Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong Trong khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 31 trang )












TIỂU LUẬN:

Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong
Trong khu vực







Phần thứ nhất
Lý thuyết chung về khủng hoảng tài chính

1.1 Định nghĩa khủng hoảng tài chính tiền tệ:
Để nghiên cứu về khủng hoảng tài chính tiền tệ chúng ta cần nắm được thế
nào là khủng hoảng tài chính tiền tệ. Khủng hoảng tài chính tiền tệ là một sự đổ vỡ
trầm trọng trong các thị trường tài chính được đặc trưng bởi những sụt giảm mạnh
mẽ về giá tài sản và sự vỡ nợ của nhiều hãng tài chính và phi tài chính. Việc nghiên
cứu các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cần thiết vì chúng đã dẫn đến những sa


sút kinh tế nghiêm trọng trong quá khứ và có nguy cơ xảy ra trong tương lai.
Những cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khi vấn đề lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức trong thị trường tài chính trở nên quá tồi tệ đến mức mà thị trường tài
chính trở nên không còn khả năng khơi nguồn vốn một cách hữu hiệu từ những người
tiết kiệm tới những người có những cơ hội đàu tư sinh lợi. Kết quả của sự bất lực của
thị trường tài chính không hoạt động hữu hiệu là có một sự thu hẹp quan trọng các
hoạt động kinh tế.
1.2 Các loại khủng hoảng tài chính tiền tệ
Trên thế giới, người ta đề cập đến ba hình thức của khủng hoảng tài chính tiền
tệ: khủng hoảng tiền tệ (currency crisis), khủng hoảng ngân hàng (banking crisis) và
khủng hoảng kép.
Khủng hoảng tiền tệ diễn ra khi một hệ thống tài chính bị áp chế, lãi suất được
kiểm soát ở dưới mức cân bằng để giảm chi phí cho vay. Chính phủ vừa phải sử dụng
dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỉ giá hối đoái cố định trong khi lại phải giải quyết vấn đề
thâm hụt ngân sách cao cách vay nợ nước ngoài, hoặc trong điều kiện không thể làm
như vậy thì bằng thuế lạm phát hay bằng tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao áp đặt lên các ngân
hàng thương mại. Một cú sốc, ví dụ như tỉ giá ngoại thương thay đổi theo chiều
hướng xấu làm tăng thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu, có thể dẫn tới một cuộc tấn
công mang tính đầu cơ vào đồng nội tệ và làm cạn kiệt dự trữ ngoại hối. Chính phủ
lúc đó buộc phải từ bỏ tỉ giá hối đoái cố định và để đồng nội tệ phá giá.




Một khía cạnh khác của khủng hoảng tài chính tiền tệ là khủng hoảng ngân
hàng. Khi người dân mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, thì họ thường rút tiền một
cách ồ ạt. Với lượng dự trữ hạn hẹp, các ngân hàng có thể nhanh chóng rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán (gọi là mất tính thanh khoản). Khủng hoảng trở nên
nghiêm trọng hơn khi các ngân hàng đổ vốn cho vay vào các dự án rủi ro cao, không
hiệu quả. Trục trặc thường nảy sinh khi các qui định kinh doanh tài chính thận trọng

không có hoặc không được thực thi và các khoản cho vay được ngầm bảo đảm. Kết
cục là tỉ lệ nợ xấu gia tăng, ngân hàng mất vốn và rơi vào tình trạng phá sản.
Khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng có thể đi liền với nhau, cái nọ
dẫn tới cái kia và tạo nên cái gọi là khủng hoảng kép. Khi đó, khủng hoảng tài chính
trở nên rất trầm trọng và có thể dẫn tới khủng hoảng về kinh tế xã hội.
1.3 Các yếu tố gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính :
Có 5 yếu tố trong môi trường kinh tế có thể dẫn đến việc gây tồi tệ hơn một
cách căn bản cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các thị trường
tài chính, và đưa đến một cuộc khủng hoảng tài chính: tăng lãi suất; sụt giảm ở thị
trường cổ phiếu; sự sụt giảm bất ngờ về mức giá tổng hợp; tình trạng không chắc
chắn tăng lên và sự hoảng loạn ngân hàng.
Nếu lãi suất trên thị trường được nâng lên một cách không đầy đủ vì nhu cầu
tín dụng tăng lên hoặc vì sự sụt giảm lượng tiền cung ứng, khi đó những vụ mạo
hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu có nhiều khả năng xảy ra bởi vì chỉ có những dự
án đầu tư rủi ro nhất sẵn lòng chịu vay với mức lãi suất cao nhất. Do hậu quả việc
này làm tăng lựa chọn đối nghịch khiến người cho vay sẽ không còn muốn thực hiện
các món vay.Sụ sụt giảm quan trọng trong việc cho vay dẫn đến sụt giảm quan trọng
trong đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp.
Một sự sụt giảm mạnh trong thị trường cổ phiếu làm giá trị ròng của các công
ty giảm làm tăng vấn đề lựa chọn đối nghịch khiến cho những người cho vay giảm
bớt ý định cho vay làm cho việc đầu tư và tổng sản phẩm cuối cùng giảm.Vì giá trị
tài sản ròng của một công ty có vai trò như vật thế chấp, khi giá trị của vật đảm bảo
này sụt giảm, nó bảo vệ ít hơn cho người cho vay, do đó tổn thất từ món cho vay dễ
có khả năng là nghiêm trọng hơn.




Ngoài ra, sự sụt giảm nói trên về giá trị tài sản ròng của công ty do sự sụt
giảm ở thị trường cổ phiếu gây ra, làm tăng ý muốn gây rủi ro đạo đức ở những công

