Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.62 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM TRẦN KIM HIỀN

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NHẬP CƯ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2021

download by :


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM TRẦN KIM HIỀN

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NHẬP CƯ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN CẢNH HỢP



HÀ NỘI, 2021

download by :


download by :


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước và
xã hội quan tâm. Ngay từ những năm cuối của thập kỷ 90, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 734-TTg ngày 06/9/1997 thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống
TGPL của Nhà nước [30]. Đặc biệt, ngày 29/6/2006, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa
XI đã thông qua Luật TGPL số 69/2006/QH11 [19]. Đây là văn bản quy phạm pháp
luật quan trọng, tạo dấu mốc cho việc phát triển tồn diện, bền vững cơng tác TGPL tại
Việt Nam. Kể từ đó đến nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về TGPL ngày
càng hoàn thiện; mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL và đội ngũ người thực hiện TGPL
ngày càng được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng.
Hơn một thập kỷ trôi qua, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, yêu cầu
triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều đạo luật quan trọng mới được Quốc
hội ban hành, nhiều chính sách cải cách được thơng qua, trong đó có việc tăng
cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp theo định hướng của Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế, hoạt động TGPL đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu,
sửa đổi [6]. Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thơng qua Luật TGPL số
11/2017/QH14 với tỉ lệ 100% đại biểu Quốc Hội có mặt tán thành, tạo cơ sở pháp lý
cho việc phát triển bền vững công tác TGPL theo một tầm cao mới, vừa phù hợp

với thực tiễn yêu cầu phát triển của đất nước, vừa hội nhập với xu hướng phát triển
của khu vực và quốc tế. Có thể thấy rằng, về cơ bản, hệ thống các văn bản pháp luật
điều chỉnh về TGPL của Việt Nam đã nội luật hóa các cam kết có liên quan trong
các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như: Công ước quốc tế về kinh tế,
xã hội và văn hóa (CESCR); Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị
(CCPR); Cơng ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW); Công ước quốc tế về loại bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc
(CERD); Cơng ước về quyền trẻ em (CRC); Công ước về quyền của phụ nữ nhập
cư (CRPD) [39]...
1

download by :


Phụ nữ chiếm trên 1/2 dân số song lại thường là đối tượng yếu thế, ít được
tiếp cận với pháp luật, là nạn nhân của các nạn bạo lực gia đình, bn bán phụ nữ,
nghèo đói và phụ thuộc đặc biệt là phụ nữ nhập cư. Mặc dù pháp luật Việt Nam
chưa quy định phụ nữ nói chung là người được TGPL miễn phí (trừ phụ nữ nghèo,
phụ nữ thuộc diện người được TGPL), nhưng trong khuôn khổ một số dự án quốc
tế, ngoài việc thực hiện TGPL cho người được TGPL theo quy định của pháp luật,
các tổ chức thực hiện TGPL đã thực hiện TGPL cho phụ nữ là nạn nhân của bạo lực
gia đình và nạn nhân của tội phạm bn bán phụ nữ, trẻ em.
Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh là quận đơ thị hóa được thành lập
theo Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ có
vị trí quan trọng trong cửa ngõ phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh. Xác định
được tầm quan trọng của cơng tác TGPL đối với nhóm phụ nữ nhập cư nói chung
và đối với phụ nữ nhập cư trên địa bàn quận nói riêng. Trong giai đoạn vừa qua,
cơng tác này đã đạt được những kết quả như nghiên cứu, xây dựng các chuyên đề về
TGPL cho phụ nữ như: Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ; Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về phịng chống bn bán

phụ nữ và trẻ em; kỹ năng TGPL cho phụ nữ bằng các hình thức tư vấn pháp luật,
tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
phụ nữ. Tổ chức các lớp tập huấn cập nhật kiến thức pháp luật và kỹ năng TGPL
cho phụ nữ cho đội ngũ người thực hiện TGPL và tổ chức nói chuyện pháp luật
chuyên đề về những lĩnh vực pháp luật mà chị em phụ nữ quan tâm. Thông qua các
lớp học này, chị em phụ nữ không chỉ được trang bị các kiến thức pháp luật, hiểu
thêm về quyền và nghĩa vụ của công dân mà cịn có thể chia xẻ, giải quyết những
vướng mắc pháp luật [35]...
Bên cạnh những kết quả đạt được và những thuận lợi, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nói chung trên địa bàn quận
cịn một số khó khăn như: cơng tác phối hợp để tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động
giữa Trung tâm TGPL nhà nước và Hội Liên hiệp Phụ nữ chưa được thường xuyên
và còn một số địa phương chưa thật sự quan tâm phối hợp, nên việc tổ chức TGPL
lưu động cịn gặp nhiều khó khăn (một số buổi TGPL lưu động không được tổ chức
2

download by :


như đã dự kiến, số người tham dự ít hoặc khơng có vướng mắc pháp luật đặt ra đối
với đồn TGPL lưu động). Nhìn chung hồn cảnh kinh tế của đa số phụ nữ nhập cư
cịn khó khăn, nên chỉ tập trung làm kinh tế gia đình, chưa có thời gian quan tâm
tìm hiểu pháp luật, chỉ khi nào có vướng mắc thì mới liên hệ đến cơ quan có thẩm
quyền, Trung tâm hoặc Chi nhánh để yêu cầu được TGPL; khơng có kinh phí để tổ
chức tập huấn các kỹ năng thực hiện TGPL cho phụ nữ; chưa có nhiều mơ hình trợ
giúp pháp lý mới để thu hút đông đảo phụ nữ tham gia mà chỉ tập trung vào việc tư
vấn pháp luật tại trụ sở và trợ giúp pháp lý lưu động... Xuất phát từ những lý do
trên, tôi quyết định chọn đề tài “Trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư từ thực
tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh”, làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, TGPL là một trong số các chủ đề ngày càng nhận
được nhiều sự quan tâm. Do đó, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Tác giả Lữ Thùy Liên (2017), Nhận thức và tiếp cận kênh TGPL của cư dân
tái định cư thành phố Đà Nẵng, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế. TGPL đối với người
nghèo tái định cư là việc làm cần thiết. Bài viết sử dụng một số dữ liệu liên quan đến
việc nhận thức và việc tiếp cận TGPL của người nghèo trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng để chỉ ra việc nhận thức và tiếp cận của hai đối tượng này với vấn đề đặt ra là
khá hạn chế, thể hiện ở việc rất ít người biết đến các kênh TGPL cũng như tiếp cận,
sử dụng dịch vụ của chúng, từ đó đề cập đến một số nguyên nhân để những cá
nhân/tổ chức liên quan có sự thấu hiểu và điều chỉnh nếu nhận thấy cần thiết [13].
Tác giả Lê Thị Thu Hà (2018), Xã hội hóa hoạt động TGPL, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu những vấn đề lý luận
và pháp luật về xã hội hóa hoạt động TGPL. Phân tích, đánh giá nhằm làm rõ thực
trạng xã hội hóa hoạt động TGPL ở Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, phân
tích kỹ các vấn đề cịn hạn chế, khó khăn, bất cập và nguyên nhân về xã hội hóa
hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay [9].
Tác giả Nguyễn Văn Hà (2017), Hoàn thiện pháp luật về TGPL ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phân
3

