Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và xử lý thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.37 KB, 40 trang )















TIỂU LUẬN:
Lạm phát và giảm phát là những
vấn đề phức tạp cả về nhận thức
lý luận và xử lý thực tiễn








Lời nói đầu

Lạm phát là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ 20, là
hiện tượng vốn có của các nền kinh tế sử dụng tiền tệ và là một hiện tượng phổ biến ở
nhiều nước trên thế giới . Nó tồn tại ở cả những nước phát triển và chậm phát triển , cả


trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng , suy thoái lẫn trong thời kỳ hưng thịnh .Lạm phát ở
một mức độ nhất định có thể là một biện pháp phát triển kinh tế , làm tăng nhu cầu ,
thúc đẩy các hướng đầu tư có lợi. Song khhi lạm phát vượt qua một thời hạn nhất định
thì nó trở thành một căn bệnh gây nhiều tai hại cho phát triển kinh tế xã hội . Suy thoái
kinh tế , thất nghiệp và lạm phát là những hiện tượng xuất hiện thường xuyên trong
nền kinh tế toàn cầu . Và do vậy kiềm chế lạm phát , ngăn chặn suy thoái , thất nghiệp
luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà khoa học cũng như trong thực tiễn điều
hành quản lý vĩ mô của mọi chính phủ .
Trong khi thế kỷ 19 được đánh dấu là không có lạm phát bởi giá cả tương đối
ổn định thì những năm sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất là quá trình gia tăng
lạm phát với qui mô lớn . Việt Nam đã trải qua thời kỳ lạm phát cao kéo dài với những
ảnh hưởng nặng nề suốt thập kỷ 80 , được coi là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lý
kinh tế thiếu hiệu quả và tình trạng bao cấp tràn lan của thời kỳ chiến tranh . Mặc dù
lạm phát đã được kiềm chế ở mức một con số trong những năm 90 nhưng sự bất ổn
của nó cùng với tình trạng giảm phát liên tục trong những năm gần đây đang đặt ra
những vấn đề cho các nhà làm chính sách .
Lạm phát và giảm phát là những vấn đề hết sức phức tạp cả về nhận thức lý
luận và xử lý thực tiễn . Những vấn đề mà đề án đề cập đến sẽ không tránh khỏi những
vướng mắc sai sót . Em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy để hoàn thiện
thêm đề án của mình .





Chương i
Những vấn đề cơ bản về lạm phát

I . Khái niệm và cách phân loại lạm phát
1. Khái niệm

Lạm phát là hiện tượng vốn có của một nền kinh tế sử dụng tiền tệ , và là một
hiện tượng kinh tế phổ biến ở nhiều nước trên thế giới . Nó tồn tại ở cả những nước
phát triển và chậm phát triển , cả trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng , suy thoái hay
hưng thịnh . Các định nghĩa lạm phát đưa ra thường được tiếp cận từ hai khía cạnh chủ
yếu : Thứ nhất là các định nghĩa xuất phát từ việc xem xét các nguyên nhân của lạm
phát , chẳng hạn như : “lạm phát là tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất
lao động “. Với định nghĩa này thì chủ yếu là giải thích về nguyên nhân của lạm phát
hơn là một định nghĩa về lạm phát . Cách tiếp cận thứ hai khá phổ biến hiện nay là ,
tập trung vào những ảnh hưởng của lạm phát :Lạm phát là mức giá cả chung tăng lên .
Sự tăng lên của mức giá làm giảm giá trị tiền tệ được đo bằng sức mua đối nội của nó .
Mức biến động giá cả khác nhau giữa các nước sẽ chuyền ảnh hưởng đến tỉ giá ngoại
tệ và làm giamr sức mua đối ngoại của đồng tiền . Đối nghịch với lạm phát là giảm
phát ,đó là khi giá cả chung có xu hướng giảm xuống . Cả hai hiện tượng đều có thể
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế , xã hội .
Sự tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát . Bản chất của
lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó là sự tăng giá với tốc độ cao và
kéo dài hay chỉ là tạm thôi . Một sự tăng giá tạm thời có thể xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau , nhưng chỉ có sự tăng lên của tiền tệ mới dẫn đén sự tăng giá kéo dài
và với tốc độ cao . Như vậy tỉ lệ lạm phát thực sự phản ánh tình hình tăng tiền trong
lưu thông .




2. xác định lạm phát
Đã đành lạm phát là sự tăng giá hàng hoá ở mọi mặt hàng . Thế nhưng có ba
điều kiện cơ bản để xác định nó một cách chính thức :
 Để biết được tình trạng tăng giá , người ta phải so sánh giá cả hàng hoá giữa thời
điểm này với thời điểm khác làm mốc. Nếu trong khoảng giữa hai thời điểm , giá
mà tăng thì đó là lạm phát . Nếu gọi P1 ,P0 lần lượt là giá cả của hàng hoá ở thời

điểm t1, t0 thì phần tăng giá sẽ bằng : P1-P0.
 Trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hoá khác nhau , sự thay đổi giá cả cũng
không đều nhau ,có một số mặt hàng tăng nhanh , một số khác tăng chậm , thậm
chí có mặt hàng giảm giá ,nên để đo lường sự thay đổi giá , người ta buộc hải sử
dụng giá cả bình quân của cả nước . Có 3 loại chỉ số giá :

Giá cả hàng tiêu dùng bình quân –CPI-
Giá cả hàng sản suất bình quân –PPI-
Giá cả bán lẻ bình quân –RPI-
Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng bình quân đo lường mức giá bình quân của một nhóm
hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ gia đình . Vào đầu kỳ tính CPI các
số liệu được thu thập , sau đó được tính bằng cách so sánh giá trị hiện tại và giá trị gốc
của nó . Lạm phát thường được đo bằng chỉ số phần trăm
Tỉ lệ lạm phát = (p1-p0)/po*100%
3. Phân loại lạm phát
Việc nghiên cứu các loại lạm phát , giúp chúng ta hình dung rõ
những đặc điểm của từng loại lạm phát cũng như ảnh hưởng tiềm năng của chúng từ
đó có các giải pháp kiềm chế lạm phát thích hợp .
 Lạm phát vừa phải : Xảy ra khi tốc độ tăng giá chậm , ở mức một con số. Hiện ở
phần lớn các nước phát triển , lạm phát được duy trì ở mức vừa phải , tỉ lệ cụ thể
bao nhiêu là tuỳ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế và mục tiêu chính




sách tiền tệ trong từng thời kỳ . Trong điều kiện lạm phát vừa phải , giá cả tăng
chậm thường bằng mức tiền lương hoặc cao hơn chút ít . Do vậy giá trị tiền tệ
tương đối ổn định , tạo thuận lợi cho kinh tế , xã hội . Tác hại của loại lạm phát này
là không đáng kể .
 Lạm phát phi mã : là loại lạm phát xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng ở mức hai, ba con