ty đi vay vì họ có ít hơn để mất nếu các cuộc đầu tư rủi ro của họ có kết cục tồi tệ
khiến cho việc cho vay trở thành kém hấp dẫn, dẫn đến giảm bớt hoạt động cho vay
và hoạt động kinh tế.
Những sụt giảm bất ngờ về mức giá cũng làm giảm giá trị tài sản ròng của các
công ty. Do điều đó làm tăng giá trị các món nợ của công ty theo hiện vật (sự tăng
sức nặng của món nợ này), nhưng không tăng giá trị thực của những tài sản của công
ty. Kết quả là giá trị ròng theo hiện vật ( hiệu số giữa tài sản và nợ theo hiện vật)
giảm. Điều đó làm tăng các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối với
những người cho vay dẫn đến hoạt động cho vay và hoạt động kinh tế giảm xuống.
Sự tăng tính không chắc chắn trong các thị trường tài chính, có thể do sự thất
bại của một tổ chức tài chính hoặc phi tài chính nổi tiếng, một sự suy thoái, hoặc một
sự đổ vỡ thị trường cổ phiếu gây ra, khiến cho những người cho vay khó phân biệt
những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt với những vụ mạo hiểm vay tín
dụng có triển vọng xấu: kết quả là họ giảm bớt ý định cho vay, đầu tư và hoạt động
kinh tế tổng hợp.
Những vụ hoảng loạn ngân hàng có nghĩa là một cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong đó nhiều ngân hàng không còn kinh doanh được nữa làm giảm tổng số
những hoạt động trung gian tài chính mà ngân hàng thực hiện, dẫn đến một sụt giảm
về đầu tư và kinh tế tổng hợp. Một sự giảm số lượng các ngân hàng cũng làm giảm
sự cung ứng vốn cho những người vay, điều này dẫn đến sự tăng lãi suất cao. Đến
lượt nó, sự tăng lãi suất làm tăng sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường tín dụng
làm suy giảm các hoạt động kinh tế.






Phần hai
Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong

Trong khu vực

Trước khi diễn ra khủng hoảng tài chính tiền tệ, Đông á được ví như là “ sự
phát triển thần kì ” của nền kinh tế thế giới, với tốc độ tăng trưởng nhanh vượt bậc.
Thế nhưng, năm 1997 trở thành một năm đầy biến động với thị trường tài chính và
nền kinh tế khu vực. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái Lan, và nó như một phản
ứng dây chuyền, hàng loạt đồng tiền cũng như hệ thống ngân hàng của các nước
trong khu vực bị kéo vào vòng xoáy khủng hoảng.
2.1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á năm 1997
2.1.1.Tại Thái Lan:
Đầu cơ tiền tệ và chứng khoán chủ yếu do các nhà đầu tư trong nước thực hiện .
 Giai đoạn 1:
Ngày 2-7-1997, các nhà quản lý tiền tệ của Thái Lan tuyên bố bãi bỏ việc gắn
giá trị của đồng bạt vào đồng đôla Mỹ. Tuyên bố này có nghĩa là chính quyền Thái
Lan đã quyết định phá giá đồng tiền của mình và đó là điểm khởi đầu của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở Đông á. Chỉ sau 1 ngày, đồng bạt đã mất giá hơn 20%. Biến
cố này đã làm cho món nợ nước ngoài 87 tỷ USD của Thái Lan ( trong đó nợ tư nhân
khoảng 65 tỷ USD ) bỗng nhiên tăng lên 20%, thị trường tài chính của Thái Lan vốn
đã rối loạn bởi hoạt động đầu cơ tiền tệ, càng trở nên rối loạn hơn. Món nợ không có
khả năng thanh toán của các công ty lên tới hơn 32 tỷ USD. Vòng xoáy của cuộc
khủng hoảng tiền tệ đã bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế Thái Lan và nhanh chóng lan
toả mạnh tới các nước trong và ngoài khu vực như: Malaysia, Inđônêxia, Philipin rồi
sau đó đến Hàn Quốc.
 Giai đoạn 2:
Từ tháng 4 đến tháng 6, các nhà đầu tư nước ngoài mất lòng tin đối với đồng
bạt, tuy Ngân hàng Trung Ương (NHTW) đã bảo vệ tỷ giá, nên họ bán hầu hết cổ
phiếu trên thị trường, chịu lỗ mua lại đô la với giá cao hơn để chuyển ra nước ngoài.
Các nhà đầu cơ đã kiếm được khoản chênh lệch tỷ giá. Trong khi đó, các nhà đầu cơ





lại vay tiền bạt (các ngân hàng nước ngoài đều được vay bằng đồng bạt), mua đô la
nên lại càng tăng thêm áp lực lên tỷ giá.
 Giai đoạn 3 :
Từ tháng 7 trở đi, NHTW đã cạn kiệt dự trữ ngoại tệ. Các nhà đầu cơ trong
nước thông qua một số nhà chính trị gây áp lực đòi thả nổi đồng tiền. NHTW buộc
phải thả nổi đồng bạt, tỷ giá tăng vọt .
Tiếp đó, chính phủ Thái Lan sụp đổ, chính phủ mới lên thay thế, lập chương
trình cam kết thắt lưng buộc bụng để có được tài trợ của IMF.
Chương trình IMF bao gồm: đình chỉ 56 tổ chức tài chính, các công ty chứng
khoán, thực hiện việc phá sản, giải thể, sáp nhập bán các công ty này cho các nhà
thầu, bán các xí nghiệp nhà nước, thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách, tăng lãi
suất lên đến 25%.
Cho đến nay, đồng bạt đã ổn định lại từ mức cao nhất 45 bạt/USD, lãi suất đã
hạ xuống còn 13,25%. Thái Lan được coi là điển hình thực hiện nghiêm chỉnh các
điều kiện của IMF.

2.1.2.Tại các nước khác trong khu vực :
Vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tiền tệ đã bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế
Thái Lan và nhanh chóng lan toả mạnh tới các nước trong và ngoài khu vực. Mặc dù
các nước này đã phải bỏ ra hàng tỷ USD dự trữ để giữ giá đồng nội tệ, các đồng tiền
của họ vẫn liên tục mất giá.
 Inđônêxia:
Cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Inđônêxia được coi là trầm trọng nhất kể từ khi
thành lập nước Inđônêxia cuối năm 1945, đồng tiền mất giá, thị trường chứng khoán
trượt dốc đều. Mối lo sợ xảy ra một cuộc lạm phát phi mã đã có lúc đẩy xã hội
Inđônêxia lâm vào tình trạng hỗn loạn, người dân đổ xô đi tìm mua lương thực thực
phẩm cùng các hàng hoá thiết yếu khác để tích trữ. Đồng rupiah của Inđônêxia mất
giá 16%. Tổng thống Suharto đã buộc phải tuyên bố từ chức để Phó Tổng Thống

Habibie lên thay. Tuy nhiên tình hình kinh tế, chính trị xã hội của Inđônêxia cho đến
nay vẫn còn phức tạp.




