Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Những cơ hội và thách thức phát triển mới của ngành bảo hiểm nhân thọ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.69 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
A/. Lời mở đầu
Trong đời sống xã hội, con ngời phải thờng xuyên có mối quan hệ tác
động qua lại với giới tự nhiên và xã hội để tạo ra những sản phẩm, những giá trị
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình. Trong quan hệ qua lại đó, con
ngời luôn chịu tác động của các quy luật khách quan của tự nhiên và của các
điều kiện kinh tế xã hội. Những tác động này có thể là những tác động tiêu cực.
Những tác động tiêu cực đôi khi lờng trớc đợc, nhng nhiều trờng hợp, chúng
diễn ra một cách ngẫu nhiên mà con ngời ở thế thụ động. Trong thực tế, loại tác
động này trở thành những lực lợng không thể kiểm soát đợc, chúng gây ra
những tác hại to lớn đối với sinh mạng, điều kiện sống hoặc những của cải do
con ngời tạo ra. Có tác động đã để lại lâu dài, ảnh hởng rất lớn đến đời sống của
một bộ phận dân c.
Những tác động tiêu cực của tự nhiên và xã hội gây ra cho con ngời đợc
gọi là những rủi ro. Những rủi ro này có nhiều loại khác nhau. Tuỳ theo nguyên
nhân gây ra những rủi ro mà có thể chia thành các nhóm cơ bản là:
Rủi ro do thiên nhiên gây ra nh bão lụt, động đất, hoả hoạn, sóng
thần... làm thiệt hại đến sản xuất, tài sản và tính mạng của con ngời.
Những rủi ro loại này thờng xảy ra bất ngờ, con ngời khó biết trớc đợc
đầy đủ và tác hại gây ra lại rất lớn, trên phạm vi rộng và để lại hậu
quả nặng nề.
Rủi ro do chính con ngời gây ra trong quá trình sống và lao động sản
xuất. Những rủi ro này có thể là tai nạn giao thông, tai nạn trong lao
động sản xuất, rủi ro trong vận chuyển, tiêu thụ hàng hoá v.v.. Những
rủi ro này thờng trong phạm vi nhỏ, ảnh hởng trực tiếp tới từng cá
nhân, từng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, trên phạm vi toàn
xã hội, những vụ rủi ro này có tần suất phát sinh rất lớn và tổng thiệt
hại chung cho toàn xã hội cũng không nhỏ.
Loại rủi ro do môi trờng xã hội gây ra. Những rủi ro loại này có thể
nh mất trộm, mất cắp tài sản, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm v.v... Đó
là những rủi ro nảy sinh ở bất kỳ thời gian và không gian nào với


Trang 1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những tần suất và mức độ rất khác nhau. Chúng có ảnh hởng trực tiếp
tới đời sống của mỗi ngời dân, đe doạ sự an toàn trong cuộc sống và
trong sinh hoạt của họ. Xét trên phạm vi toàn xã hội, do xác suất nảy
sinh không đồng đều và qui mô khác nhau, nên những rủi ro này có
tác hại không nhỏ, ảnh hởng chung đến sự an toàn của toàn xã hội.
Ngoài những nhóm đã nêu trên, còn có loại rủi ro đợc gọi là rủi ro xã
hội. Loại rủi ro này có tính khách quan nh hành vi sinh đẻ của phụ nữ,
tuổi già, chết, v.v.., có ảnh hởng đến thu nhập của cá nhân và xã hội đợc
biểu hiện ở hai mặt:
Một là: Nó làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập của cá nhân do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động.
Hai là: Làm tăng chi tiêu đột ngột, ảnh hởng lớn về tài chính gia đình
hoặc của xã hội do phải chi phí để nuôi thai sản, chi phí chăm sóc y tế
..
Những loại rủi ro xã hội này, dù do nguyên nhân nào gây ra cũng đều
dẫn tới sự đe doạ an toàn kinh tế và đời sống của ngời lao động và gia
đình họ. Nó cũng ảnh hởng rất lớn tới các quá trình hoạt động sản xuất
và hoạt động xã hội của toàn xã hội. Trớc các loại rủi ro nêu trên, từng cá
nhân, từng cộng đồng dân c và toàn xã hội đã xuất hiện nhu cầu cần đợc
bảo đảm sự an toàn để tồn tại và phát triển.
Trang 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B/. Phần nội dung.
I/. Lý luận chung
1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa ngời bảo hiểm và ngời tham gia
bảo hiểm, mà trong đó ngời bảo hiểm sẽ trả cho ngời tham gia (hoặc ngời thụ h-
ởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định tr-