số như 20%, 100% hoặc 200% trên một năm .Loại lạm phát này kéo dài suốt thập
kỷ 80 và gần hết thập kỷ 90 ở các nước Mĩ la tinh với mức biến động giá hàng năm
từ 20%-300%. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần hai (8/1978) đã đẩy Hoa Kỳ , Pháp
và Anh vào cơn lạm phát cho đến tận những năm 1983 . Hởu quả của lạm phát đến
đời sống là không nhỏ ,nó trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế .
Nguyên nhân là do sự tăng lên của khối tiền trong lưu thông . Khi giá cả hàng hoá
biến động mạnh giá trị tiền tệ giảm qua các thời kỳ , tiền giấy bắt đầu giảm trong
thanh toán . Trong thời kỳ lạm phát phi mẵ, sản xuất không phát triển , hệ thống tài
chính tín dụng bị tàn lụi .
 Siêu lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xamức lạm phát phi mã , có thể lên
tới hàng nghìn tỉ lần , như các cuộc siêu lạm phát điển hình trong lịch sử như : Lạm
phát ở Nga sau cách mạng tháng 10 , lạm phát ở Mỹ thời kỳ sau nội chiến . Năm
1985 Bolivia lạm phát đến 11000% một năm. Thế nhưng , điển hình nhất của siêu
lạm phát trong lịch sử tiền tệ , là ở Đức trong giai đoạn 1922-1923, kể từ tháng
11/1921 đến 11/1923, giá cả bình quân ở Đức tăng 1500 tỉ lần so với mức trước
năm 1914. Tình trạng này là không phổ biến . Nhưng nếu lạm phát vọt từ 3 chữ số
trở nên, nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng vì sản xuất không chịu hoạt
động hoặc hoạt động cầm chừng ,bởi vì khi họ sản xuất cang nhiều thì càng bị lỗ vì
vật tư lên giá nhanh . Tiền sẽ trở nên khó được chấp nhận trong những tình hình
như vậy . Siêu lạm phát mang những đặc trưng :
Siêu lạm phát có sức phá huỷ mạnh toàn bộ hoạt động của nền kinh tế và thường đi
kèm với suy thoái kinh tế nghiêm trọng ,nó dẫn đến đảo lộn chính trị , xã hội . Do




phát hành tiền giấy không hạn chế nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước dẫn đến
sự tăng giá quá cao .
Ngoài cách phân loại lạm phát dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát trên một
năm . Ta còn có thể chia lạm phát dựa vào mặt định tính như sau :

 Lạm phát thuần tuý
Lạm phát thuần tuý là trường hợp đặc biệt , khi giá cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá
sản xuất đều tăng lên gần như cùng tỉ lệ % trong cùng một đơn vị thời gian . Đây là
trường hợp mà nhu cầu tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng
tiền thực tế .
 Lạm phát cân bằng và không cân bằng :
Lạm phát được gọi là cân bằng khi nó tăng tương ứng với thu nhập . Nghĩa là sự
tồn tại của lạm phát , không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân . Ngược lại , lạm
phát không cân bằng khi nó tác động đến đời sống của người lao động .Nó làm cho họ
giàu hơn , nếu tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn tỉ lệ tăng của thu nhập . Và làm cho họ nghèo đi
nếu tỉ lệ lạm phát lớn hơn tỉ lệ tăng của thu nhập trong giai đoạn ấy. Lạm phát không
cân bằng là loại xảy ra phổ biến nhất
 Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
Khi lạm phát xảy ra trong khoảng thời gian đủ dài , tâm lý và sự chờ đợi của nhân
dân đã trở thành quán tính , người ta đã sống quen dần với lạm phát . Những năm tiếp
theo trở đi , việc nền kinh tế sẽ có lạm phát với cùng tỉ lệ như vậy là chuyện bình
thường và gần như được tin chắc , được đoán trước , được chờ đợi . Người ta gọi đây
là lạm phát dự đoán trước .Cũng có khi người ta có thể nhìn thấy trước về lạm phát và
tin rằng nó sẽ xảy ra ,bởi các nguyên nhân của nó đã bộc lộ đầy đủ và rõ ràng . Trong
tình huống như vậy , người ta cũng sẵn sàng chờ đợi và không bất ngờ khi lạm phát
xảy ra .Nhưng nếu lạm phát bùng ra bất thình lình . Trước đó không hề có . Ví dụ như
nền kinh tế vốn quen với tỉ lệ lạm phát thấp , bỗng nhiên lạm phát vọt lên cao như
Nhật vào năm 1978-1980 , tâm lý , cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa




thích nghi được với lạm phát . Người ta gọi đây là lạm phát bất thường . Lạm phát bất
thường dễ gây sốc cho cuộc sống và mọi người . Bởi nhân dân chưa chuẩn bị về mặt
tâm lý và chi tiêu để sống thích nghi với việc tăng giá đột ngột .


 Lạm phát cao và lạm phát thấp
Không thể đánh giá theo cách chủ quan theo cách của mình rằng đây
là lạm phát cao ,kia là lạm phát thấp nếu không hiểu rõ tiêu chuẩn hoặc mốc để đánh
giá . Bởi vì cao hay thấp không đơn thuần chỉ dựa vào tỉ lệ % của năm đó .Lạm phát
được gọi là cao khi tỉ lệ tăng bình quân năm của giá lớn hơn mức tăng của thu nhập
trong cùng thời gian . Ngược lại nó được gọi là thấp khi tỉ lệ tăng của nó từ nhỏ đến rất
nhỏ so với mức tăng cuả thu nhập . Như vậy ,mốc tiêu chuẩn đánh giá là dựa vào tỉ lệ
tăng của thu nhập . Lạm phát cao đến rất cao khi nó làm cho đời sống của nhân dân trở
nên khó khăn vì thu nhập thì không tăng hoặc tăng rất ít , trong khi giá cả hàng tháng
tăng liên tục . Lạm phát được gọi là thấp đến rất thấp nếu nền kinh tế tuy vẫn có lạm
phát , nhưng tỉ lệ lạm phát vẫn nhỏ hơn so với thu nhập , do đó đời sống nhân dân vẫn
tốt hơn , sung sướng hơn .
II . Nguyªn nh©n cña l¹m ph¸t
Mỗi một loại lạm phát có những nguyên nhân riêng của nó . Nguyên
nhân của lạm phát vừa phải có điều tiết khác với nguyên nhân của siêu lạm phát.
Nguyên nhân lạm phát của một nền kinh tế phát triển có hiệu quả khác với nguyên
nhân lạm phát cuả nền kinh tế suy thoái không hiệu qủa . Không những thế , lạm phát
ở các nước tư bản chủ nghĩa khác với lạm phát của các nước đang phát triển cũng như
là ở những nước kế hoạch hoá tập trung cao . Song cho dù có sự khác nhau thế nào đi
chăng nữa , các cuộc lạm phát đều có những nguyên nhân có tính chất chung . Những
nguyên nhân đó là :