 Malaysia:
Nếu so sánh với một số nước trong khu vực và châu á, có thể nói rằng về mặt
kinh tế và tài chính thì tình hình của Malaysia có tốt hơn Thái Lan, Hàn Quốc và
Inđônêxia. Điều này thể hiện ở các điểm: ở Malaysia, hầu như có đủ việc làm cho lực
lượng lao động, tỷ lệ lạm phát thấp, ngân sách chính phủ thặng dư. Nhưng quan trọng
hơn cả là Malaysia không có mức nợ nước ngoài cao như Hàn Quốc(154 tỷ USD),
Thái Lan(92 tỷ USD), Inđônêxia(138 tỷ USD), Malaysia chỉ nợ 44,1 tỷ USD. Phần
lớn nợ nước ngoài của Malaysia là nợ trung hạn và nợ dài hạn, cho nên Malaysia
không phải trả nợ gấp như Thái Lan và Hàn Quốc. Trong khi đó, mức dự trữ ngoại tệ
của Malaysia lên tới 23 tỷ USD. Chính phủ Malaysia đã rút kinh nghiệm từ Thái Lan,
Hàn Quốc và Inđônêxia nên các biện pháp ngăn chặn khủng hoảng của Malaysia
được thực hiện đúng lúc và có hiệu quả hơn. Đồng ringgit của Malaysia bị phá giá
13%.
 Philipin:
Giống như Malaysia, Philipin chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ít
hơn so với Thái Lan, Hàn Quốc và Inđônêxia do hệ thống ngân hàng của Philipin
lành mạnh hơn. Các cơ sở kinh tế vĩ mô ổn định và cân đối, nền kinh tế Philipin phát
triển với mức độ vừa phải, không quá nóng như Thái Lan , Hàn Quốc, Inđônêxia và
Malaysia.
Tuy vậy, chính phủ Philipin đã có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng. Đến cuối tháng 8-1997 đồng bạt đã mất giá
28%.
 Singapo:
Đồng đôla Singapo bị phá giá ở mức 6%, đây là một trong những quốc gia ít

chịu tác động của cuộc khủng hoảng. Do vậy, ngay từ cuối tháng 8-1997, các nước
lâm vào khủng hoảng đã cố gắng bằng mọi giá cắt cơn sốc tiền tệ như tung USD ra
mua đồng nội tệ vào, đánh thuế cao vào các khoản lợi nhuận do kinh doanh đầu cơ
tiền tệ đem lại, nâng lãi suất tiền gửi đối với đông nội tệ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách,
kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế…




Các đồng tiền trong khu vực tiếp tục có nhiều biến động mạnh vào cuối năm
1997 và đã giảm giá đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1997 và đã giảm đến mức
thấp kỉ lục vào cuối năm 1998. Tính đến ngày 12-6-1998, đồng rupiah của Inđônêxia
bị phá giá 82,4%, các đồng tiền của Philipin, Malaysia, Hàn Quốc bị phá giá ở mức
từ 35% đến 37%. Đồng đôla Đài Loan và đôla Singapo bị phá giá ở mức thấp hơn
tương ứng là 20,5% và 18%.
Sự hoảng loạn trên thị trường ngoại hối đã nhanh chónh lan sang thị trường
chứng khoán làm giá cổ phiếu của châu á giảm từ 30% đến 50%. Mọi người bắt đầu
hoảng sợ rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á có thể không chỉ dừng lại và
trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu.

2.1.3. Tác động của cuôc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới:
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Châu á năm ‘ 97 đã gây ra
những chấn động lớn về kinh tế, xã hội ở mỗi nước, đồng thời ảnh hưởng đến các
nước khác ở khu vực. Tác động của cuộc khủng hoảng này là để lại những hậu quả
nặng nề, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
 Đối với các nước trong khu vực, trung tâm của “vòng xoáy” khủng hoảng:
Có thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của đồng tiền 5 quốc gia
(Thái Lan, Philipin, Malaysia, Inđônêxia, Hàn Quốc ) là tác động bên ngoài dễ thấy
nhất của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước này:



Bảng 1.1: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997

Năm Thái Lan
(Bạt/USD)
Philipin
Peso/USD
Malaysia
Ringgit/USD
Inđônêxia
Rupiah/USD
HànQuốc
Won/USD
1996 25.61 26.29 2.52 2308 844.2
1997 47.25 39.5 3.88 5400 1695.8





Tác động bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng kinh tế tài chính là sự
thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng tài chính
quốc gia:





Bảng1. 2: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính



Nước
Năm tài
chính từ
1/4/96 đến
31/1/97
(tổng số
ngân hàng)
Năm tài chính từ 1/4/97 đến 31/3/98
Số ngân
hàng bị
đình chỉ
hoạt
động
Số
ngân
hàng bị
quốc
hữu
hoá
Số
ngân
hàng
bị sáp
nhập
Số ngân
hàng bị
bán cho
công ty
nước

ngoài
Tổng số
ngân hàng
“có vấn đề
lớn”
Thái Lan 108 56 4 0 4 65 (59%)
Malaysia 60 0 0 41 0 41(68%)
Inđônêxia

228 16 56 11 0 83(36%)
Hàn quốc 56 16 2 0 0 18(32%)

Tác động thứ ba của sự khủng hoảng là sự thua lỗ, phá sản với quy mô và tốc
độ bất thường của các doanh nghiệp:

Bảng1.3: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp

Nước Năm Số doanh nghiệp phá sản
Thái Lan 1/1998-5/1998 582
Malaysia 1996
1997
489
6583
Inđônêxia 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động
Hàn Quốc 1997
1998
14000
53000






Sự phát triển của hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp dẫn đến hai hậu quả
trực tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng quốc gia giảm sút (bảng
4).









Bảng1. 4: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính

Nước
Tăng trưởng kinh tế(%) Tỷ lệ thất nghiệp(%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 6.7 -0.4 - 8.3 3.3 3.7
Malaysia 8.2 7.0 2.0 2.6 2.7 5.0
Inđônêxia 7.8 4.6 -13.7 2.2 3.0
Philipin 5.8 5.2 - 0.5 9.5 10.4 13.8
HànQuốc 7.1 5.5 - 5.8 2.3 2.5 8

Không những thế, khủng hoảng tài chính còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ lạm phát,
giảm dòng vốn đầu tư, tăng các món nợ nước ngoài, ảnh hưởng đên lãi suất cho vay ở
các nước này.