download by :


tích làm rõ cơ sở lý luận cơ bản về TGPL và pháp luật về TGPL; xác định và phân
tích sự cần thiết, mục đích, u cầu của việc hồn thiện pháp luật TGPL ở Việt Nam
hiện nay. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL ở Việt Nam
hiện nay để thấy được những ưu điểm, hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp
luật về TGPL ở Việt Nam hiện nay, từ đó đánh giá chung về hiệu quả của pháp luật
về TGPL. Trên cơ sở phân tích từ thực trạng, thực tiễn thực hiện pháp luật về

TGPL, luận văn đã nêu ra các quan điểm và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về TGPL ở Việt Nam hiện nay [10].
Tác giả Hoàng Thị Hồng Nhạn (2019), Quản lý hoạt động TGPL ở thành
phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Quản lý xã hội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận quản lý hoạt động TGPL và thực trạng
quản lý hoạt động TGPL ở Thành phố Hà Nội, từ đó nêu lên những vấn đề còn hạn
chế và đề xuất mục tiêu, yêu cầu, giải pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động
TGPL trong thời gian tới [18].
Tác giả Đặng Lâm Bích (2015), TGPL cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã
đề cập một cách khá toàn diện về cơ sở lý luận về TGPL, TGPL cho người nghèo, mô
tả thực trạng hoạt động TGPL cho người nghèo ở Bắc Giang đồng thời đánh giá một
cách có hệ thống về hoạt động này. Trên cơ sở đó đề xuất và luận giải về một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trong việc TGPL cho người nghèo trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang. Với những kết quả mà luận văn đạt được, tác giả hy vọng sẽ góp một
phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt TGPL nói chung và TGPL
cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng [1].
Vũ Hồng Tuyến (2004), “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở
Việt Nam”; Nguyễn Huỳnh Huyện (2006), “Thực hiện pháp luật về TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam”; Nguyễn Văn Tùng (2007),
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay”;
Tạ Thị Minh Lý (2008), “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều
kiện đổi mới”; Trần Quốc Huy (2008), “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người
nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Thanh Hóa”; Nguyễn Thị Thanh Thủy
4

download by :


(2008), “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở

tỉnh Quảng Ninh”; Nguyễn Thị Hồng Kiên (2012), “Hoàn thiện pháp luật về TGPL
cho người nghèo và đói tượng chính sách ở Việt Nam hiện nay”; Kim Hồng Thanh
(2013), “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đói tượng chính sách
trong tố tụng dân sự ở Vĩnh Phúc”...
Bên cạnh đó,“Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương”
Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa Luật, Đại học
Quốc Gia Hà Nội; “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của
Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân hợp tác cùng Trung tâm
nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội;
Luận án tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi
mới” của Tạ Thị Minh Lý; Luận án tiến sĩ luật học “Quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Tùng; Đề tài
cấp Bộ “Mơ hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều
kiện hiện nay”; “Legal aid and human rights” của Don Fleming; “Guide on Article
6 – Rights to fair trial (Criminal climb)” của European Court of Human Rights,
Council of Europe…
Những cơng trình trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá lớn về
hoạt động TGPL. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào phân tích một cách toàn diện
về hoạt động TGPL đối với phụ nữ nhập cư. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “TGPL
đối với phụ nữ nhập cư từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” là rất
cần thiết. Luận văn có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn, góp phần làm rõ mối quan
hệ giữa hoạt động TGPL cũng như đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực
trạng pháp luật và thực tiễn TGPL đối với phụ nữ nhập cư, đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả TGPL đối với phụ nữ nhập cư từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh.
5


download by :


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, tơi đặt ra mục tiêu cho nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về TGPL đối với phụ
nữ nhập cư;
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn TGPL đối với phụ nữ nhập cư từ
thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả TGPL đối với phụ nữ nhập
cư từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy định pháp luật và thực tiễn về TGPL đối với phụ nữ nhập cư.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật và với khả năng cho
phép, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện việc
TGPL đối với phụ nữ nhập cư theo hướng bảo đảm quyền con người.
Về không gian: Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề về Nhà nước và pháp luật
về TGPL đối với nhóm yếu thế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: như dùng các phương pháp phân tích những tài liệu sẵn có như
các văn bản pháp quy, báo cáo thống kê, sách chuyên khảo, luận án, luận văn, bài

viết khoa học...; phương pháp thu thập và xử lý thông tin đã thu thập được (Chủ yếu
được sử dụng trong Chương 2); phương pháp thống kê, phân tích và xử lý số liệu;
phương pháp so sánh, đánh giá; phương pháp quan sát... để nghiên cứu tổng thể các
nội dung trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
6

download by :