1 . Lạm phát cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng
đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng . Trong thực tế , khi xảy ra lạm phát cầu kéo , người ta
thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thông và lượng tiền tín dụng tăng đáng kể và

vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá . Như vậy bản chất của lạm
phát cầu kéo chi phí quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể
sản xuất được , trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng . Tổng cầu phản
ánh nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hoá và dịch vụ của xã hội . Nó bao gồm
nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của các hộ gia đình , nhu cầu hàng hoá đầu tư của doanh
nghiệp , nhu cầu hàng hoá , dịch vụ của chính phủ và nhu cầu hàng hoá xuất khẩu ròng
của thị trường nước ngoài . Khi nhu cầu có khả năng thanh toán của các chủ thể này
tăng lên , tiền chi tiêu nhiều hơn sẽ dẫn đến giá cả tăng lên .
Chi tiêu của chính phủ tăng lên sẽ làm tổng cầu tăng lên thông qua các khoản
đầu tư vào các lĩnh vực thuộc phạm vi chính phủ quản lý hoặc có thể gián tiếp thông
qua các khoản chi phí phúc lợi xã hội , trợ cấp thất nghiệp tăng lên và kết quả là giá
cả hàng hoá tăng lên . Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu vượt quá khả năng thu ngân
sách và được bù đắp bằng vốn phát hành hoặc vay ngân hàng thương mại thì rất dễ gây
ra lạm phát kéo dài .
Chi dùng của các hộ gia đình tăng lên có thể do mức thu nhập thực tế tăng lên
hoặc do lãi suất giảm xuống , cả hai đều có áp lực đẩy tổng cầu lên và gây áp lực đối
với lạm phát .
Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên xuất phát từ dự đoán về triển
vọng phát triển kinh tế , về khả năng mở rộng thị trường hoặc do lãi đầu tư giảm , về
mặt ngắn hạn ,nó làm cho mức giá cả tăng lên .
Do chính sách tiền tệ mở rộng làm cho cả MB và MS tăng lên , không những
chỉ ngân hàng trung ương tăng mức phát hành tiền , mà cả hệ thống ngân hàng thương
mại cũng mở rộng cho vay , tạo tiền gửi và làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng




lên . Kết quả là chính phủ cá nhân và các doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu nhiều
hơn làm cho giá cả tăng nhanh hơn
Các yếu tố cóliên quan đến nhu cầu của nước ngoài như tỉ giá hối đoái , giá

cả của hàng hoá nước ngoài so với hàng hoá cùng loại được sản xuất trong nước và thu
nhập bình quân của thị trường nước ngoài có những ảnh hưởng quan trọng đến nhu
cầu hànghoá xuất khẩu và do đó đến tổng cầu cũng như mức giá cả nội địa .Sự tăng
lên của nhu cầu trong nước và nước ngoài hoặc việc mở rộng khối lượng tiền cung ứng
sẽ làm tăng nhu cầu thanh toán của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá , Tuy nhiên
trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt mức sản lượng tiềm năng , thì việc tăng tổng cầu
lại trở thành một chính sách lạm phát có hiệu quả để đẩy mạnh khả năng sản xuất của
xã hội .
Rõ ràng là dù nhu cầu về tiền danh nghĩa có tăng lên hay không , mọi sự gia
tăng cuả cung ứng tiền danh nghĩa ,về ngắn hạn đều gây ra lạm phát . Về mặt dài hạn ,
khi sản lượng đã phần nào mở rộng theo cung ứng tiền , thì sự chuyển tiếp từ sản
lượng qua gia tăng tổng cầu trên thị trường hàng hoá tiếp tục là bàn tay gây ra lạm phát
theo quan điểm của Keynes . Dù trực tiếp hay gián tiếp , ngắn hạn hay dài hạn , cung
ứng tiền tăng là nguyên nhân thường thấy của vấn đề lạm phát .
2 . Lạm phát chi phí đẩy
Đặc điểm quan trọng của lạm phát chi phí đẩy là áp lực làm tăng giá cả xuất
phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và
làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội . Có rất nhiều loại chi phí mà sự biến
động của nó ảnh hưởng ngay đến giá cả hàng tiêu dùng . Năm 1973 , 1978 OPEC tăng
giá dầu thô , năm 1990-1991 khủng hoảng vịnh Persian , cả ba lần , giá cả bình quân ở
hầu như tất cả các nước trên thế giới đềCó rất nhiều loại chi phí mà sự biến động của
nó ảnh hưởng ngay đến giá cả hàng tiêu dùng . Năm 1973 , 1978 OPEC tăng giá dầu
thô , năm 1990-1991 khủng hoảng vịnh Persian , cả ba lần , giá cả bình quân ở hầu
như tất cả các nước trên thế giới đều tăng .




Vì dầu thô là nguyên liệu chủ yếu của ngành vận tải , trong khi tất cả các loại
hàng hoá đều liên quan không ít thì nhiều đến vận tải ,do đó sự lên giá dầu kéo theo sự

lên giá của tất cả các loại hàng hoá khác là điều tất nhiên. Đây là loại chi phí thứ nhất
mà sự lên giá của nó kéo theo lạm phát . Khi giá dầu tăng , tổng cầu về hàng nhập và
các loại hàng hoá khác theo đó giảm đi vì với chi phí sản xuất lên cao , sẽ không phù
hợp với nhu cầu về giá của sản xuất và tiêu dùng dẫn đến sản lượng giảm .
Tình trạng thứ hai cũng có thể gây nên lạm phát là chi phí về tiền lương . Các
xí nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải chịu rất nhiều áp lực về vấn đề lương .
Trong thời hạn ngắn , các hợp đồng lao động còn hiệu lực , thì chi phí nhân công
không biến động lớn . Nhưng trong thời hạn dài khi nhiều đợt hợp đồng cũ lần lượt hết
hạn , hợp đồng mới bắt đầu ký . Những ảnh hưởng của công đoàn , thuế thu nhập và
các yếu tố khác như chi phí đào tạo bắt đầu chi phối và tạo sức ép nâng giá tiền lương
.Các xínghiệp không mong muốn tăng lương nhưng công nhân chỉ làm khi được tăng
lương . Để nâng lương lên là cả một vấn đề . Giá cả hàng hoá bán ra không thể tăng
giá một cách dễ dàng . Nếu xí nghiệp muốn duy trì sản lượng cũ thì phải tăng lương ,
điều đó buộc họ phải tăng giá .Nhưng vì đa số thị trường chỉ chấp nhận mức giá thấp
hơn nên buộc họ phải giảm sản lượng . Lương công nhân trong hợp đồng lao động mới
đã phải tăng lên . Sự tăng lương và giảm số việc làm sẽ làm giảm sản lượng . Thu nhập
thực sự giảm do thất nghiệp gia tăng , sản xuất thu hẹp, giá cả tăng vọt .Lạm phát do
chi phí sản xuất như giá dầu , vật tư khác , tiền lương lên cao đẩy giá hàng hoá lên
được gọi là lạm phát do chi phí đẩy .
3. Lạm phát theo tỉ giá hối đoái
Lạm phát ở Đức 1921-1923 và Bolivia năm 1985 , Brazil và argentina những
năm đầu thập niên 90 lúc đầu là do nguyên nhân :lạm phát do cầu kéo . Giữa giai
đoạn lạm phát , khi mà đồng tiền nội địa xuống giá quá nhanh so với ngoại tệ , bắt đầu
xuất hiện tâm lý kéo giá hàng hoá lên theo tỉ lệ tăng giá của tỉ giá hối đoái danh nghĩa
.Tỉ giá hối đoái quan hệ chặt chẽ với giá cả hàng hoá xuất và nhập khẩu . Do đó nó gắn
bó mật thiết với tất cả các hàng hóa khác trên thị trường . Tỉ giá giữa đồng nội địa và





