hiếm khi
lượng tiền vào, ra của doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được, từ đó
tác động đến mức dự trữ cũng không thể đều đặn như việc tính toán trên. Bằng
việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học đã đưa ra mức dự
trữ tiền mặt dự kiến dao động trong một khoảng tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến
thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn cao nhất. Nếu lượng tiền mặt ở dưới mức
thấp (giới hạn dưới) thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền
mặt ở mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền
vượt quá mức giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự
kiến.
b/ Hoạch định ngân sách: để xác định nhu cầu chi tiêu và nguồn thu ngân
quỹ. Kế hoạch này thường được xây dựng dựa trên cơ sở từng tháng, từng
tuần hoặc mỗi ngày. Yếu tố quan trọng được một ngân sách tiền mặt có ý
nghĩa dựa trên tính xác thực của những dự báo về doanh số bán.
Trước hết chúng ta phải xác định về doanh thu bán hàng trong kỳ. Một khi
đã dự báo được doanh thu bán hàng, doanh nghiệp có thể dự thảo được ngân
sách tiền mặt bằng cách ước tính thời điểm cụ thể sẽ thu hồi tiền bán hàng và các
24 24
Luận văn tốt nghiệp Đỗ Thu Hồng
khoản chi tiêu có liên quan đến sản xuất, mua nguyên vật liệu và doanh số bán
hàng tương lai. Việc dự báo này phải được dựa trên nhiều yếu tố như các chính
sách kinh tế - xã hội, môi trường cạnh tranh, nhu cầu của thị trường về sử dụng
sản phẩm của doanh nghiệp và dựa theo cả những thống kê trong quá khứ.
Sau khi xác định tổng số tiền mặt thu về trong từng tháng, doanh nghiệp
phải xác định tổng chi tiền mặt trong tháng tương ứng bằng cách dự tính các
khoản phải chi trả trong tháng đó rồi tổng hợp các khoản chi đó lại.
Dựa trên số liệu về thu chi tiền mặt trong từng tháng, doanh nghiệp
có thể hoạch định ngân sách dự kiến. Doanh nghiệp sẽ tính chênh lệch
giữa tổng thu và tổng chi tiền mặt trong từng tháng rồi cộng với số dư tiền
mặt đầu tháng sẽ được số dư tiền mặt cuối tháng. So sánh số dư này với
mức tiền mặt trong quỹ cần duy trì để thấy được trong tháng đó ngân quỹ
của doanh nghiệp thừa hay thiếu so với mục tiêu để từ đó doanh nghiệp có
những biện pháp thích hợp trong việc sử dụng ngân quỹ. Nếu như số dư
tiền mặt cuối tháng lớn hơn mức tiền mặt trong quỹ cần duy trì thì doanh
nghiệp có thể sử dụng số tiền chênh lệch đó để đầu tư ngắn hạn. Nếu số
dư tiền mặt cuối tháng nhỏ hơn mức dự trữ tiền trong quỹ cần duy trì thì
tùy tình hình mà doanh nghiệp sẽ có những cách xử lý linh hoạt. Với số
dư tiền mặt cuối tháng là âm thì doanh nghiệp phải sử dụng các biện pháp
như vay ngắn hạn hoặc bán các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh
khoản cao để bù đắp vào chỗ thiếu hụt, đảm bảo khả năng thanh toán của
doanh nghiệp. Với số dư tiền mặt cuối tháng dương nhưng nhỏ hơn mức
tiền mặt dự trữ cần duy trì trong quỹ thì doanh nghiệp có thể không cần
tìm nguồn tài trợ.
Do các khoản tiền nhập, xuất quỹ còn mang tính thời điểm nên việc đầu
tư hay vay mượn phải do doanh nghiệp xử lý tuỳ tình hình. Nếu kế hoạch
ngân quỹ được hoạch định càng cụ thể, chi tiết thì càng tạo thuận lợi cho việc
thực hiện sử dụng ngân quỹ một cách hiệu quả.
25 25