Kết quả nghiên cứu của luận văn đã khái quát, phân tích, làm sáng tỏ được
các vấn đề cơ bản liên quan đến pháp luật về TGPL đối với việc bảo đảm tiếp cận
và thúc đẩy quyền con người của nhóm phụ nữ nhập cư với đối tượng nghiên cứu
điển hình là phụ nữ nhập cư. Làm rõ thực trạng pháp lý và thực tiễn TGPL đối với
việc bảo đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền con người của phụ nữ nhập cư.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo ở các cơ sở đào tạo về luật, công tác xã hội ở Việt
Nam trong lĩnh vực pháp luật về TGPL. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng là tài
liệu cho các cơ quan có thẩm quyền của quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
tham khảo, gợi ý những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả trợ giúp pháp ý đối
với phụ nữ nhập cư trên địa bàn quận.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về TGPL đối với phụ nữ nhập cư;
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện TGPL đối với phụ
nữ nhập cư trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh;
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả TGPL đối với phụ

nữ nhập cư trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

7

download by :


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NHẬP CƯ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư
* Nhập cư
Về nhập cư và người nhập cư, cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2004, nhập cư là hành động di chuyển chỗ ở
đến, vào một vùng hay một quốc gia mới. Người nhập cư là người di chuyển từ một
vùng đến một vùng khác để định cư hoặc tạm trú [38]. Theo quan niệm của tác giả
Gary L. Peters, nhập cư là hiện tượng dân số tăng cơ học nhờ dân di chuyển đến khu
vực mới, một đơn vị hành chính mới; dân cư mới đến được gọi là dân nhập cư [39].
Trong khi đó, theo một nghiên cứu của tác giả Lê Văn Thành (2005), được
thực hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có lượng nhập cư cao nhất cả nước thì,
dân nhập cư ở Thành phố Hồ Chí Minh được xác định là những người từ các tỉnh
khác về sinh sống, làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh và chưa có hộ khẩu thường
trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. Còn những người từ các tỉnh về Thành phố Hồ Chí
Minh nhưng đã được giải quyết hộ khẩu thường trú vì đủ tiêu chuẩn quy định khơng
nằm trong phạm vi này. Như vậy, ở đây lại căn cứ vào việc nhập hộ khẩu để tính là
người nhập cư hay khơng phải là người nhập cư [29].
Liên Hiệp Quốc thì quan niệm: “Người nhập cư dài hạn là những người ở lại
nước tiếp nhận trong thời gian hơn một năm, mặc dù họ khơng liên tục sinh sống tại
nước đó trong vòng hơn một năm” [26]. Mặc dù vẫn còn những ý kiến khác nhau

nhưng có thể thấy một số điểm chung trong nội hàm khái niệm này, đó là: (i) Sự di
chuyển của một người hay một nhóm người đến một đơn vị hành chính mới với
mục đích thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc với mục đích khác; (ii) Sự chuyển đến
này có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc; (iii) Việc cư trú tại nơi tiếp nhận có thể dưới
hình thức thường trú hoặc tạm trú.Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về người nhập cư có thể áp dụng một cách phổ biến trong phạm vi quốc

8

download by :


gia cũng như trên toàn cầu. Nội dung của khái niệm này thường được các quốc gia,
các nhà nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với các mục đích nghiên cứu của mình.
Từ những phân tích trên cho thấy, nhập cư là hành động di chuyển chỗ ở đến
một địa phương khác của một người hoặc một nhóm người để sinh sống lâu dài
hoặc tạm thời. Người nhập cư là người từ một địa phương, một nước hay vùng lãnh
thổ này di chuyển đến một địa phương, một nước hay vùng lãnh thổ khác để sinh
sống, làm việc. Nội hàm của khái niệm này có đề cập đến mối quan hệ giữa người
nhập cư và nơi nhập cư.
Phân loại người nhập cư
Có nhiều cách phân loại người nhập cư theo các góc độ khác nhau, tùy vào
mục đích nghiên cứu. Do vậy việc phân loại người nhập cư chỉ có tính chất tương
đối và khơng tách bạch với nhau.
- Theo độ dài thời gian cư trú
Người nhập cư lâu dài: Là những người chuyển đến sinh sống vĩnh viễn hoặc
lâu dài tại nơi mới (thường là trên 12 tháng). Những người này thường không quay
trở về sống tại nơi gốc, họ chỉ quay về để thăm viếng những khơng có ý định quay
trở lại sống ở nơi gốc.
Người nhập cư tạm thời: Là những người chuyển đến sinh sống và làm việc

tại nơi mới trong thời gian ngắn và có khả năng quay trở về.
Người nhập cư mùa vụ: Là một hình thức đặc biệt của người nhập cư tạm
thời, loại hình này bao gồm những người lao động nhập cư vào nơi mới để làm việc
thời vụ hoặc tìm việc làm vào những lúc nông nhàn, kể cả những người đicông tác,
khám chữa bệnh, du lịch, học tập..., họ khơng có ý định ở lại lâu dài tại địa bàn
nhập cư.
- Theo tính chất tổ chức, quản lý người nhập cư
Người nhập cư có tổ chức: Là những người nhập cư được luật pháp của nước
gốc và nước nhập cư cho phép, được chính quyền địa phương nơi nhập cư đón
nhận. Theo đó, người nhập cư được nhận sự giúp đỡ từ Nhà nước và địa phương nơi
nhập cư.