tiền nước ngoài càng lên thì hàng hoá cànglên giá . Và giá hàng lên càng kéo tỉ giá lên
nhanh hơn , kinh tế càng bị lạm phát .
Tuy nhiên , các nhà kinh tế ở khắp các nước vẫn thừa nhận rằng : có vai trò
của tâm lý trong khuynh hướngkéo giá hàng hoá lên theo tỉ giá trong khi lạm phát đã
thực sự hình thành . Khuynh hướng đó rất đặc trưng ở khu vực xuất nhập khẩu . Khu
vực này chi phối mạnh mẽ tình hình sản xuất , chi phí và giá cả các khu vực còn lại
trong trong nền kinh tế , nhất là ở các nước hướng ngoại . nên khi khu vực xuất nhập
khẩu lên giá hàng hoá của họ theo tỉ giá , những giá cả còn lại đồng loạt lên giá theo .
Nhìn chung lạm phát xảy ra do : cầu kéo , chi phí đẩy và tỉ giá lên cao. Tuy
nhiên , hai nguyên nhân sau sẽ không có cơ sở bộc phát nếu cung ứng tiền danh nghĩa
không gia tăng , bởi sự lên giá hàng hóa , lao động và ngoại tệ . Chính ung ứng tiền đã
gián tiếp là cơ sở cho hai nguyên nhân sau . Vì cung ứng tiền danh nghĩa không tăng
nhanh , nếu NHTƯ quản lý chặt việc phát hành tiền ra trong lúc giá lao động , dầu thô
, ngoại tệ lên . Sự thắt chặt sẽ dẫn đến giảm sức mua nhanh chóng , cầu giảm , sản
lượng sụt , thất nghiệp tăng và giá lao động hạ xuống và quá trình lạm phát sẽ bị kìm
hãm . Khi cung ứng tiền không là tác nhân trực tiếp gây nên lạm phát thì nó vẫn gián
tiếp ảnh hưởng . Hơn nữa ,nó hoàn toàn có khả năng giữ cho giá cả hạ trở lại .Vì
những lý do đó , chính sách tiền tệ là nguyên nhân đích thực của lạm phát .
III. hËu qu¶ cña l¹m ph¸t
Tác động kinh tế xã hội của lạm phát rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ lạm
phát và khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát .Điều nguy hiểm
của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ của lạm phát mà còn ở sự xuất hiện bất ngờ của
nó . Khi tỉ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính , nó tạo nên sự biến động bất thường về
giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị , ảnh hưởng đến mọi
hoạt động của đời sống kinh tế xã hội .
Lãi suất tăng lên
Tác động đầu tiên của lạm phát lên đời sống kinh tế xã hội là nó làm





thay đổi lãi suất . Và vì lãi suất ngày nay tác động đến nhiều mặt đến thu nhập , tiêu
dùng , đầu tư , cho nên thông qua lãi suất , lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của
đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô . Để giữ cho tài sản nợ và có , có hiệu quả không đổi ,
hệ thống ngân hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định . Nhưng vì lãi suất
thực tế bằng lãi suất danh nghĩa sau khi đã trừ đi tỉ lệ lạm phát . Nên nếu muốn cho lãi
suất thực tế không đổi, lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỉ lệ lạm phát .khi các
ngân hàng và hệ thống tài chính tăng lãi suất danh nghĩa theo lạm phát , hậu quả mà
nền kinh tế phải gánh lấy là suy thoái và thất nghiệp gia tăng .Khi lãi suất càng tăng thì
đầu tư thực tế càng giảm . Về mặt lâu dài , sự cân bằng trên thị trường hàng hoá và tiền
tệ sẽ kéo cả lạm phát và lãi suất xuống khi không có sự can thiệp của NHTƯ . Nhưng
cái giá phải trả là tiềm năng sản xuất bị lãng phí . Số việc làm giảm và đời sống nhân
dân thêm khó khăn .
Phân phối thu nhập quốc dân không bình đẳng
Khi lạm phát tăng lên , tổng thu nhâph danh nghĩa tăng lên , nhưng
trong đó chứa đựng sự phân phối lại giữa các nhóm dân cư với nhau , giữa giới chủ và
người làm công , giữa người đi vay và người cho vay và giữa chính phủ với người
đóng thuế . Thông thường đối tượng đi vay là các nhà kinh doanh . Thành phần cho
vay cuối cùng là nhân dân với các khoản tiền tiết kiệm nhỏ bé . Lạm phát làm cho các
nhà kinh doanh có được phần thu nhập tăng thêm do thiệt hại của các thành phần nhân
nghèo . Đời sống nhân dân lao động đã khó lại càng thêm khốn khó . Những người
thừa tiền và giàu có thì đầu cơ tài sản và hàng hoá , trong khi dân ngheò không đủ khả
năng để mua sắm hàng tiêu dùng cho một tháng thì họ có thể mua hàng núi hàng để
dự trữ , chờ giá lên tùng ra bán . Chính sự đầu cơ này càng làm cho cung hàng hoá
khan hiếm và giá cả càng lên cơn sốt . Cuối cùng là dân lao động không mua nổi ngay
cả hàng tiêu dùng cần thiết để sống , trong khi những kẻ đầu cơ bán ra hàng hoá với
giá cao và càng trở nên giàu có hơn . Lạm phát như thế có thể dẫn đến rối loạn kinh tế
và làm cho hố ngăn cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo thêm lớn hơn . Quá





trình phân phối lại thu nhập , do lạm phát thường là không hợp lý và làm tăng thêm sự
bất bình đẳng.
3 . ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế
Lạm phát làm cho chính phủ được lợi nhiều hơn từ thuế thu nhập đánh vào
nhân dân . Chính phần thu nhập thực tế mà nhân dân mất đi đã chạy vào ngân sách của
chính phủ , thì ngược lại , trong quan hệ kinh tế đối ngoại , những khoản nợ quốc gia
của chính phủ đối với các nước sẽ trở nên trầm trọng hơn . Chính phủ được lợi trong
nước nhưng lại bị thiệt đối với nợ nước ngoài . Vì lạm phát làm tỉ giá hối đoái tăng và
đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với tièen tệ nước ngoài tính trên
các khoản nợ . Nếu lạm phát trong nước không đổi , lạm phát ở nước ngoài tăng cao .
Tình trạng đó sẽ làm cho đồng tiền nội địa lên giá và chính phủ sẽ vui mừng vì các
khoản nợ nước ngoài nhỏ lại . Tuy nhiên ,cái lợi từ việc giảm các khoản nợ không thể
bù được các khoản thiệt hại xuất khẩu và sản lượng .
Lạm phát và thu nhập thực tế
Lạm phát không chỉ làm hao mòn giá trị của tài sản không có lãi tức
tiền mặt ,nó còn làm hao mòn cả những tài sản có lãi .Thuế thì được ấn định cho một
năm hoặc nhiều năm . Nên trong thời hạn ngắn hạn nó rất khó điều chỉnh . Trong khi
lạm phát có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào . Vì vậy vô hình chung , khi lạm phát xảy ra
càng chất thêm gánh nặng thuế thu nhập và các loại thuế khác lên người lao động . Kết
quả là lạm phát càng cao , thu nhập thực tế của nhân dân càng giảm . Đời sống của họ
càng khó khăn hơn . Ngay cả khi lãi suất và tiền lương được điều chỉnh theo cùng tỉ lệ
lạm phát .
Lạm phát và thất nghiệp
Mọi người đều không ưa gì lạm phát . Nhưng để đẩy lùi nó bao giờ
cũng phải có những giá nhất định . Chi phí để chống lạm phát cũng là một trong những
hậu quả của nó đối với nền kinh tế .Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút
của tổng cầu và công ăn việc làm , do đó gia tăng tỉ lệ thất nghiệp . Tổng cầu giảm khi