Bảng 1.5: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay






Nước
Lạm phát
(%)
Dòng vốn
vào(tỷ USD)
Nợ nước
ngoài(tỷ
USD)
Lãi suất cho
vay(%)
96 97 98 96 97 98 96 97 98 96 97 98
Thái
Lan
4.8

5.6

8.1 19.
5
-9.1 -
9.5
89 97 15 18 11.5
Malaysi

a
3.8

2.8

7.0 9.5 2.7 33.
9
31 93.
2
9.2 8.4

11.05
Inđônêx
ia
6.6

11.
6
47 10.
8
-0.6 11
5
12
9
14
0
19.
2
21.
8

34
Philipin 7.1

7.3

10.
3
43 45 47 14.
4
15.
4
14.
8
16.
2
13.5
Hàn
quốc
5.0

9.5

6.7 23.
9
-9. 2

11
2
13
7

15
4
8.8 9


 Đối với thị trường tài chính tiền tệ thế giới :
- Nguồn vốn đầu tư tư nhân vào nền kinh tế trong tháng 12 tại Thái Lan giảm
23% so với cùng kỳ năm trước. Các khoản cho vay từ ngân hàng cũng giảm mạnh ở
Hồng Kông, Singapo, Thái Lan và Malaysia. Các chính sách kinh tế chống khủng
hoảng bắt đầu bằng chính sách thắt lưng buộc bụng để thúc đẩy tìm tới ổn định, sau
đó là nới lỏng chính sách này và quản lý các nhu cầu xã hội trong bối cảnh nền tài
chính tiền tệ toàn cầu không dẫn đến một sự phát triển bền vững.
- Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền
kinh tế lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil…đã bị cuốn vào vòng xoáy của nó. IMF gần
như mất khả năng đóng vai trò “người chữa cháy” của nền kinh tế toàn cầu.
- Sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng đồng Bạt ở Thái Lan tháng 7/1997. Các
công ty Nhật Bản đã vội vã rút vốn khỏi châu á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo
dài. Những thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái và buôn bán của Mỹ đối với
châu á đã tác động tiêu cực đến các nền kinh tế châu lục này. Cuộc khủng hoảng kinh




tế ở châu á trước hết do cơ cấu yếu kém của nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm
trọng thêm do những biến động nên ngoài liên quan đến môi trường tài chính quốc tế
và trật tự buôn bán quốc tế.
- Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt
và ngắn hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm
và được quy định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền
tệ. Nguồn vốn thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ

mức 196 tỷ USD năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998, trong khi các nền kinh
tế Âu Mỹ phát triển ổn định khiến nguồn vốn lại chảy ngược từ các nước Châu á trở
lại Âu Mỹ. GDP của Mỹ đạt 8000 tỷ USD năm 1998, còn GDP của EU đạt 6000 tỷ.
Nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh làm cho đồng đôla Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên so với
các đồng tiền Châu á. Đến tháng 12/1998 các đồng tiền Châu á vẫn mất giá từ 13%-
16% so với trước khủng hoảng. Cho đến tận nửa cuối tháng 3-1999 đồngYên cần
được giao dịch với tỷ giá 123-124 Yên cho một đôla Mỹ. Xu hướng giảm giá của
đồng Yên Nhật Bản cùng với khả năng lạm phát cao được gọi là cần thiết để kích
thích nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, biên độ giao động tỷ giá lớn giữa đồng Yên và
đồng đôla Mỹ không có lợi cho các nền kinh tế Châu á.
Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành IMF kêu gọi một sự ổn định tiền tệ lớn
hơn để ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ phá hoại các nền kinh tế mới nổi ở Châu
á. Các nước này cần xác định một cơ chế phù hợp cho mình để cùng tìm ra một chính
sách tỷ giá thích hợp. Trong khi khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tài
chính gấp 50 lần khối lượng tiền tệ giao dịch trên thị trường hàng hoá, đồng USD vẫn
là đồng tiền chi phối trên thị trường tài chính toàn cầu và mang lại cho Mỹ một lợi
thế vô cùng to lớn. Do mở cửa thị trường vốn toàn cầu và những tiến bộ trong công
nghệ máy tính và thông tin, Mỹ càng ngày tăng cường được ảnh hưởng đối với các
nền kinh tế mới nổi với tư cách là nền tài chính lớn và mạnh nhất thế giới.
- IMF báo động rằng tình hình trên thị trường vốn quốc tế chứa đựng những
nguy cơ bất ổn định lớn cũng như khả năng biến động cao và những điều chỉnh lớn
về giá bất động sản. Thế giới phải chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trên thị trường
vốn của các nước mới nổi.




Trong kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế, Đông Nam á đã đưa hơn 370 triệu người
thoát khỏi đói nghèo và gia nhập tầng lớp trung lưu nhưng nay cuộc khủng hoảng lại
đẩy hơn 200 triệu người trở lại đói nghèo.


2.2.Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính ở khu vực
Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á năm 1997 được coi là một chấn động lớn
cuả thị trường tài chính thế giới trong suốt những thập kỉ vừa qua. Nghiên cứu
nguyên nhân sâu xa cũng như nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng này sẽ
giúp chúng ta có những giải pháp thực tiễn để ngăn ngừa, hạn chế việc phát sinh các
cuộc khủng hoảng sau này. Những nguyên nhân sau được coi là những nguyên nhân
cơ bản nhất và cũng chính là một số dấu hiệu khiến cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ hình thành và bùng nổ.
2.2.1.Nền kinh tế phát triển thiên lệch mất cân đối:
Nhờ sự chuyển đổi chiến lược từ công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu sang
chiến lược công nghiệp hoá tập trung đẩy mạnh xuất khẩu đã tạo động lực kinh tế,
tạo đà cho sự tăng trưởng nhanh và ổn định kinh tế của Thái Lan và một số nước
Đông Nam á trong vòng hơn 1 thập kỷ trước khi diễn ra khủng hoảng. Điều này được
biểu hiện ở mức tăng trưởng bình quân các nước từ 7.5% đến 8%.
Tuy nhiên, các nguy cơ cũng nảy sinh từ sự thay đổi chiến lược này. Từ năm
1995 trở lại đây với tốc độ tăng trưởng các nước công nghiệp phát triển (cũng đối tác
chính và tăng trưởng các nước quốc gia Đông Nam á ) suy giảm làm cho lượng cầu
đối với các mặt hàng xuất khẩu của các quốc gia Đông Nam á giảm mạnh. Hơn thế
nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là điện tử, dệt may lại đang đứng trước nguy cơ
bão hoà trên thị trường thế giới. Do đó, khi kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh làm cho
thâm hụt cán cân thương mại lớn và có thể nhìn nhận thông qua số liệu sau đây :
Bảng2. 1: Cán cân thương mại và cán cân vãng lai