9

download by :


Người nhập cư tự do: Là những người nhập cư đến nơi mới do bản thân hoặc
gia đình họ quyết định, khơng nằm trong chương trình di cư của Nhà nước, không
được hưởng sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Theo địa bàn nhập cư
Người nhập cư trong nước: Là những người di chuyển đến địa phương khác
sinh sống, làm việc, học tập trong cùng lãnh thổ một quốc gia.
Người nhập cư quốc tế: Là những người từ quốc gia này nhập cư vào quốc
gia khác để sinh sống, làm việc, học tập hoặc vì các mục đích khác.
Trên cơ sở cách hiểu về nhập cư, người nhập cư và phân loại người nhập cư
đồng thời căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của luận án, tôi xác định người nhập cư
trong nghiên cứu của mình là những người lao động từ các tỉnh, thành khác di
chuyển tự do đến thành phố Đà Nẵng sinh sống, làm việc lâu dài hoặc tạm thời gồm
có đăng kí hay khơng đăng kí hộ khẩu thường trú và người nhập cư mùa vụ với mục

đích tìm việc làm trong thời kỳ nơng nhàn hoặc làm những cơng việc có tính thời vụ
tại thành phố.
Đặc điểm của người nhập cư
Các nghiên cứu về di cư cho thấy, khơng phải ai cũng chấp nhận và có khả
năng di chuyển khỏi “nơi chôn nhau cắt rốn” của mình; những người chấp nhận di
chuyển, có khả năng di chuyển và đã di chuyển đến nơi mới thường có một số đặc
điểm cơ bản:
(1) Đặc điểm về nhân khẩu học.
Đặc điểm nhân khẩu học phản ánh những đặc trưng về mặt dân số của người
nhập cư như độ tuổi, giới tính, tình trạng hơn nhân. Chúng là những yếutố quan
trọng ảnh hưởng tới quyết định của người nhập cư như di chuyển hay không, di
chuyển đến đâu… Các nghiên cứu về di dân đều có chung một nhận xét đó là người
nhập cư vào đơ thị thường là những người trong độ tuổi lao động và ngày càng có
xu hướng trẻ hóa. Tuổi của người nhập cư năm 2015 phần lớn tập trung ở nhóm trẻ
(15-39) chiếm tỷ trọng 84% so với tổng số người nhập cư. Điều này có nghĩa là xu
hướng chung trong di dân từ nơng thôn ra thành thị là nam giới di chuyển nhiều hơn
nữ giới, người trẻ tuổi di chuyển nhiều hơn người lớn tuổi [13].
10

download by :


Theo Báo cáo Thực trạng việc làm, đời sống của lao động nhập cư từnông
thôn ra thành thị và khu công nghiệp của Cục Việc làm thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, xu hướng nữ hóa nhập cư hiệnnay khá phổ biến, tỷ lệ lao
động nữ nhập cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp chiếm 55%. Điều
này đặt ra thách thức cho việc giải quyết các vấn đề bình đẳng giới, chăm sóc sức
khỏe sinh sản (SKSS), chống bn bán phụ nữvà các nguy cơ thường gặp khác đối
với họ. Như vậy, giới tính của người nhập cư tùy thuộc vào khoảng cách di chuyển,
mục đích di chuyển, nhu cầu lao động của nơi đến và thường thì tỉ lệnam/nữ trong
dân nhập cư có sự chênh lệch.Tình trạng hơn nhân cũng có mối quan hệ với tính

chọn lọc của nhập cư. Một mặt, mọi người sau khi kết hơn thường gắn bó với gia
đình và con cái, dođó khơng thực sự sẵn sàng để di chuyển đến nơi mới. Mặt khác,
nhu cầu hỗ trợkinh tế cho gia đình lại là động cơ của việc di chuyển [3].
(2) Đặc điểm về văn hóa - xã hội.
Phần lớn người nhập cư đều có quê qn từ nơng thơn, có những tính cách
như chịu khó; tiết kiệm; tính cộng đồng, làng xã; thường lựa chọn khơng gian sống
n tĩnh, khơng thích sự ồn ào… những phẩm chất này rất cần thiết cho quátrình
phát triển nhưng cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng lao
động như thiếu kỹ năng làm việc tổ chức, tác phong công nghiệp, tự do, thiếukỷ
luật… ảnh hưởng đến việc xây dựng lối sống văn hóa văn minh đô thị. Khi vào sinh
sống ở đô thị được một thời gian, người nhập cư tự do đã phần nào làm quen với lối
sống (theo nghĩa hẹp) ở đô thị, họ có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào
trình độ học vấn, độ tuổi [30].Tuy nhiên, vấn đề hòa nhập, mức độ thích nghi với
các loại hình văn hóa kiểu đô thị ở những người nhập cư là rất chậm, rất ít. Bộ phận
người nhập cư lâu dài vào đơ thị thường có xu hướng thay đổi nhu cầu về mặt
không gian sống, một bộ phận người nhập cư chuyển từ lối sống nặng về tình cảm
xóm giềng sang cuộc sống khép kín hơn giữa các thành phần dân cư khác nhau tại
các đơ thị. Nhìn chung, có thể nói rằng trong q trình hội nhập, một bộ phận người
nhập cư (đặc biệt là giới trẻ, có trình độ học vấn cao hơn) có thể chấp nhận được lối
sống đô thị đồng nghĩa là họ đã phần nào loại bỏ một số giá trị, chuẩn mực truyền
thống để đón nhận chuẩn mực, giá trị mới. Điều này ở khía cạnh nào đó cũng mang
11

download by :


các giá trị tích cực, bên cạnh những lợi ích kinh tế, khi người nhập cưquay trở về
quê họ đã góp phần làm thay đổi ý thức, lối sống của người dân nôngthôn, thiết lập
các thang bậc giá trị mới.
(3) Đặc điểm về học vấn, chun mơn.