lãi suất danh nghĩa tăng lên , giá trị tài sản thực tế giảm xuống và sự giảm sút khả năng
cạnh tranh quốc tế . Tất cả những yếu tố này là hệ quả tất yếu của lạm phát .
IV. Gi¶i ph¸p chèng l¹m ph¸t
Chính vì do những tác hại trên , nên việc kiểm soát lạm phát ,giữ lạm phát ở
mức độ hợp lý trở thành một trong những mục tiêu lớn của chính sách kinh tế vĩ mô
.Các biện pháp chống lạm phát tựu chung lại cũng chỉ nhằm hai mục tiêu chính là rút
bớt lượng tiền thừa trong lưu thông và gia tăng số lượng hàng hoá để đáp ứng nhu cầu
của dân chúng . Những biện pháp chủ yếu mà các nước thường áp dụng để chống lạm
phát đó là :
Chính sách tiền tệ :
Chính sách tiền tệ được thực hiện theo hướng thắt chặt cung ứng tiền
tệ , tín dụng nhằm hạn chế lượng tiền tệ trong lưu thông , ngân hàng trung ương
thường thực hiện các biện pháp sau :
Nâng lãi suất tín dụng để hạn chế lạm phát . Lãi suất cao sẽ làm cho chi phí của vốn
vay và tiền mặt trong tay nhân dân trở nên cao .Chi phí cơ hội của việc giữ tiền cao đã
làm cho nhân dân gởi tiền vào ngân hàng nhiều hơn , tiết kiệm chi tiêu , dẫn đến nhu
cầu tiêu dùng giảm , lượng tiền trong lưu thông giảm .
Nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hạn chế vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
.
Ngân hàng trung ương bán các loại trái phiếu ngắn hạn ra thị trường tiền tệ để thu hút
vốn tiền tệ của các ngân hàng thương mại và của các doanh nghiệp.
Qui định hạn mức tín dụng , tức là qui định cho các ngân hàng thương mại mức cấp
vốn tín dụng tối đa , nếu cho vay vượt quá mức đó các ngân hàng thương mại phải
chịu phạt . Bẻn cạnh đó NHTƯ còn thực hiện biện pháp hạn chế tín dụng có lựa chọn ,
nhằmhạn chế mạnh những khoản tín dụng mang tính chất lạm phát , và ngược laị vẫn
cho phép cấp vốn tín dụng cho những ngành ưu tiên phát triển .





Khuyến khích tiết kiệm bằng nhiều phương pháp , thông dụng nhất là biện pháp điều
chỉnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm theo thời hạn , thời hạn càng dài lãi suất càng cao .
Trong thời kỳ lạm phát nghiêm trọng , cần áp dụng chính sách tiền tệ ổn định. Như ở
Mỹ vào đầu thập kỷ 80 để ngăn chặn tình trạng lạm phát cao , họ đã áp dụng chính
sách lãi suất cao và giảm mức tăng giá . Từ 1979-1982 lượng cung ứng M2 khống chế
ở mức tăng trong vòng 9% , áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm lạm phát ,
chỉ số vật giá từ 10,3% năm 1981 giảm xuống còn 6,2% năm 1982 và sau đó giữ được
ở mức bình quân là 3 đến 4%.
2. Chính sách tài chính
Phương pháp chính của chính sách tài chính là giảm thấp mức chi của chính phủ và
công cộng , tăng mức thuế đối với doanh nghiệp tư nhân ,để giảm bội chi dự toán cân
bằng .
Tiết kiệm chi ngân sách nhà nước , cắt giảm các khoản chi không tác động đến sự
phát triển có hiệu quả của nền kinh tế .
Nâng cao hiệu quả thu ngân sách nhà nước ,tăng thu nhưng phải bảo đảm nuôi
dưỡng nguồn thu , đặc biệt chính sách thuế phải có tác dụng hướng dẫn, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển .
Hạn chế tình trạng bội chi ngân sách , không sử dụng biện phát hành tiền để bù đắp
bội chi ngân sách . Nếu bội chi nên sử dụng biện pháp vay để bù đắp bội chi .
Như ở Anh năm 1976 chính phủ đã áp dụng chính sách mới , bộ tài chính qui định
:hạn chế mức chi công cộng của hai năm tài chính từ năm 1977 đến năm 1979 chỉ
được đạt mức thực tế của năm 1976 –1977 , đồng thời đối với hơn một nửa các hạng
mục chi cũng chỉ dùng trong tổng số tiền hiện có. Những biện pháp đó , đã có hiệu lực
giảm bớt chi phí công cộng , vì vậy đã giảm đáng kể sức ép của lạm phát .
Đầu năm 1949 Nhật đã lập một dự toán siêu cân bằng , nhằm giảm nhẹ sức ép của
tài chính với tiền tệ , giảm bớt nhu cầu . Cách làm đó đưa lại hiệu quả rất nhanh . Tài
chính từ bội chi đã có thừa , phát hành tiền quá mức cho phép đã được khống chế . Chỉ





số giá bán buôn từ 166,7% năm 1949 giảm xuống còn 18,2% năm 1950 . Giá hàng
tiêu dùng cũng từ 74,5% xuống còn 25,4% thậm chí đến năm 1950 xuất hiện hiện
tượng sụt giá đến –6,9%.
Ngoài ra ,một số nước còn áp dụng chính sách tài chính : giảm can thiệp , tăng các
loại cung cấp bổ trợ . Những chính sách đó được nhiều nước quán triệt và được thừa
nhận là có hiệu quả .
Chính sách giá cả
Để hạn chế sự tăng giá của hàng hoá , nhà nước thực hiện chính sách
kiểm soát giá cả đối với các lĩnh vực nông sản , công nghiệp , thương nghiệp, nhập
khẩu và dịch vụ . Để thực hiện những mục tiêu này nhà nước tiến hành những biện
pháp :
Qui định mức tăng giá tối đa với một số ngành nghề hoặc từng xí nghiệp .
Ký kết những hợp đồng theo chương trình nhà nước , cho phép các xí nghiệp được tự
do định giá , nhưng phải theo một số cam kết về giá cả , tiền lương và đầu tư .
Kí hợp đồng chống nâng giá giữa nhà nước và xí nghiệp .
Kí những thoả thuận buộc các xí nghiệp lập các kế hoạch hàng năm về định giá theo
đó các xí nghiệp chỉ được tăng giá theo mức độ tương ứng với một chỉ số bình quân cả
nước do nhà nước công bố và phù hợp với năng suất lao động của xí nghiệp . Các xí
nghiệp nhỏ hoặc đang bị cạnh tranh trong và ngoài nước được nhà nước cho phép tự
do định giá .
Khi giá cả tăng mạnh , nhà nước có thể qui định giảm một tỉ lệ bình quân nào đó về
phụ phí so với năm trước thông qua thoả thuận giữa nhà nước và nhà kinh doanh ,
hoặc từng loại văn bản pháp qui ứng với từng loại sản phẩm hoặc từng loại xí nghiệp .
Rất coi trọng chính sách vật giá , dùng các thủ đoạn kinh tế , hành chính hoặc
luật pháp để trực tiếp khống chế vật giá leo thang . Mỹ thực hiện cơ chế giá tự do ,
nhưng chính phủ không bao giờ bỏ qua việc giám sát , theo dõi giá cả những mặt hàng

tiêu dùng đặc biệt , là những mặt hàng có khả năng lũng đoạn thị trường . Chính phủ