ớc xảy ra (ngời đợc bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định),
còn ngời tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, bảo
hiểm nhân thọ là quá trình bảo hiểm bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con ngời.
Đối tợng tham gia bảo hiểm nhân thọ rất rộng, bao gồm mọi ngời ở mọi
lứa tuổi khác nhau. Lịch sử ra đời của bảo hiểm nhân thọ khá sớm.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do
công nhân Luân Đôn là ông William Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông phải
đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, ngời thừa kế của ông
đợc hởng 400 bảng Anh.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Philadephia
(Mỹ). Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhng lúc đầu nó chỉ bán bảo
hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty bảo hiểm nhân
thọ Equitable ở nớc Anh đợc thành lập và bán bảo hiểm nhân thọ cho mọi ngời
dân.
ở Châu á, các công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Nhật Bản.
Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2
công ty khác là:Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm phát triển nhất,
năm 1985 doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ mới chỉ đạt 630,5 tỷ đô la, năm
1989 đã lên tới1.210,2 tỷ và năm 1993 con số này là 1.647 tỷ , chiếm gần 48%
tổng phí bảo hiểm. Hiện nay, có 5 thị trờng bảo hiểm nhân thọ lớn nhất thế giới
Trang 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh và Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1993,
phí bảo hiểm nhân thọ của 5 thị trờng này đợc thể hiện ở bảng sau:
Cơ cấu phí bảo hiểm nhân thọ
của 5 thị trờng lớn nhất thế giới năm 1993
Tên nớc
Tổng doanh thu phí bảo

hiểm (triệu USD)
Cơ cấu phí bảo hiểm (%)
Nhân thọ Phi nhân thọ
1. Mỹ 522,468 41,44 58,56
2. Nhật 320,143 73,86 26,14
3. Đức 107,403 39,38 60,62
4. Anh 102,360 64,57 35,43
5. Pháp 84,303 56,55 43,65
Sở dĩ bảo hiểm nhân thọ phát triển nhanh, doanh thu phí bảo hiểm ngày
càng tăng là vì loại hình bảo hiểm này có vai trò rất lớn. Vai trò của bảo hiểm
nhân thọ không chỉ thể hiện trong từng gia đình và đối với từng cá nhân trong
việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn về tài chính khi gặp rủi ro,
mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội. Trên phạm vi xã hội, bảo hiểm
nhân thọ góp phần thu hút vốn đầu t nớc ngoài, huy động vốn trong nớc từ
những nguồn tiền mặt nhàn rỗi năm trong dân c. Nguồn vốn này không chỉ có
tác dụng đầu t dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và
tạo thêm công ăn việc làm cho ngời lao động.
2. Những đặc điểm cơ bản của bảo hiểm nhân thọ:
2.1. Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm
nhân thọ với bảo hiểm phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi ngời mua bảo hiểm nhân thọ
sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho ngời bảo hiểm, ng-
ợc lại ngời bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm)
cho ngời hởng quyền lợi bảo hiểm nh đã thoả thuận từ trớc khi có các sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Số tiền này giúp những ngời còn sống trang trải những khoản
chi phí cần thiết nh: thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái... Chính vì
vậy, bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro. Nội dung
Trang 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiết kiệm khi mua bảo hiểm nhân thọ khác với các hình thức tiết kiệm khác ở

chỗ, ngời bảo hiểm đảm bảo trả cho ngời tham gia bảo hiểm hay ngời thân của
họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm đợc một khoản tiền nhỏ.
2.2. Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng đợc rất nhiều mục đích khác nhau của ngời
tham gia bảo hiểm.
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng đợc một mục
đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tợng tham gia bảo hiểm gặp sự cố,
từ đó góp phần ổn định tài chính cho ngời tham gia, thì bảo hiểm nhân thọ đã
đáp ứng đợc nhiều mục đích. Mỗi mục đích đợc thể hiện khá rõ trong từng loại
hợp đồng. Chẳng hạn, hợp đồng bảo hiểm hu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của ngời
tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng, từ đó góp phần ổn định cuộc
sống của họ khi già yếu. Hợp đồng bảo hiểm tử vong sẽ giúp ngời đợc bảo hiểm
để lại cho gia đình một số tiền bảo hiểm khi họ bị tử vong. Số tiền này đáp ứng
đợc rất nhiều mục đích của ngời quá cố nh: trang trải nợ nần, giáo dục con cái,
phục dỡng bố mẹ già... Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đôi khi còn có vai trò nh
một vật thế chấp để vay vốn hoặc bảo hiểm nhân thọ tín dụng thờng đợc bán
cho các đối tợng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho một
mục đích cá nhân khác... Chính vì đáp ứng đợc nhiều mục đích khác nhau nên
loại hình bảo hiểm này có thị trờng ngày càng rộng và đợc rất nhiều ngời quan
tâm.
2.3. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp.
Tính đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thể hiện
ở ngay các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều
loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có các hợp
đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp đồng với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác
nhau về số tiền bảo hiểm, phơng thức đóng phí, độ tuổi của ngời tham gia...
Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp.
Trang 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.4. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì
vậy quá trình định phí khá phức tạp.

Quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi nắm vững đặc trng của
từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích đợc chiều hớng phát của
mỗi sản phẩm trên thị trờng nói chung.
2.5. Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế -
xã hội nhất định.
ở các nớc kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời và phát triển
hàng trăm năm nay. Ngợc lại có một số nớc trên thế giới hiện nay vẫn cha triển
khai đợc bảo hiểm nhân thọ, mặc dù ngời ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó.
Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để
bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế xã hội phải phát
triển. Ngoài điều kiện kinh tế xã hội, thì môi trờng pháp lý cũng ảnh hởng
đến sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ. Thông thờng ở các nớc, luật
kinh doanh bảo hiểm, các văn bản, quy định có tính pháp quy phải ra đời trớc
khi ngành bảo hiểm phát triển. Đây là vấn đề mang tính chất sống còn cho hoạt
động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
II. Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
Tháng 8-1996, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đợc Bảo Việt phát
hành, đánh dấu sự ra đời của thị trờng bảo hiểm nhân thọ Việt Nam kể từ ngày
đất nớc hoàn toàn thống nhất. Tháng 8-2001 những hợp đồng đầu tiên đã đáo
hạn, ghi nhận sinh nhật lần thứ 5 của thị trờng. Nhìn một cách tổng quan, thị tr-
ờng bảo hiểm nhân thọ Việt Nam thời gian qua có những đặc điểm sau:
1. Thị trờng sôi động, cạnh tranh ngày càng gay gắt và toàn diện:
Từ năm 1996 đến giữa năm 1999 chỉ có Bảo Việt một mình một chợ,
cho đến nay trên thị trờng đã có 5 doanh nghiệp: Bảo Việt, Bảo Minh-CMG,
Manulife, Prudential và AIA. Từ khi có sự góp mặt thêm của 4 doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài-những tên tuổi lớn, đã có kinh nghiệm hoạt động kinh
Trang 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh ở nớc ngoài kèm theo cơ chế tài chính, thù lao linh hoạt, thị trờng bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam đã thực sự bớc vào giai đoạn mới giai đoạn sôi

động, cạnh tranh toàn diện và phát triển với tốc độ cao. Tình hình cạnh tranh
gay gắt có thể thấy rõ ở các thị trờng lớn nh Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng. Sự canh tranh thể hiện trên tất cả các mặt nh thu hút khách
hàng, thu hút đại lý (qua chính sách thù lao), sản phẩm, dịch vụ, địa bàn hoạt
động, quảng cáo, khuyến mãi... Nêú nh khi mới bắt đầu hoạt động, Prudential,
AIA, Manulife chỉ tập trung triển khai ở hai đại bản doanh là Hà Nội, Tp Hồ
Chí Minh và chủ yếu hớng vào các khách hàng có thu nhập trung bình khá trở
lên, thì đến nay các công ty này đã tích cực mở rộng phạm vi hoạt động sang
các địa bàn khác và hớng tới cả những khách hàng có thu nhập trung bình. Đến
thời điểm này, các doanh nghiệp đều lấy mục tiêu tăng trởng, mở rộng thị trờng
là mục tiêu hàng đầu.
Xét về mặt tích cực, cạnh tranh thực sự trở thành một nhân tố quan trọng
thúc đẩy thị trờng phát triển. Chính nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của các doanh
nghiệp, đã giúp dân chúng nhận thức rõ hơn về bảo hiểm nhân thọ, giúp đa dịch
vụ bảo hiểm nhân thọ đến tận nhà khách hàng. Cũng nhờ cạnh tranh, các doanh
nghiệp đã nâng cao chất lợng dịch vụ khách hàng, chất lợng khai thác, đa dạng
hoá sản phẩm, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện điều khoản, quy trình nghiệp
vụ, bổ sung các dịch vụ gia tăng giá trị (cho vay phi tự động, cho vay theo hợp
đồng, khôi phục hiệu lực hợp đồng...), hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động,
trong đó đáng chú ý là mô hình đại lý, chế độ thù lao cho đại lý theo hớng hiệu
quả hơn, phù hợp hơn với đặc điểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Cạnh tranh
cũng thôi thúc các doanh nghiệp tìm kiếm các biện pháp nâng cao hiệu quả
kinh doanh nh ứng dụng tin học, đa dạng hoá các kênh phân phối. Thời gian
qua các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ rất tích cực ứng dụng công nghệ thông
tin vào hầu hết các công việc nh phát hành và quản lý hợp đồng, in hoá đơn, kế
toán, thống kê, quảng cáo giới thiệu sản phẩm... Tuy vậy, hiện tợng cạnh tranh
không lành mạnh (nh tung tin không chính xác), kinh doanh theo kiểu chộp
Trang 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giật đã xuất hiện, gây tác động xấu đến thị trờng, làm tổn hại đến hình ảnh của