Trình độ học vấn, chuyên môn tùy thuộc vào nơi xuất cư, nhu cầu lao động
nơi nhập cư và vào khoảng cách di chuyển. Trong đó đáng chú ý là lực lượng dân
nhập cư có trình độ chun mơn, trình độ tay nghề cao thường nhậpư nhiều hơn.
Tức là ở đây có sự tương quan thuận giữa học vấn và nhập cư.Nếu mọi điều kiện
khác đều như nhau thì những người học vấn cao thường hay ra đi hơn so với những
người học vấn thấp hơn bởi vì họ khơng thỏa mãn với cơng việc đang làm, họ muốn
tìm cơng việc thích hợp hơn và có thu nhập cao hơn. Theo đó, người nhập cư dài
hạn thường có học vấn cao hơn so với người nhập cư tạm thời.
Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu cho thấy, ngày nay, những người nhập cư
thường là những người có trình độ học vấn thấp và có sự khác nhau giữanam và nữ.
Báo cáo “Thực trạng việc làm, đời sống của lao động nhập cư từ nông thôn ra
thành thị và khu công nghiệp” của Dự án Tình hình di chuyển lao động từ nơng thơn ra
thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) đã chỉ ra thực tế là 66,1% lao động nhập cư khơng có chun
mơn kỹ thuật. Tỷ lệ tốt nghiệp đại học là 6,5%. Điều này tiềm ẩn những rủi ro cho
người lao động nhập cư khi công việc của họ thường mang tính chất độc hại, nguy
hiểm và thiếu ổn định. Số liệu thu thập được từ nghiên cứu này cho thấy 9,7% lao động
di cư có trình độ tiểu học; hơn nửa (53,2%) đã học hết trung học cơ sở; 24,5% đạt trình
độ trung học phổ thơng; trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 12,7% [11].
(4) Đặc điểm về việc làm, thu nhập, điều kiện sống
Những người nhập cư tạm thời và mùa vụ thường là những người khơng có
việc làm, hoặc có việc làm nhưng khơng ổn định. Việc làm chủ yếu của họ trước khi
nhập cư là làm nơng, ở nhà nội trợ… vì phần lớn họ có trình độ học vấn thấp, trình
độ tay nghề thấp do đó khi nhập cư ra thành phố thì họ làm rất nhiều nghề hoặc việc
làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao động phổ thơng và giản đơn (làm thuê
trong các công trường xây dựng, các cơ sở sản xuất/tái chế nhựa, may mặc, da giày,
12

download by :



bảo vệ,…), bán hàng rong, giúp việc gia đình… Vì khơng có hộ khẩu thường trú,
thiếu vốn và trình độ chun mơn cho nên mặc dù có sức khỏe và ở độ tuổi sung
mãn nhất nhưng người nhập cư vẫn khó có cơ hội xin được việc làm trong khu vực
kinh tế chính thức. Phần lớn họ làm việc trong các cơ sở kinh tế thuộc khu vực phi
chính thức, thu nhập thấp và khơng ổn định, có thể bị mất việc bất cứ lúc nào.
Thu nhập thấp, lao động nặng nhọc và khơng ổn định, mặt khác có thể bị mất
việc làm bất cứ lúc nào, là hiện tượng khá phổ biến, theo số liệu điều tra của Viện
Chính sách và Chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thơn tại 4 tỉnh Nam Định,
Lạng Sơn, Bình Thuận, An Giang trong năm 2019 cho thấy, có 21,7% lao động
nhập cư đã bị mất việc làm phải trở về quê [37]. Đặc điểm này tạo ra sức ép về giải
quyết việc làm, đảm bảo thu nhập cho người nhập cư đối với chính quyền đơ thị. Về
điều kiện sống, phần lớn lao động nhập cư cho biết được hưởng lợi từ di cư, hài
lịng với cơng việc và thu nhập ở nơi nhập cư đến. Tuy nhiên, tình trạng ít có điều
kiện để cải thiện thêm trong cơng việc và thu nhập nên đa số phải sống trong những
khu nhà trọ rẻ tiền, với điều kiện ở tạm bợ và tồi tệ (thiếu điện, thiếu nước sạch,
điều kiện vệ sinh kém…) nhằm tiết kiệm chi tiêu để có tiền giúp đỡ gia đình khiến
cho lao động nhập cư cũng đối mặt với một loạt khó khăn, thách thức, trong đó,
“nóng” nhất vẫn là vấn đề chỗ ở. Về vấn đề tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế, có
thể nói rằng trong điều kiện cơ chế thị trường thì người nào có tiền cũng có thể tiếp
cận các dịch vụ đô thị. Tuy nhiên, đối với người nhập cư, họ đã chịu một chi phí
cao hơn cao hơn so với dân địa phương cho các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục,
y tế, điện nước,… do họ khơng có hộ khẩu thường trú. Nhìn chung, thu nhập và các
điều kiện sống của người nhập cư vẫn cịn nhiều điều Nhà nước và chính quyền đơ
thị cần lưu tâm nhằm hướng đến một xã hội phát triển thật sự vì con người.
* Trợ giúp pháp lý
Tại nước Anh, cái nôi của TGPL quan niệm: “TGPL là sự trợ giúp trong việc
sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một người có thể sử dụng, gồm cả các biện pháp
đối với thủ tục tố tụng liên quan đến áp dụng pháp luật” [40]. Pháp luật Singapore
lại quy định: “TGPL là việc đại diện cho khách hàng của Tòa án nhằm giúp đỡ

những người khơng có khả năng chi trả các dịch vụ TGPL” [40].
13

download by :


Dự thảo Luật mẫu về TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự do Cơ quan
phịng chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) chủ trì soạn thảo
quy định: “TGPL là việc thực hiện tư vấn pháp luật, hỗ trợ và đại diện pháp lý do
nhà nước trả tiền theo những điều kiện và trình tự, thủ tục quy định trong luật này
cho người bị tạm giữ, bị bắt hoặc bị kết án tù; người bị tình nghi, người bị buộc tội
hoặc vi phạm luật hình sự; nạn nhân và nhân chứng trong quá trình tư pháp hình
sự...” [11].
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, ở Việt Nam, dưới góc độ khoa học, thuật ngữ
“TGPL” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp lý”: "trợ giúp” được hiểu là “sự
giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khókhăn,
đang cần đến”. Thuật ngữ "pháp lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói
một cách khái quát: pháp lý là lý luận, luận điểm cơ bản đối với pháp luật của một
chế độ [38].
Như vậy, TGPL là việc nhà nước giúp đỡ, hỗ trợ về mặt pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách nhằm mục đích giúp họ có kiến thức pháp luật để tự
mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ được pháp luật quy định và bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp cho họ.
Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ TGPL được chính thức sử dụng trong Quyết
định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ
chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách (Quyết định số 734/QĐ-TTg)
và sau này là Luật TGPL ngày 29/6/2006 (Luật TGPL năm 2006). Luật TGPL năm
2006 đã đưa ra quy định về TGPL như sau: TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý
miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được
TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý

thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật [19].
Luật TGPL được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng
6 năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 (Luật TGPL năm 2017) quy định ngắn
gọn hơn về khái niệm TGPL: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
14

download by :


người được TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định của Luật này, góp phần bảo
đảm quyền con người, quyền cơng dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước
pháp luật” [25].
Với những lý giải và cách tiếp cận như trên, TGPL mang những thuộctính cơ
bản sau:
Một là, khả năng được thụ hưởng một dịch vụ pháp lý từ người khác mà
khơng phải mất chi phí của dịch vụ mà mình được thụ hưởng.
Hai là, các chủ thể thực hiện việc cung ứng các dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người thuộc diện được TGPL nhằm mục đích giúp họ có kiến thức pháp luật để tự
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định, nhưng cũng có thể
là cách thức sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Ba là, TGPL nhằm giúp đỡ về mặt pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách. Bởi những đối tượng trên được xếp trong dạng là những đối tượng bị
thiệt thòi trong xã hội, cần nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, nhất là giúp đỡ
trong việc tiếp cận và sử dụng pháp luật.
Bốn là, TGPL thể hiện trách nhiệm của nhà nước cũng như xã hội đối với
các thành viên của cộng đồng.
Năm là, TGPL mang bản chất nhân đạo xã hội sâu sắc. Thuộc tính này của
TGPL thể hiện ở việc giúp đỡ người nghèo và đối tượng chính sách thơng qua hoạt

động tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng; đồng thời, còn cho
phép các tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL giúp đỡ người nghèo và
đối tượng chính sách để hồ giải, thực hiện những cơng việc liên quan đến thủ tục
hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Từ những cách tiếp cận khoa học và pháp lý trên đây, khái niệm TGPL được
hiểu như sau: TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được
TGPL dưới các hình thức: tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; đại diện ngoài tố
tụng và các hình thức TGPL khác do trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên TGPL, tư
vấn viên pháp luật thực hiện nhằm giúp người được TGPL bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tơn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ cơng lý, cơng
bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
15

download by :


* TGPL đối với phụ nữ nhập cư
Về mặt Pháp luật ở Việt Nam theo Luật TGPL năm 2017 chưa có một điều,
khoản riêng quy định dành cho Phụ nữ nhập cư. Tuy nhiên, phụ nữ nhận cư sẽ là
chủ thể được Nhà nước TGPL miễn phí khi (chỉ có quy định chung chung không
phân biệt nam-nữ: người thuộc hộ nghèo, người nhiễm bệnh HIV, người bị bạo lực
gia đình và là nạn nhân của hành vi buôn bán người nhưng phải đáp ứng điều kiện
cần là khó khăn về mặt tài chính). Việc TGPL đến với phụ nữ nhập cư Việt Nam là
hành động thiết thựcvà cần thiết, người phụ nữ nhập cư sẽ có cơ hội được tiếp xúc
với các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng nhiều
hơn. Nâng cao trình độ văn hóa về sự hiểu biết pháp luật, đáp ứng nhu cầu mà Đảng
và Nhà nước đang phấn đấu xây dựng xã hội phát triển, văn minh.
Căn cứ vào các quan điểm trên, trong phạm vi luận vănTGPL đối với phụ nữ
nhập cư được hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người có công với

cách mạng; người thuộc diện hộ nghèo; Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn... là phụ nữ nhập cư trong vụ việc TGPL
theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân
trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật đối với phụ nữ nhập cư.
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư
1.1.2.1. Trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư vừa mang tính nhà nước, vừa
mang tính xã hội
Đặc điểm này được thể hiện rõ trong việc, Nhà nước đã có những quy định
về hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung và đối với phụ nữ nhập cư nói riêng. Ngồi
ra, những đặc điểm nhân khẩu học của phụ nữ nhập cư đã tạo ra một nhóm người,
nếu nhóm người này thuộc các trường hợp như nghèo, khuyết tật... sẽ được trợ giúp
pháp lý miễn phí. Tuy nhiên, việc cần thiết để tiến hành trợ giúp pháp lý là thường
xuyên khi phụ nữ nhập cư có nhu cầu trợ giúp pháp lý.
Không chỉ phát kiến, xây dựng hành lang pháp lý, cung cấp tài chính, nguồn
nhân lực mà nhà nước còn quản lý, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm trong
lĩnh vực này. Điều này tương đối dễ hiểu bởi nhà nước ban hành pháp luật để quản
lý xã hội đồng nghĩa phải có cơ chế đảm bảo pháp luật được thực thi. Thêm nữa,
16

download by :


các chính sách, pháp luật trực tiếp tác động đến đời sống xã hội và các quyền con
người mà trong luật nhân quyền quốc tế nhà nước là bên có nghĩa vụ chính trong
việc đảm bảo, thực thi và thúc đẩy các quyền con người, do đó, thực hiện TGPL đối
với phụ nữ nhập cư là một trong các trách nhiệm của nhà nước.Tính xã hội được
biểu hiện ở mục tiêu cốt lõi của TGPL đối với phụ nữ nhập cư là đảm bảo công
bằng xã hội, tiếp cận công lý và bảo đảm pháp chế. Ngoài ra, ngày càng nhiều sự
tham gia của các thành phần khác (yếu tố ngoài nhà nước) như luật sư, giảng viên
luật, luật gia, sinh viên luật, mạng lưới xã hội dân sự… với các vai trị khác nhau, đã