tích cực sử dụng các thủ đoạn để đạt mục tiêu chống lạm phát . Ngoài thủ đoạn dự
toán tài chính , chính phủ nhập hàng hoá giá rẻ như dầu thô , thu hút vốn nước ngoài
vào Mỹ . Đối với các xí nghiệp lũng đoạn thì họ tăng cường công tác giám sát , vì vậy
đã có tác dụng nhất định trong việc giảm thấp lạm phát dù là trực tiếp hay là gián tiếp
.Mỹ tuy theo kinh tế thị trường nhưng kinh tế liên bang chiếm tỉ lệ khá lớn , chính phủ
có thể điều chỉnh giá thông qua đầu tư , sự nghiệp xã hội phân phối thu nhập
4. Chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập mang tính chất quy định tức là nhà nước tham gia tối đa vào
việc xác định các khoản thu nhập một cách đơn phương . Chính sách thu nhập này
thường được áp dụng ở Mỹ
Chính sách thu nhập mang tính chất hợp đồng dựa trên sự thoả thuận giữa các thành
phần xã hội . Hợp đồng này được thoả thuận giữa các nhà lãnh đạo doanh nghiệp nhà
nước và tổ chức công đoàn cuả công nhân , do nhà nước đứng ra bảo trợ , sau đó áp
dụng cho khu vực kinh tế tư nhân . Loại này thường được áp dụng ở Thuỵ Điển .
Chính sách thu nhập mang tính chất hướng dẫn thường được áp dụng ở Pháp theo
một chương trình kế hoạch hoá cũng có tính chất hướng dẫn , được áp dụng theo một
phạm vi rộng hơn là chính sách thu nhập theo hợp đồng
Chính sách thu nhập mang tính chất khuyến khích ,đang có xu hướng áp dụng
xuống tận xí nghiệp , cho chủ và công nhân tự quyết định . Qui định một mức tăng của
giá trị gia tăng được ghi vào kế hoạch nhà nước . Nếu vượt quá qui định của nhà nước
thì xí nghiệp đó phải mua tín phiếu trên thị trường, còn nếu thấp hơn thì phải bán ra
các tín phiếu thị trường .
5.Chính sách tỉ giá
Khi đồng tiền trong nước bị mất giá trong điều kiện nền kinh tế mở cửa
Thì trước hết giá cả hàng nhập khẩu sẽ tăng cao , tiếp đó sẽ làm tăng giá hàng bán

buôn và hàng bán tiêu dùng trong nước . Sự gia tăng giá hàng trong nước phụ thuộc
khá nhiều vào kỹ thuật nhập khẩu . Xu hướng tăng giá sẽ lan sang toàn bộ các khu vực




khác do phản ứng tự nhiên phải giữ vững thu nhập thực tế của mình và do dự đoán là
giá cả sẽ tăng lên .Từ đó ,làm cho biện pháp khuyến khích xuất khẩu bằng cách phá
giá đồng tiền tự nó không còn tác dụng nữa , bởi lẽ giá cả trong nước tăng lên không
tạo điều kiện hạn chế nhập khẩu . Nếu tiếp tục phá giá đồng tiền để hạn chế nhập siêu
lại làm cho giá cả trong nước tăng lên và cứ tiếp diễn như vậy . Do đó cách tốt nhất là
hạ tỉ giá đồng tiền từ từ , mặc dù điều này có thể gây bất lợi cho xuất khẩu .
Việc áp dụng chính sách tỉ giá có sự kiểm soát chặt chẽ , được hỗ trợ bằng cách tung
dự trữ ngoại hối ra để duy trì tỉ giá ngày càng chứng minh tính hữu hiệu của nó trong
việc kiềm chế lạm phát . Tuy nhiên cần phục hồi tỉ lệ ngoại hối ngay sau mỗi cuộc
khủng hoảng .
Nhập khẩu
Nhập khẩu là biện pháp có tính cấp thời để đưa vào thị trường trong
nước các mặt hàng đang thiếu hay lên giá . Đây là biện pháp tình thế rất hữu hiệu trong
việc chặn đứng sự khan hiếm hàng hoá , làm giảm sự gia tăng của giá cả . Tuy nhiên
biện pháp này có một số tác hại là làm cho số vàng và ngoại tệ dự trữ của quốc gia bị
hao hụt , nếu kéo dài nền kinh tế sẽ lâm vào tình trạng kiệt quệ . Khi sắp kiệt quệ thì
phải vay nợ nước ngoài ,từ đó làm gia tăng nợ nước ngoài .Tạo cho dân chúng có thói
quen tiêu thụ hàng ngoại nhập .Đây là yếu tố gây bất lợi cho sản xuất trong nước .


Ch¬ngii
Thùc tr¹ng kiÓm so¸t l¹m ph¸t ë viÖt nam

Lạm phát ở Việt Nam đã kéo dài nhiều năm , và bùng nổ thành siêu lạm phát

trong các năm 1986 – 1988 , với chỉ số tăng giá ở mức cao , phổ biến từ 15-20% . Tuy
nhiên , cũng chỉ sau khi lạm phát bùng nổ thành siêu lạm phát với những hậu quả nặng




nề về kinh tế và xã hội trong những năm nửa sau của thập kỷ 80 thì chính sách chống
lạm phát , kiềm chế và đẩy lùi siêu lạm phát , tiến tới kiểm soát lạm phát mới thành
vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng ở Việt Nam . Kiểm soát lạm phát là một trong
những vấn đề ưu tiên trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước .
I . C¸c giai ®o¹n l¹m ph¸t
Lạm phát trong giai đoạn từ 1980 trở về trước :
Diễn biến của quá trình lạm phát trong những năm 1956- 1975 trong kinh tế miền
bắc XHCN và những năm 1975-1980 trong phạm vi cả nước . Trong giai đoạn này
lạm phát chịu ảnh hưởng sâu sắc của những đặc điểm trong sự phát triển kinh tế
của cả hai giai đoạn đó . Những đặc trưng chủ yếu là :
Lạm phát kéo dài suốt 25 năm của cả hai giai đoạn phát triển kinh tế , nhưng
không phải là quá trình liên tục , diễn biến theo hướng tăng lên .
Trong quá trình lạm phát 25 năm do cơ chế kế hoạch hoá tập trung , quan liêu
bao cấp gây ra , song hành hai thị trường : thị trường của nhà nước và thị trường tự do
.
Do sự tách rời giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do nên trong giai
đoạn này căn bệnh lạm phát chưa được phát hiện trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung . Nhà nước định giá cho hầu hết sản phẩm và dịch vụ lưu thông trên thị trường ,
chỉ đạo theo phương châm ổn định và phấn đấu để hạ giá hàng hoá , hoàn toàn thoát ly
khỏi qui luật thị trường . Có nhiều thời kỳ ,chỉ số giá bán lẻ do nhà nước qui định
không hề thay đổi , thậm chí có nhiều năm diễn biến theo chiều hướng giảm phát một
cách giả tạo .
Lạm phát trong giai đoạn 19811985
Trong giai đoạn này , kể từ cuộc cải cách giá cả , tiền lương và cuộc cải

cách về cơ chế quản lý trong nông nghiệp , công nghiệp đầu thập kỷ 80 cho đến Đại
hội Đảng lần thứ VI , lạm phát và chống lạm phát gắn liền với quá trình cải cách cơ
chế kinh tế và quản lý kinh tế .