Tên nước 1993 1994 1995 1996
Malaysia Cán cân vãng lai/GDP -4.7%

-6.4%

-8.6%


-9.7%
Cán cân thương mại(tỷ USD) 1,5 -0,8 -3,7 -0,6




Thái Lan Cán cân vãng lai/GDP -5.1%

-5.6%

-8.1%

-8.2%
Cán cân thương mại(tỷ USD) -9.2 -9.3 -14.3 -17.8
Việt Nam Cán cân vãng lai/GDP -7% -6.9%

-7.3%

-11.4%
Cán cân thương mại (tỷ USD) -0.9 -1.7 -2.3 -3.9
Nguồn: NHTG, “chỉ số phát triển thế giới 2002”

Thêm vào đó chính sách xuất khẩu cứng nhắc và chậm đổi mới làm cho tính
hấp dẫn của thị trường Đông Nam á đối với các đối tác Mỹ và Tây Âu giảm sút
trước những khu vực thị trường năng động như Trung Quốc, Đông Âu và Mỹ
Latinh.
Cũng trong giai đoạn trước khủng hoảng, nguồn vốn nước ngoài đổ vào khu
vực Đông Nam á liên tục tăng lên, góp phần duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở mức
7.5%-8%/năm. Tuy nhiên, cơ cấu vốn đầu tư lại không hợp lý chỉ khoảng 20-30% là

vốn đầu tư trực tiếp còn lại là vốn ngắn hạn đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, tín phiếu…
Luồng vốn nóng làm nền kinh tế các nước Đông Nam á lệ thuộc tương đối vào nước
ngoài. Vốn ngắn hạn nước ngoài gây ra sức ép đồng nội tệ tăng giá và khi luồng vốn
bị rút ra ồ ạt sẽ gây ảnh hưởng, làm rối loạn hệ thống tài chính, đồng nội tệ giảm giá
và giá cổ phiếu giảm mạnh.
Thâm hụt cán cân thanh toán và tài khoản vãng lai đã buộc các nước trong khu
vực phải đi vay vốn ngắn hạn từ nước ngoài để chi tiêu và bù đắp. Tuy nhiên sự quản
lý nợ yếu kém đã dẫn đến gánh nợ nước ngoài ngày càng lớn và khi đến hạn phải trả
đã gây sức ép nặng nề lên hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và làm tăng cầu
ngoại tệ một cách đột biến. Mức nợ của Thái Lan liên tục tăng trong những năm
trước khủng hoảng.
Năm 1993: chiếm 40.6%GDP
Năm 1994: chiếm 44.3%GDP
Năm 1995: chiếm 49.5%GDP
Năm 1996: chiếm 52.4%GDP
Tình trạng nợ nước ngoài của Inđônêxia, Malaysia và Philipin cũng tương tự .
Bảng 2.2: Cơ cấu nợ nước ngoài các nước trong khu vực năm 1996





Thái Lan Philipin Malaysia Inđônêxia

Nợ nước ngoài
Tỷ USD
%GDP

89.8
52.4


41.9
50.1

28.9
29.1

109.3
48.4
Nợ ngắn hạn/tổng nợ(%)
Nợ tư nhân/ tổng nợ(%)
40
78.8
25
34.6
25
40.7
29
51.2
Dự trữ ngoại hối
Tỷ USD
% so với nợ Nhà nước

28.3
67.2

10.1
127.5

19

171.2

20.4
59.6

Hình 2.1 : nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối năm 1997 của các nước ASEAN

Kinh tế tăng trưởng nhanh đã kéo theo sự đầu tư một cách bột phát trong một số
ngành kinh tế ở các nước Đông Nam á như kinh doanh địa ốc và ngành sản xuất
hàng xuất khẩu. Tình hình đó đã dẫn đến tình trạng vay vốn đầu tư quá mức, đặc biệt
ở khu vực tư nhân và khi rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái các nhà đầu tư đã không
kịp thời điều chỉnh tạo ra sự dư thừa công suất trong các ngành. ở Thái Lan và
Inđonêxia vào những năm 90 nhà nước đã tập trung vốn lớn vào xây dựng khách sạn
và nhà ở đắt tiền bằng vốn ngắn hạn làm cho đất nước chìm ngập trong nợ nần. Cung
vượt cầu đã gây khủng hoảng lớn trong ngành kinh doanh bất động sản, dẫn tới tình
trạng ứ đọng vốn và hàng loạt các hiệu ứng dây chuyền đối với thị trường chứng
khoán, tiền tệ làm tăng nguy cơ bất ổn và mất cân đối vốn có của nền kinh tế khu
102.8
19.3
88
28
39.4
8.3
28.9
21.1
0
20
40
60
80

100
120
In®«nªxia Th¸i Lan Philipin Malaysia
Nî n í c ngoµi
Dù tr÷ ngo¹i hèi




vực. Các ngân hàng và các công ty tài chính bị ảnh hưởng nặng nề khi thị trường bất
động sản chao đảo và thua lỗ.
Hình 2.2 : Cơ cấu cho vay của hệ thống ngân hàng Thái Lan

Ngoài ra vốn đầu tư vào các ngành trước đây có lợi thế trên thị trường như hàng
dệt may và đồ điện tử vẫn tăng, trong khi cầu thị trường đã giảm mạnh, bên cạnh đó
các nước đối tác đã suy giảm về kinh tế và hàng Trung Quốc cạnh tranh mạnh mẽ.
Đây là lý do dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu (một yếu tố nhạy cảm của rối
loạn tài chính và thị trường).
Một vấn đề cần phải bàn đến là đồng Bạt không phản ánh đúng giá trị của nó,
thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng thấp trong nhiều năm nên một số sản phẩm
nhập khẩu trở nên rẻ thấp, cùng lúc thu nhập của người tiêu dùng tăng khi nền kinh tế
đang ở giai đoạn tăng trưởng cao nên mức tiêu dùng tăng nhanh, xây dựng, tiêu dùng
hoang phí, xa hoa cũng là một nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính.