tạo ra tính xã hội rộng rãi cho hoạt động này.
1.1.2.2. Trợ giúp pháp lý là một hoạt động hỗ trợ xã hội, mang tính chất nhân đạo
TGPL đối với phụ nữ nhập cư thể hiện trách nhiệm xã hội của nhà nước và
các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực pháp lý nhằm giúp các đối tượng yếu
thể dễ dàng hơn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp lý khi cần trợ giúp.
Người được TGPL chỉ phải bỏ ra mức chi phí thấp so với các dịch vụ pháp lý thơng
thường, thậm chí là hồn tồn miễn phí để được giúp đỡ về mặt pháp lý. Điều quan
nhất là những người này thường có hồn cảnh đặc biệt, gặp khó khăn trong việc tiếp
cận pháp luật hoặc vượt qua các rào cản để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Vì
vậy, việc TGPL cho họ khơng chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà cịn góp phần đảm
bảo công bằng xã hội, bảo đảm pháp chế được thực thi.
1.1.2.3. Trợ giúp pháp lý hỗ trợ hoạt động xét xử, bảo đảm thực thi các quyền con người
Tham gia tố tụng (bao gồm đại diện và bào chữa) đặc biệt là tố tụng hình sự
là phương thức TGPL đầu tiên và chủ yếu của hệ thống TGPL. Đến nay, không chỉ
được ghi nhận trong pháp luật quốc gia mà việc TGPL cho bị can, bị cáo đã được
quy định trong các văn kiện quốc tế. Người thực hiện TGPL với vai trị là luật sư,
có vị trí độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng sẽ hỗ
trợ hoạt động xét xử diễn ra công bằng, khách quan thông qua việc chứng minh tội
phạm cũng như phát hiện, ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong các giai đoạn tố
tụng, bảo đảm mọi người ở bất kỳ tình huống nào cũng được bảo đảm các quyền
con người của mình. Đối với phụ nữ nhập cư, với điều kiện và hoàn cảnh sống cịn
hạn chế, cơng việc chính là kinh doanh để tăng thu nhập cho gia đình, họ thường
17

download by :


yếu thế trong các mâu thuẫn và tranh chấp, nên nếu được trợ giúp pháp lý họ dễ
dàng hơn trong việc nắm bắt các thông tin liên quan đến vụ việc khu tham gia vào
quá trình xét xử.

1.1.2.4. Đối tượng đượcTrợ giúp pháp lý là người gặp nhiều khó khăn trong việc
vượt các rào cản để tiếp cận, thực hiện và bảo vệ quyền lợi của mình
Đặc điểm này xuất phát từ mục đích của TGPL là nhằm giúp đỡ, tương trợ
cho những người gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua các rào cản đểbảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình, góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội. Các đối tượng
trên do sức khỏe, giới tính, xu hướng tình dục, nguồn gốc, dân tộc và các yếu tố
khác mà có vị thế chính trị, xã hội, kinh tế hay pháp lý thấp hơn các nhóm khác, vì
vậy, khơng có khả năng hoặc bị hạn chế về khả năng tiếp cận, thực hiện và bảo vệ
các quyền con người của mình, dẫn đến có nguy cơ cao bị phớt lờ, bị bỏ quên hoặc
bị vi phạm các quyền con người đó. Chính bởi thế, họ cần có sự trợ giúp về pháp lý,
kinh tế, giáo dục, y tế nhằm khắc phục hoặc hạn chế phần nào đặc tính bị dễ tổn
thương để hòa nhập cộng đồng và phát triển đời sống cá nhân.
1.1.2.5. Người thực hiện Trợ giúp pháp lý phải là người có chun mơn, kinh
nghiệm, kỹ năng về pháp luật
Bởi pháp luật là một lĩnh vực đặc thù, điều chỉnh các quan hệ xã hội và
người được TGPL thường là những người có kém hiểu biết, thậm chí khơng hiểu
biết về pháp luật, do đó, người thực hiện TGPL hoặc phải được đào tạo chính quy,
bài bản về pháp luật hoặc phải có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực liên quan
đến pháp luật. Điều này nhằm bảo đảm chất lượng của vụ việc được TGPL như khi
sử dụng các dịch vụ pháp lý khác và hiệu quả của hệ thống TGPL.
1.1.2.6. Trợ giúp pháp lý có mối quan hệ tương hỗ với các thiết chế pháp luật khác
Cùng với các phương thức tư vấn pháp luật, đại diện tố tụng, đại diện ngoài
tố tụng, tham gia đại diện trong các quan hệ hành chính, khiếu nại, tố cáo…TGPL là
một trong những kênh thúc đẩy pháp luật đi vào đời sống, có mối quan hệ qua lại
với các thiết chế pháp luật khác, điều này được thể hiện dưới các phương diện sau:
- TGPL là một hoạt động bổ trợ tư pháp, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử
của tòa án: Người thực hiện TGPL được tham gia đại diện tố tụng trong các vụ án
18

download by :



hình sự và dân sự dưới hình thức đại diện hoặc bào chữa trong tất cả các giai đoạn
tố tụng, có vị trí độc lập so với các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, họ có thể phát
hiện, ngăn chặn kịp thời các sai phạm trong hoạt động tố tụng, góp phần bảo đảm
giải quyết vụ án khách quan, đúng đắn.
- TGPL hỗ trợ cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật: Đây làmột trong
những kênh thông tin chính thống tới người dân về nội dung văn bản quy phạm
pháp luật. Thông qua tư vấn và giải thích pháp luật, người được TGPL sẽ hiểu rõ
hơn về quyền và nghĩa vụ của mình trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể.Ngồi ra,
TGPL cũng góp phần nâng cao kiến thức pháp luật của người dân, giảm thiểu xung
đột trong các mối quan hệ pháp luật. Ngược lại, thông qua các thiết chế pháp luật
khác, cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ biết đến hoạt động TGPL và tích cực tham gia,
đóng góp phát triển hệ thống này.
1.1.3. Vai trò của trợ giúp pháp lý đối với phụ nữ nhập cư
TGPL có nhiều vai trị quan trọng góp phần đưa chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước đi vào cuộc sống, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người dân và bảo đảm công bằng xã hội, cụ thể:
1.1.3.1. Trợ giúp pháp lý góp phần đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước được triển khai trên thực tế
Quá trình thực hiện pháp luật về TGPL chính là hiện thực hố các quy định
pháp luật về TGPL trên thực tế. Pháp luật về TGPL đối với phụ nữ nhập cư là sự cụ
thể hố các chủ trương, chính sách của Đảng, nên quá trình thực hiện pháp luật về
TGPL đối với phụ nữ nhập cư cho người dân cũng là quá trình triển khai các chủ
trương của Đảng và pháp luật của nhà nước đi vào thực tế cuộc sống. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Đồng thời; tiếp tục hồn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ
19