Nhìn tổng quát , ảnh hưởng qua lại của cải cách giá , lương và lạm phát đã
kích động tiêu dùng và nhu cầu có khả năng thanh toán tăng đột biến , trực tiếp gây ra
lạm phát :
Ngân sách nhà nước trong 10 năm đã có biến động bất lợi và làm tăng nhân tố lạm
phát . Dư nợ tín dụng vốn lưu động 1976 – 1980 là 4,2-8,2 tỷ đồng , đến 1981 lên 36 tỷ
và 1984 là 96,2 tỷ , gấp hơn 20 lần so với 1976 và hơn 10 lần năm 1980 . Điều này
không thể giải thích bằng bất kỳ một sự tăng trưởng nhu cầu tín dụng nào , mà chỉ có
thể do một chính sách tín dụng tuỳ tiện , giá bao cấp bất chấp quy luật phát triển vốn
và không cân nhắc đến yêu cầu chống lạm phát . Vì vậy đã trở thành một tác nhân
quan trọng làm bùng nổ lạm phát trong 5 năm 1981-1985. Do phải đảm bảo nhu cầu
bao cấp theo định lượng trong khi sản xuất không đủ đáp ứng , làm căng thẳng thị
trường , quỹ tiêu dùng cá nhân vượt xa mức tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội , thu
nhập quốc dân và năng suất lao động xã hội .
Qua diễn biến của lạm phát trong 5 năm có thể rút ra những kết luận :
- Nếu lạm phát trước năm 1981 diễn ra hoàn toàn trong điều kiện kinh tế cũ thì quá
trình này trong những năm 1981 – 1985 đã diễn ra trong điều kiện đã có những cải
cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế
- Tuy vẫn song song tồn tại hai dạng lạm phát ngầm và công khai , nhưng phần công
khai chiếm ưu thế do cơ chế hai giá , giá thấp để bán theo lệnh cung cấp và giá cao
bán kinh doanh , sát giá thị trường . Giá thứ hai đã phản ánh rõ quan hệ cung cầu ,
tiền hàng và tỷ trọng của phần này cũng tăng lên rõ rệt .
- Cải cách giá là tác nhân quan trọng, nổi bật thậm chí trên một giác độ nào đó có thể
xem là tác nhân trực tiếp của lạm phát sau đó và kéo dài đến cuối giai đoạn này

- Nguyên nhân cơ cấu kinh tế bất hợp lý gây ra lạm phát có tính thường trực , nhưng
là nguyên nhân tiềm ẩn , nguyên nhân trực tiếp là sai lầm làm mất cân đối nghiêm
trọng trong các quan hệ phân phối thu nhập quốc dân , trong các chính sách tài




chính và ngân sách nhà nước , trong chính sách tiền tệ tín dụng.Kết quả là cầu đã bị
kích lên dẫn đến lạm phát cao hơn .
- Quá trình cải cách giá , lương , tiền đã có mục tiêu và bước đi khá thận trọng , đúng
đắn song quá trình này đã không lường hết được khả năng kích động lạm phát gia
tăng , do đó không có giải pháp phòng ngừa , xử lý và khắc phục khả năng gia tăng
lạm phát .
3 . Giai đoạn siêu lạm phát 19861988
Lạm phát với mức độ rất cao kéo dài hơn 3 năm liên tục ,sau đó hạ dần ,
nhưng đến năm cuối của thời kỳ vẫn còn trên 400% . Lạm phát 3 con số kéo dài 3 năm
liên tục là sự kiện hiếm có không những trong lịch sử kinh tế Việt Nam mà đối với cả
phần lớn các nước khác trên thế giới .
Lạm phát được mở đầu bằng cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng với việc
đổi tiền . Riêng tiền lương thì đây là lần cải cách thứ nhất sau 25 năm thực hiện chế độ
lương cũ , 1981 tăng lương với mức độ khá lớn 80-100% nhưng không cải cách chế
độ tiền lương và mức độ đó so với 1985 cũng chỉ là rất nhỏ . Cải cách giá và lương ,
đổi tiền trở thành nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ lạm phát 3 con số thời kỳ này .
Thời kỳ 1986-1988 ảnh hưởng giá cả trong quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ
hơn thời kỳ 1981-1985 song cũng vẫn bất lợi cho cán cân thanh toán của Việt Nam .
Chỉ số giá xuất khẩu 1987 và 1988 đã giảm so với 1985 là 0.6% và 2%, trong khi đó
chỉ số giá nhập khẩu tăng liên tục từ 1985 đến 1988 . Tình hình nhập siêu gần như
không thay đổi , kim ngạch nhập khẩu so với xuất khẩu 1985 là 2,65 và 1987 là 2,87
và 1988 là 2,65.
Nếu những chu kỳ lạm phát trước đây diễn ra trong cơ chế cũ , chiến tranh và

hậu quả tiêu cực của nó ( trước 1980 ) hoặc như trong thời kỳ 1981-1985 đã có những
cải cách kinh tế quan trọng nhưng chưa phải là tổng thể , thì lạm phát lần này bùng nổ
chỉ một năm trước Đại hội Đảng VI tức là thời kỳ đổi mới và cải cách toàn diện . Chu
kỳ siêu lạm phát đã bắt đầu cùng lúc với sự mở đầu thời kỳ cải cách và đổi mới toàn
diện và sâu sắc nền kinh tế Việt Nam .




Tính chất công khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất kỳ giai đoạn nào
trước đó . Chỉ số lạm phát được bộc lộ qua chỉ số giá bán lẻ trên thị trường tự do và thị
trường thương nghiệp quốc doanh chênh lệch nhau không đáng kể . Điều này đạt được
nhờ chính sách hai giá . Doanh số bán lẻ tăng hơn 11 lần , thương nghiệp quốc doanh
tăng 11 lần , thị trường tự do tăng 13 lần . Cả giá của thị trường và gía của nhà nước
đều vận động tương đối sát với quan hệ cung cầu , tiền hàng , đây chính là nguyên
nhân quan trọng nhất làm cho tính công khai được bộc lộ đầy đủ hơn , chỉ số giá phản
ánh mức độ lạm phát trung thực hơn .
Lần đầu tiên ở Việt Nam về lý luận cũng như thực tiễn công nhận nền kinh tế
đang lâm vào lạm phát nghiêm trọng và biểu hiện của nó được công nhận thông qua
diễn biến của tổng chỉ số giá cả hay sự tăng giá toàn bộ các loại hàng trong nước .
Tháng 6-1988 lần đầu tiên một văn kiện về giải pháp cấp bách kiềm chế và đẩy lùi lạm
phát được ban hành .
4 . Giai đoạn từ năm 1989 đến nay
Lạm phát được kiềm chế thành công từ năm 1989 và giảm tới mức một con số
trong suốt thập kỷ 90 . Nhưng tỉ lệ lạm phátbiến động qua các năm và những biểu hiện
của giảm phát gần đây đang gây sự mất ổn định cho môi trường kinh tế . Các giải
pháp đồng bộ áp dụng trong chiến dịch chống lạm phát v ào cuối thập niên 80 đã đem
lại một kết quả đáng kể , mức tăng giá bình quân hàng tháng năm 1989 là 2,5% so với
15 % năm 1988 . Trước hết các biện pháp hạn chế sự tăng cầu quá mức đã được áp
dụng đem lại những hiệu quả tức thời , gồm hạn chế chi tiêu ngân sách , khơi thông