2.2.2.Chính sách tiền tệ không hợp lý:
a.Chính sách tự do hoá quản lý ngoại hối và thị trường hối đoái ít được kiểm
soát và phát triển không đồng bộ.
Việc tự do hoá chuyển đổi từ đồng bản tệ sang ngoại tệ hoặc ngược lại dẫn đến
tình trạng khi các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn lần lượt được chuyển đổi và rút ra khỏi
nền kinh tế thì các nước này phải chịu những hậu quả nặng nề. Đồng thời việc cổ

phiếu bị bán hàng loạt trên thị trường chứng khoán khiến giá cổ phiếu tụt nhanh tạo
sức ép chuyển đổi từ đồng bản tệ sang đồng ngoại tệ mạnh đã kéo theo giá đồng tiền
các nước bị giảm tới mức kỷ lục.
65%
25%
10%
Cho vay khu vùc
sxuÊt:65%
Cho vay kinh doanh
b®s: 25%
Cho vay kh¸c : 10%




b.Chính sách tỷ giá hối đoái được duy trì cứng ngắc gần như cố định và phụ
thuộc vào USD:
Các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philipin đã thực
hiện chính sách tỷ giá với tỷ giá được xác định rõ ràng hoặc với tỷ giá dao động gắn
chặt với đồng đôla Mỹ. Chẳng hạn đồng Bạt Thái Lan có tỷ giá được xác định trên cơ
sở 1 số tiền tệ gồm tập hợp của các đồng tiền mạnh là bạn hàng chủ chốt với Thái
Lan, trong đó USD chiếm 80% giá trị còn của Philipin thì đồng USD chiếm 90% giá
trị.
Xét về lý thuyết và thực tế những năm 80, chính sách này khá thành công trong
vai trò giữ ổn định lạm phát ở mức thấp và duy trì quan hệ mậu dịch hợp lý với Mỹ,
bạn hàng và là thị trường xuất khẩu quan trọng của Châu á; giúp nhà đầu tư ngân
hàng và doanh nghiệp tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ ; hỗ trợ cho quá trình
tăng trưởng kinh tế. Một phần nguyên nhân cho sự thành công này là do họ lợi dụng
được sự suy giảm đồng USD so với JPY, Mark Đức và gần 50% giá trị so với các
đồng tiền chủ chốt khác, giúp cho đồng bản tệ ổn định, gia tăng giá trị xuất khẩu,

kiểm soát được tình hình nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đến năm 1995, đồng USD lên giá 20% so với các đồng tiền mạnh khác. Do đó
đồng tiền của các nước trong khu vực lên giá so với đồng Yên Nhật và một số đồng
tiền mạnh của các nước châu Âu. Điều này dẫn tới tiền lương công nhân tăng làm lợi
thế cạnh tranh giảm, thêm nữa, tình hình dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu chậm làm
giảm tăng trưởng kinh tế, mất cân đối cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc
tế.
Cũng trong thời kì USD lên giá, để giữ đồng Bạt ngang giá với USD, chính
phủ nước này đã thực hiện chính sách lãi suất đồng Bạt cao. Các doanh nghiệp trong
nước phải cơ cấu lại các món nợ từ đồng nội tệ sang ngoại tệ (với mức lãi suất thực
thấp hơn), còn các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn ngắn hạn vào trong nước do sự
đầu cơ đồng Bạt. Các nhà tài chính mất niềm tin vào việc chính phủ Thái Lan có thể
duy trì chính sách lãi suất cao liên tục trong thời gian dài, cùng với sự giảm sút xuất
khẩu, họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam á hoặc tung bán các đồng tiền khu vực
ra thị trường kì hạn. Khi luồng vốn bị rút ra liên tục, chính phủ Thái Lan không thể




nào khống chế được, và buộc phải thả nổi đồng tiền. Tình trạng cũng tương tự với
Philipin, Inđônêxia và Malaysia.
c.Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng:
Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả, quá
phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Không những thế, lại mạo hiểm nhận vốn
nước ngoài, trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu tư dài
hạn, thêm nữa, sai lầm trong chính sách vĩ mô về duy trì tỷ giá cứng, buộc chặt đồng
đôla Mỹ và lãi suất trần, sàn không bắt kịp tiến trình toàn cầu hoá…
Trong điều kiện thâm hụt cán cân vãng lai để duy trì tốc độ tăng trưởng nóng
và tỷ giá hối đoái cố định, ngân hàng các quốc gia Đông Nam á lại phải tiếp tục vay
nóng từ các ngân hàng nước ngoài, đã đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt quá

dự trữ ngoại tệ trong nước .

Hình 2.3: Tỉ lệ nợ quá hạn của các nước Đông Nam á
Như vậy, chính năng lực yếu kém của hệ thống ngân hàng đã là một trong
những yếu tố gây ra biến cố tàn khốc 1997 làm tổn thương nặng nề nền kinh tế, hệ
thống tài chính tiền tệ quốc gia lâm vào tình trạng suy yếu nghiêm trọng.
d.Đầu cơ ngoại tệ :
Một số ngân hàng và công ty tài chính đã lợi dụng sự mất ổn định kinh tế và sự
yếu kém của hệ thống ngân hàng khu vực để thực hiện các giao dịch đầu cơ châm
ngòi nổ cho khủng hoảng. Theo như lời buộc tội của thủ tướng Malaysia Mahatir,
cuộc khủng hoảng 1997 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư
chứng khoán chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Các nhà
phân tích cũng cho rằng, với thực lực như các quỹ tín dụng: Tiger, Osbis,…họ hoàn
25%
18%
11%
20%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
Th¸i Lan Malaysia Philipin In®«nªxia




toàn có khả năng tiến hành các nỗ lực phối hợp thúc đẩy hoặc làm trầm trọng các vấn

đề kinh tế của các nước Đông Nam á.




Phần ba
Tác động của khủng hoảng tài chính
Đến Việt nam

3.1.Tác động của khủng hoảng tài chính khu vực đến Việt Nam
Nói cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở khu vực Đông Nam á song
không phải bất kì quốc gia nào trong khu vực này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và
chịu hậu quả nặng nề. Việt Nam là một trong những quốc gia có được may mắn đó.
Lý do là bởi:
 Thị trường tài chính mới ở giai đoạn sơ khai, đồng tiền Việt Nam chưa phải là
đông tiền chuyển đổi tự do.
 Loại hình đầu tư gián tiếp chưa phát triển.
 Thị trường vốn chưa được tự do hoá, vốn đầu tư chủ yếu là vốn dài hạn, do
đó các nhà đầu tư không thể lập tức di chuyển vốn ra nước ngoài.
 Nợ nước ngoài đa số là nợ chính phủ từ nguồn ODA nên sức ép đột biến của
thanh toán nợ không mạnh.
 Chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam còn tương đối chặt chẽ.
 Chính sách tỉ giá nhìn về tổng thể cũng đã được điều chỉnh từng bước linh
hoạt trên cơ sở ổn định giá đối nội và đối ngoại.
 Chính phủ Việt Nam đã sớm có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa các
nguy cơ khhủng hoảng có thể xảy ra xuất phát từ các nguyên nhân nội sinh của nền
kinh tế, đặc biệt là xử lý các vấn đề chính sách.