download by :


thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho
tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống[9].
Như vậy, TGPL dành cho phụ nữ nhập cư là một trong những hoạt động
quan trọng để triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách pháp luật của Đảng và nhà
nước, góp phầnthực hiện chính sách an sinh xã hội đối với các đối tượng thuộc diện
được TGPL; bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân, thực hiện bình đẳng và cơng bằng xã hội.
1.1.3.2. Trợ giúp pháp lý góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ nhập
cư và bảo đảm công bằng xã hội
Phụ nữ nhập cư hiện nay thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và được
xếp vào nhóm yếu thế trong xã hội. Bởi lẽ, với điều kiện về thu nhập và các điều
kiện sống mặt bằng thấp, cơ hội được tiếp cận pháp luật và những dịch vụ pháp lý
còn rất hạn chế; điều kiện kinh tế của một bộ phận phụ nữ nhập cư là hộ nghèo và
cận nghèo ít hoặc khơng có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Thông qua hoạt động
TGPL nhằm thực hiện chính sách nhân đạo, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là
đặc biệt quan tâm đến những người có hồn cảnh khó khăn, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho phụ nữ nhập cư, giúp họ có cơ hội bình đẳng với mọi người trong
việc tiếp cận với pháp luật và được thụ hưởng các dịch vụ pháp lý, bảo đảm công
bằng xã hội. Có thể khẳng định TGPL là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các
chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo, góp phần thực hiện thành cơng các chủ
trương chính sách xóa đói giảm nghèo của của Đảng và Nhà nước ta.
Thực tế trong những năm qua, hoạt động TGPL chophụ nữ nhập cư đã góp
phần quan trọng trong cơng tác xố đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, hướng dẫn

cho người dân được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ pháp lý miễn phí, kịp thời bảo vệ
họ khỏi bị thiệt hại bởi những hành vi trái pháp luật gây ra. TGPL cho phụ nữ nhập
cư không những giúp cho các đối tượng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mà cịn
tạo điều kiện để cơng lý và công bằng xã hội được thực thi, bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật, mà trước hết là quyền bào chữa và nhờ
người khác bào chữa cho mình thơng qua tổ chức TGPL.
1.1.3.3. Trợ giúp pháp lý góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân

20

download by :


Hoạt động TGPL cho phụ nữ nhập cư, cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người dân là một phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp
phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tơn trọng và chấp hành pháp luật của
người dân, tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của nhà nước. Thực hiện tốt công tác TGPL phụ nữ nhập cư
sẽ không chỉ bảo đảm sự cơng bằng trong xã hội, mà cịn góp phần quan trọng trong
việc nâng cao nhận thức pháp luật trong xã hội, cộng đồng, qua đó, ngăn ngừa có
hiệu quả tội phạm và vi phạm pháp luật.
Thơng qua các đợt TGPL lưu động, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề
pháp luật, cấp phát tài liệu tìm hiểu pháp luật với các nội dung pháp luật có liên
quan mật thiết đến đời sống nhân dân, sẽ tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận
thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Thông qua sinh hoạt
câu lạc bộ TGPL, những vướng mắc về pháp luật, tranh chấp phát sinh tại cơ sở
được các thành viên trong câu lạc bộ TGPL đưa ra thảo luận, tìm cách tháo gỡ theo
đúng quy định pháp luật, đồng thời, vận động nhân dân chấp hành nghiêm những
quy định của pháp luật. Thông qua việc thực hiện các vụ việc TGPL cụ thể, người
dân không chỉ được tư vấn, hướng dẫn, giải thích những quy định của pháp luật liên

quan đến nội dung của vụ việc mà còn được hướng dẫn, giải thích các quy định của
pháp luật với phạm vi rộng hơn giúp cho họ có nhận thức một cách tổng thể về vụ
việc và có định hướng đúng cho hành vi của mình. Trong quá trình tham gia tố tụng
giải quyết một vụ án, người thực hiện TGPL giúp đỡ người được TGPL tìm hiểu
kiến thức pháp luật liên quan đến giải quyết vụ án; động viên và khích lệ họ tuân
thủ pháp luật, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Hoạt động TGPL có vai
trị củng cố, bảo vệ và phát triển các giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Đối với các địa phương ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thơng qua
hoạt động TGPL, góp phần hạn chế những hủ tục lạc hậu, thay thế vào đó các quan
hệ pháp luật lành mạnh, góp phần xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.3.4. Trợ giúp pháp lý góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định: Đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Các dân

21

download by :


tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp
nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình thực hiện đường lối
đổi mới, với sự tác động của những mặt trái của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hoạt động TGPL là một trong những biện pháp pháp lý hữu hiệu
để đảm bảo thực hiện các chính sách an sinh xã hội quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta, nhằm quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội,
nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tạo cho họ cơ
hội bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ
cơ bản, các phúc lợi xã hội.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng
định: Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan
tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu
- nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thực hiện các giải pháp,
chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với
từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo
đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý.
1.2. Tổ chức, hình thức, phương thức, nội dung và mơ hình trợ giúp pháp lý đối
với phụ nữ nhập cư
1.2.1. Tổ chức, ngườitrợ giúp pháp lý
1.2.1.1. Tổ chức trợ giúp pháp lý
Tổ chức TGPL là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, chun mơn, nhiệm vụ
trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện, quản lý hoạt động TGPL. Với tiêu chí này có thể
phân loại TGPL cho phụ nữ nhập cư gồm:
- TGPL nhà nước: Là các cơ quan, tổ chức thuộc chính phủ vàhoạt động do
ngân sách nhà nước chi trả. Theo lịch sử TGPL, nhà nước có vai trị quyết định
trong việc hình thành cũng như phát triển hoạt động này. Ở một số quốc gia, các
Trung tâm TGPL nhà nước không chỉ thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý mà còn
22

download by :


×