nguồn thu , giảm bội chi , hạn chế và tiến tới ngừng phát hành bù đắp thiếu hụt ngân
sách . Chính sách tiền tệ khan hiếm bắt đầu được sử dụng để kiểm soát lượng tiền
cung ứng , cùng với sự thay đổi trong quan niệm về tiền tệ cũng như quản lý tiền tệ ,
hệ thống ngân hàng đã được cải cách toàn diện theo hướng hiệu quả và chất lượng
nhằm tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ .Chính sách lãi suất cao được áp dụng ,sau
nhiều thập kỷ nhười gửi tiền nhận được lãi suất dương nó có tác dụng to lớn trong




việc giảm tiêu dùng và giảm mức độ biến động giá thậm chí xuống âm trong các tháng
5,6,7 năm 1989.
Bên cạnh các giải pháp làm giảm áp lực của tổng cầu , chính phủ tập trung vào
việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nhằm giảm chi phí tăng năng suất lao động , sử
dụng tiết kiệm có hiệu quả các nguồn lực xã hội . Từ năm 1988 nền kinh tế thực bước
vào thời kỳ cải cách theo cơ chế thị trường , năng lực xã hội bắt đầu được khai thác và
có điều kiện phát huy tác dụng thông qua phát triển chính sách kinh tế đa thành phần .
Các chính sách giá cả , tài chính , tín dụng phần nào đã được xây dựng phù hợp với cơ
chế thị trường , tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả . Sự thay đổi căn bản này
thực sự đã mở rộng mức sản lượng tiềm năng của xã hội và tạo nên thời kỳ tăng trưởng
vững chắc trong những năm sau .
Các giải pháp chiến lược nhằm tạo sự ổn định tiền tệ vững chắc vẫn tiếp tục
được hoàn thiện trong suốt thập kỷ 90 , tăng cường hiệu lực cuả chính sách tiền tệ , kết
hợp với điều chỉnh hợp lý tỉ giá ngoại tệ , cải cách chính sách tài khoá , chính sách
thuế , thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một cách triệt để , là cơ sở duy trì
mức lạm phát vừa phải trong nhiều năm .
Mặc dù tỉ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức thấp nhưng dường như ngân hàng
nhà nước không chủ động trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng , do phải đáp ứng
các nhu cầu chi tiêu của chính phủ cho các đối tượng chính sách , thiên tai hạn hán ,
kênh tín dụng còn chưa hiệu quả , do khủng hoảng của thị trường tiền tệ khu vực hoặc

do chính sách tiền tệ chậm phát huy hiệu quả . Điều này làm cho mức cung tiền tệ tăng
lên hoặc giảm đi không dự kiến trước được , kéo theo sự biến động thất thường của tỉ
lệ lạm phát , tạo nên tâm lý không ổn định cho các nhà đầu tư và người tiết kiệm thông
qua những ảnh hưởng của lạm phát về phân phối và hiệu quả .
Bắt đầu từ năm 1996 nền kinh tế nước ta có dấu hiệu của giảm phát , từ cuối
quí I giá cả giảm liên tục và chuyển sang âm , chỉ đến quí IV giá cả mới nhích lên một
chút ít do điều chỉnh mức tăng của tổng phương tiện thanh toán . Tình trạng tương tự
xảy ra trong các năm 1997 và 1999 . Như vậy tỉ lệ lạm phát thấp ở mức một con số




trong các năm 1996 , 1997 và 1999 không phải là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế ,
tăng năng suất lao động , hạ giá thành sản phẩm mà chủ yếu do sức mua chung của xã
hội giảm bởi thu nhập giảm . Lý do xuất phát từ mức sản xuất giảm thấp do không tiêu
thụ được hàng , sức cạnh tranh của tổng thể nền kinh tế thấp , hàng nội bị chèn ép bởi
hàng ngoại . Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp thu nhập giảm nhanh mặc dù đã có
chính sách trợ giá thu mua . Thu nhập giảm còn do thất nghiệp tăng lên . Đặc biệt do
thực hiện cổ phần hoá và sắp xế p lại doanh nghiệp nhà nước , lao động dư thừa trong
cac khu chế suất, trong các khu liên doanh với nước ngoài . Vì thế các giải pháp kích
cầu có lẽ không có hiệu quả và nếu có cũng không kéo dài .Hiện tượng giảm phát này
xuất phát từ chính các yếu tố của quá trình sản xuất và còn do ảnh hưởng của chu kỳ
suy giảm toàn cầu nên điều quan trọng là tìm các giải pháp tác động vào sức sản xuất
của xã hội , tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua chất lượng và khai thác thị
trường tiêu thụ , từ đó mà tạo công ăn việc làm tăng thu nhập .




II. Nguyªn nh©n

Thông qua phân tích các giai đoạn diễn biến thực tế của quá trình lạm phát ở
Việt Nam có thể nêu các nguyên nhân của lạm phát kéo dài trong nền kinh tế như sau :
 Cơ cấu kinh tế hình thành từ các giai đoạn phát triển kinh tế miền Bắc , trải qua
thời kỳ xây dựng trong hoà bình , thời kỳ chuyển hướng kinh tế sang thời chiến và gần
hai thập kỷ xây dựng kinh tế trong thời bình trên phạm vi cả nước đã bộc lộ nhiều mâu
thuẫn nhiều mặt mất cân đối , cuối cùng đã dẫn đến một cơ cấu sản xuất , cơ cấu đầu
tư tồn tại nhiều mặt không khớp với cơ cấu tiêu dùng sản phẩm xã hội ở Việt Nam .
Đó là nguyên nhân cơ bản và sâu xa .
 Cơ chế kinh tế cũ cũng là nguyên nhân đặc thù gây nên lạm phát dù bị che đậy
chuyển thành lạm phát ngầm ,trong nhiều thập kỷ ở Việt Nam . Trong hơn một thập kỷ
gần đây , công cuộc cải cách nhất là cải cách giá là tất yếu , nếu được thực hiện thành
công sẽ tạo tiền đề cho việc chống lạm phát từ gốc , song những va vấp do thiếu kiến
thức và kinh nghiệm , do tiến hành cải cách thiếu đồng bộ , các bước đi không vững
chắc về chính sách vĩ mô , đặc biệt là do xử lý mối quan hệ cải cách giá , cải cách ngân
hàng ( chính sách tiền tệ , tín dụng , lãi suất , tỉ giá hối đoái ) và cải cách tài chính (
ngân sách quốc gia , thuế và điều hành cán cân thanh toán quốc tế ) không đồng bộ
và không hỗ trợ được cho nhau , đã trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát
cao kéo dài và đi đến 3 năm siêu lạm phát .
 Nếu nguyên nhân về cơ cấu kinh tế và cơ chế cũ là nguyên nhân có tính cơ bản ,
sâu xa của thực trạng lạm phát kéo dài ở Việt Nam , thì trong từng giai đoạn của quá
trình lạm phát kéo dài đó các nguyên nhân về lạm phát tiền tệ , lạm phát nhu cầu và
lạm phát chi phí đã và đang là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những hình thái
và các biểu hiện trong từng thời kỳ với mức độ khác nhau của lạm phát . Những
nguyên nhân trực tiếp này liên quan đến việc hoạch định và điều hành các chính sách
tiền tệ , tín dụng , lãi suất , tỉ giá hối đoái , chính sách thuế và tài chính nói chung ,
chính sách giá cả và thu nhập cũng như chính sách xuất nhập khẩu và đầu tư từ nguồn

×