Tuy nhiên có thể nhận thấy Việt Nam đang chịu một số tác động gián tiếp tới
nền kinh tế, cụ thể là việc giảm sút đáng kể nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong hai năm 1997 - 1998 và tốc độ tăng xuất khẩu chậm lại trong năm 1998. Ngoài
ra, khủng hoảng khu vực đã làm cho hàng hoá trong nước kém tính cạnh tranh hơn,
thị trường xuất khẩu của Việt nam sang các nước khủng hoảng như Nhật Bản, Hàn
Quốc giảm sút rõ rệt trong những tháng đầu năm 1998. Sự mất giá của đồng nội tệ
các nước khác cũng gây sức ép giảm giá của đồng Việt Nam.
Những yếu tố trên kèm với một số yếu tố khách quan và chủ quan khác đă dẫn
đến tốc độ tăng trưởng của Việt Nam trong nửa đầu năm 1998 chậm lại, chỉ còn
6.6%.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam đang nảy sinh những vấn đề mà như các nhà
kinh tế đã nhận định: “đây không chỉ là những thách thức khi khủng hoảng xảy ra,
mà nó tồn tại và tiềm ẩn trong bản thân nền kinh tế Việt Nam nhiều năm, từ trước khi
khủng hoảng”. Những thách thức này xuất hiện trong tất cả các mặt của cuộc sống:
+ Về kinh tế: Hệ thống tài chính ngân hàng còn nhiều yếu kém, cán cân thanh
toán vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt kéo dài ở mức cao so với GDP và gây
sức ép đến tỷ giá hối đoái. Tương tự, bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao gây sức ép
tăng vay nợ nước ngoài, làm hao hụt dự trữ ngoại tệ vốn. Cơ cấu vốn đầu tư còn
nhiều bất hợp lý, việc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, tính cạnh tranh của các sản
phẩm Việt Nam còn thấp.
+ Về xã hội: Sự phân biệt giàu nghèo và trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa
các vùng ngày càng tăng, các tệ nạn xã hội có chiều hướng phát triển. Bên cạnh đó,
thêm tình trạng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị với những thách thức gia tăng tỷ
lệ thất nghiệp do một sốdoanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đào thải công nhân
để thu hẹp quy mô sản xuất.
+ Về quản lý Nhà nước: Sự khác nhau về trình độ quản lý Nhà nước tại các địa
phương, tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, lạm dụng quyền lực, buôn
lậu và gian lận thương mại.
Với những thách thức như trên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997

đã có những tác động đến nền kinh tế Việt Nam.





3.1.1.Với lĩnh vực tài chính – ngân hàng :
a.Gây sức ép giảm giá đồng Vịêt Nam trên thị trường hối đoái:
Do thị trường dự đoán về khả năng khủng hoảng của đồng Việt Nam dẫn đến
tình trạng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ. Tâm lý đầu cơ của thị trường đã đẩy tỷ giá trên
thị trường tự do tăng mạnh. Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch của các NHTM cũng ở mức
trần giao dịch cho phép, gây sức ép giảm giá mạnh đồng Việt Nam.



Hình3.1 : tỷ giá đồng Việt Nam so với USD trên thị trường năm1997









Đồng Việt Nam giảm gía khoảng 15% so với đầu năm 1997 (vẫn cao hơn giá
của các đồng tiền khu vực từ 15%-40%). Việc tích trữ và đầu cơ ngoại tệ mạnh gây
chênh lệch cung cầu giả tạo về ngoại tệ, khiến chính phủ phải 3 lần điều chỉnh biên
độ dao động hoặc tỷ giá chính thức.
b.ảnh hưởng tới cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng:

Tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng có chiều
hướng ngược nhau. Tiền gửi bằng đồng Việt Nam có xu hướng tăng chậm, trong khi
tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh (kể cả tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân và
tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp).
Tháng6/1997 : tiền gửi nội tệ tăng 1.6%
tiền gửi ngoại tệ tăng 49.4%
9 tháng đầu năm 1998 : tổng tiền gửi nội tệ tăng 15.5%
0
5000
10000
15000
Feb
97
M
ar
97
Apr
97
M
ay
97
Jun
97
Jul
97
A
ug
97
Sep
97

Oct
97
Nov
97
Dec
97




tổng tiền gửi ngoại tệ tăng 29.3%
Tình hình trên đã gây ra sự mất cân đối cung và cầu ngoại tệ tại mỗi thời điểm,
tạo sức ép không nhỏ đến tỷ giá đồng Việt Nam và gây ra những xáo trộn bất ổn định
đến thị trường ngoại hối nước ta.
c.Tác động đến hoạt động giao dịch ngoại tệ :
Trên thực tế, vào nửa cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu
cầu bán ngoại tệ, hoạt động của thị trường có lúc bị ngưng trệ và nhu cầu mua bán
chỉ nhằm mục đích phục vụ cho các khách hàng của chính mình, không mang tính
chất kinh doanh. Thời kì trước giao dịch trên thị trường ngoại tệ đạt doanh số 30 triệu
USD/phiên thì hiện nay chỉ là 0.4-0.5 triệu/ phiên giao dịch.
Giao dịch trên thị trường liên ngân hàng gần như bị ngưng trệ, thực chất chỉ là
thị trường “một chiều” vì hầu như chỉ có NHTW bán ngoại tệ cho các NHTM, còn
NHTM chỉ mua không bán (thực chất là hoạt động găm giữ ngoại tệ) .
d.Tăng gánh nợ cho các doanh nghiệp :
Khủng hoảng tiền tệ khu vực tác động đến tăng tỷ giá hối đoái đã gián tiếp làm
tăng thêm các khoản nợ nước ngoài, đăc biệt là các khoản nợ đến hạn thanh toán.
Nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ hoặc phải mua với giá cao đã chịu lỗ .
e.Gây sức ép với lãi suất đồng Việt Nam:
Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn đồng tiền Việt Nam để
tránh những rủi ro về tỷ giá. Nhu cầu vay vốn VND đã tăng lên gây mất cân đối cung

cầu về đồng Việt Nam trên thị trường, tạo sức ép tăng lãi suất đông nội tệ, và sẽ ảnh
hưởng đến chính sách lãi suất nhằm khuyến khích đầu tư trong nền kinh tế .