ngành.
Thị phần bảo hiểm nhân thọ qua các năm
(theo doanh thu phí)
Năm Bảo Việt BM-CMG Prudential Manulife AIA
2000 71,5% 0,7% 19,4% 7,6% 0,8%
2001 54,3% 1,4% 29,9% 10,8% 3,6%
Dẫn đầu trên thị trờng hiện nay là Bảo Việt doanh nghiệp nhà nớc và
là doanh nghiệp duy nhất không có vốn đầu t nớc ngoài với thị phần trên 54%,
tốc độ tăng trởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong năm 2001 và cũng là
doanh nghiệp duy nhất có mạng lới phủ khắp các tỉnh thành. Các doanh nghiệp
khác cũng đạt đợc kết quả rất tốt, đặc biệt là Prudential đã đạt đợc kết quả khá
ngoạn mục chỉ trong vòng hơn 2 năm Prudential đã vơn lên vị trí thứ 2 với
gần 30% thị phần, trở thành một đối tợng lớn đối với Bảo Việt trên thị trờng.
AIA, Manulife, BaoMinh-CMG trong năm 2001 cũng gia tăng thị phần, tuy
nhiên tính đến thời điểm này còn chiếm thị phần khá nhỏ. Với đặc điểm khách
hàng chủ yếu là các cá nhân, số lợng các doanh nghiệp ngày càng gia tăng, có
thể nhận định rằng trong thời gian tới, thị trờng bảo hiểm nhân thọ Việt Nam sẽ
thêm sôi động, cạnh tranh thêm sâu sắc trên tất cả các mặt theo hớng có lợi cho
khách hàng, đồng thời cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ.
Sự hoạt động mạnh mẽ của thị trờng bảo hiểm nhân thọ thời gian qua tạo
ra sự cạnh tranh liên ngành, trong đó rõ ràng nhất là cạnh tranh giữa hệ thống
ngân hàng, bu điện với ngành bảo hiểm nhân thọ trong việc thu hút tiền vốn
nhàn rỗi từ công chúng. Gần đây, ngành ngân hàng (điển hình nh ngân hàng
đầu t và phát triển, Ngân hàng Sài Gòn Thơng Tín...) đã đa ra những công cụ
cạnh tranh trực tiếp với bảo hiểm nhân thọ nh tiết kiệm trả góp (cho phép gửi
tiền tiết kiệm định kỳ với những khoản tiền nhỏ), tiết kiệm dài hạn (thời hạn tối
đa có thể tới 15 năm).
Mặc dù là lĩnh vực kinh doanh chậm có lãi (đến thời điểm này tất cả các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đều cha có lãi) nhng bảo hiểm nhân
Trang 8

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thọ là lĩnh vực kinh doanh mầu mỡ và bền vững, hấp dẫn các nhà đầu t nhất là
các nhà đầu t nớc ngoài. Có thể nhận định rằng cùng với chính sách hội nhập
của Việt Nam cũng nh việc thực hiện Hiệp định thơng mại Việt-Mỹ, chắc chắn
sẽ xuất hiện nhiều gơng mặt mới trên thị trờng bảo hiểm nhân thọ Việt Nam,
làm cho thị trờng thêm sôi động. Việc tăng vốn của các doanh nghiệp đang hoạt
động trên thị trờng nh Prudential cũng khẳng định điều này.
2. Thành công lớn, trởng thành nhanh chóng.
Mặc dù mới có tuổi đời hơn 5 năm nhng thị trờng bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam đã đạt đợc những kết quả rất đáng tự hào trên nhiều mặt. Cụ thể:
Đạt tốc độ tăng trởng cao về doanh thu phí và hợp đồng: Nếu nh năm
1996 Bảo Việt mới chỉ triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ tại một
số tỉnh thành và đạt đợc kết quả khá khiêm tốn với trên 1200 hợp
đồng và doanh thu phí cha đến 1 tỷ đồng thì đến năm 2000 doanh thu
phí bảo hiểm nhân thọ toàn thị trờng đã đạt gần 1300 tỷ đồng và gần 1
triệu hợp đồng có hiệu lực. Đặc biệt, năm 2001 là năm đáng ghi nhớ
của thị trờng bảo hiểm nhân thọ Việt Nam với doanh thu phí 2786 tỷ
đồng (tơng đơng với 0,55% GDP), vợt khá xa so với tổng doanh thu
phí bảo hiểm phi nhân thọ của toàn thị trờng, số hợp đồng có hiệu lực
đến cuối năm 2001 đạt 1,6 triệu (tơng đơng với 2% dân số).
Trang 9

×