3.1.2.Những tác động đến cán cân thanh toán vãng lai và xuất nhập khẩu
Tỷ trọng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang khu vực Châu á Thái Bình Dương
là 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng các nước ASEAN chiếm khoảng 25% và
nhập khẩu từ đây là 30% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Khi đồng tiền của các nước trong khu vực bị phá giá thì khả năng cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam trong khu vực sẽ giảm sút. Mặt khác, các mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu của ta là gạo, dầu thô, cà phê, cao su, dệt may, thuỷ sản… phần lớn trùng với
mặt hàng xuất khẩu của các nước trong khu vực nên sự cạnh tranh càng trở nên gay




gắt. Thêm vào đó, khủng hoảng xảy ra ở các nước này làm giảm nhu cầu nhập khẩu,
ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu của nước ta.
Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam với các nước Thái Lan,
Inđônêxia, Singapo, Hàn Quốc, Nhật Bản bao gồm :
Xuất khẩu : gạo, dầu thô, hải sản, hàng may mặc
Nhập khẩu : Xăng dầu, phân bón , thuốc trừ sâu, sắt thép ôtô, xe máy.
Nhìn vào cơ cấu này có thể thấy hàng gạo của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng mạnh
nhất do Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, do vậy sẽ ảnh hưởng lớn
đến giá gạo quốc tế. Tuy kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 1997 vẫn đạt
810 triệu USD nhưng nếu Việt Nam không đưa ra chính sách thích hợp thì khả năng
tăng xuất khẩu gạo trong thời gian tới sẽ gặp phải những khó khăn nhất định.
Thêm nữa, do giá đồng nội tệ của các nước Đông Nam á giảm mạnh nên giá
dịch vụ trở nên thấp một cách tương đối, thu hút nhiều khách du lịch. ở Thái Lan, số
khách du lịch nước ngoài trong tháng 10/1997 cao hơn cả năm 1996. Như vậy, các
hoạt động xuất khẩu tại chỗ của ta cũng có thể gặp khó khăn hơn trước vì giá dịch vụ

và cho thuê khách sạn được coi là tăng lên một cách tương đối (so với các nước
khác).
Ngược lại, việc nhập khẩu vật tư hàng hoá từ các nước trong khu vực lại rẻ hơn
làm cho chi phí đầu vào của giảm xuống. Nhưng điều này sẽ kích thích gia tăng nhập
khẩu, các hàng hoá ôtô, xe máy và hàng tiêu dùng khác có nguy cơ tràn vào Việt
Nam nhiều hơn.
Với tình thế của Việt Nam lúc này thì việc giảm sức cạnh tranh về hàng xuất
khẩu có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu có nguy cơ gia tăng.
Điều này sẽ đẩy nền sản xuất trong nước vào tình thế cạnh tranh gay gắt, thậm chí có
thể dẫn tới đình trệ sản xuất do công nghệ lạc hậu, chi phí hàng hoá cao, không tiêu
thụ được ngay trong thị trường nội địa.
Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995, việc tham gia vào các hiệp định buôn
bán, thuế quan… là một tất yếu. Nhưng ở thời điểm 1997-1998 thì chế độ bảo hộ
mậu dịch hàng rào thuế quan của Việt Nam vẫn còn nhưng do giá hàng hoá các nước
trong khu vực giảm dẫn tới khả năng hàng hoá sẽ tràn vào Việt Nam theo con đường
nhập lậu. Khi đó, cầu ngoại tệ trên thị trường tự do tăng khiến tỷ giá trên thị trường




này tăng lên, gây áp lực giảm giá cho đồng Việt Nam, và nền sản còn non yếu của
chúng ta phải đối mặt với sự canh tranh gay gắt hơn.

3.1.3.Đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Khi có khủng hoảng thì với các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường các nước
ASEAN sẽ trở nên kém hấp dẫn vì bị đánh giá là có nhiều rủi ro. Theo các nhà phân
tích thì khả năng vốn đầu tư của quốc tế vào khu vực ASEAN sẽ giảm, mà Việt Nam
lại là thành viên của ASEAN, nên điều đó ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới chiến lược huy
động vốn nước ngoài để phát triển kinh tế với nhịp độ cao trong tương lai.
Tính đến năm 1997 đã có 2317 dự án đầu tư nhước ngoài được cấp giấy phép.

Song cả năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trong khu vực, Việt Nam chỉ
có 333 dự án được cấp giấy phép đầu tư và chắc chắn còn tiếp tục bị ảnh hưởng
mạnh mẽ vào năm 1998.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực có tác động đến nguồc vốn FDI tại
Việt Nam trong thời gian tới. Quá trình tác động này được thể hiện qua các kênh sau
đây :
 Xu hướng dịch chuyển đầu tư :
Đến cuối tháng 1/1998 cuộc khủng hoảng tiền tệ tại Đông Nam á khiến đồng
tiền các nước bị phá giá nhiều so với đồng USD của Mỹ. Điều này làm cho các
nhàđầu tư Mỹ và châu Âu sẽ rút vốn ra khỏi khu vực, chuyển sang đầu tư ở các vùng
khác ngoài châu á có triển vọng hơn như châu Mỹ Latinh hay Đông Âu. Các nhà đầu
tư Châu á sẽ chuyển vốn sang các thị trường khác ngoài Đông á, nơi ít bị khủng
hoảng của tài chính hơn như Trung Quốc. Do vậy, đầu tư Việt Nam giảm xuống là
điều tất yếu.
 Chi phí đầu tư tăng:
Để thực hiện những cam kết góp vốn vào các dự án FDI tại Việt Nam, các nhà
đầu tư sẽ phải mất thêm chi phí mua USD do một số đồng tiền trong khu vực mất giá.
Ví dụ như Thái Lan, Malaysia, Philipin, Inđônêxia và Hàn Quốc, họ thường phải bỏ
thêm từ 15% đến 50% vốn đầu tư bằng nội tệ, tương đương với 1 tỷ đến 3.5 tỷ USD
để bù đắp thiếu hụt về vốn đầu tư đã cam kết bằng USD. Bởi vậy với các nước hướng

×