LUẬN VĂN:
Tiền tệ và họat động tài chính tại các
ngân hàn hiện nay
Phần I: Giới thiệu chung
I. Chính sách tiền tệ.
Tiền tệ là một khái niệm dùng để chỉ những gì được chấp nhận làm môi giới trung
gian trong trao đổi và là phương tiện thanh toán các khoản nợ. Từ khi ra đời cho đến nay,
tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia
trên thế giới. Lịch sử phát triển của tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái khác nhau nhưng tựu
chung lại chúng có cùng một bản chất. Đi kèm với quá trình hình thành và phát triển của
tiền tệ hoạt động tài chính ngân hàng cũng đã ra đời và phát triển không ngững và ngày
càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của hoạt động tiền tệ. Ngày nay hệ thống
ngân hàng và đặc biệt là Ngân hàng Trung ương thông qua một cơ chế điều chỉnh tiền tệ
gọi là “ chính sách tiền tệ “ đã có khả năng kiểm soát được các vấn đề về tiền tệ. Các nhà
kinh tế học cũng chưa đưa ra được một định nghĩa chính xác về thế nào là chính sách tiền
tệ, tuy nhiên chính sách tiền tệ cũng có thể được coi là những biện pháp mà Ngân hàng
Trung ương, ngân hàng có quyền lực cao nhất trong toàn bộ hoạt động ngân hàng và tài
chính, sử dụng để đạt những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng. Ngân
hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện chức năng là
Ngân hàng quốc gia và quản lý vĩ mô của mình.
Chính sách tiền tệ là một hệ thống bao gồm các công cụ trực tiếp và gián tiếp nhằm
tác động đến hệ thống mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ đó
là ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ. ở Việt Nam sau hơn 10
năm đổi mới chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã có
những bước tiến vô cùng quan trọng. Nói đến nền kinh tế thị trường tức là nói đến một hệ
thống thị trường được phát triển đầy đủ như thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường
công nghệ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học kỹ thuật công nghệ và đặc biệt
là thị trường tài chính và tiền tệ, một thị trường có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, nó
sẽ liên kết chặt chẽ các thị trường với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, bền vững.
Ngân hàng Trung ương và hệ thống các ngân hàng sẽ tham gia vào việc đề ra những mục
đích những biện pháp, những công cụ hữu hiệu nhất để tạo điều kiện cho chính sách tiền
tệ phát huy hiệu quả. Tiền tệ và lưu thông tiền tệ được coi là những mạch máu của nền
kinh tế, đó là một thứ dầu bôi trơn để bộ máy kinh tế hoạt động thật hiệu quả. Chính vì
những lý do trên mà chính sách tiền tệ là một chính sách đặc biệt quan trọng. Vậy những
công cụ của chính sách tiền tệ là gì? Làm thế nào để đạt được những mục tiêu đã đặt ra?
Để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ những mục tiêu trung gian
được coi là những nấc thang đưa dần dần tác động của Ngân hàng Trung ương thông quan
hàng loạt các công cụ của chính sách này. Công cụ của chính sách tiền tệ được phân ra
làm hai loại: Công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. Cả hai công cụ này đều có đặc điểm
chung đó là có thể tác động đến mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của chính sách
tiền tệ. Đó là lãi suất, đó là khối lượng tiền cung ứng, đó là khối lượng dự trữ bắt buộc đó
là lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng tất cả các mục tiêu đó đều được lựa chọn
vì chúng có ưu điểm là có thể đo lượng được, có thể kiểm soát được và quan trọng hơn đó
là chúng đều có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Hệ thống mục tiêu này bao
gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau. Vì vậy để đạt được nó cần có những công cụ hỗ trợ đắc lực
và hiệu quả. Trong từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế có thể các mục tiêu này sẽ
tạm thời thay thế cho nhau. Vì vậy việc linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của
chính sách tiền tệ sao cho phù hợp nhất với các mục tiêu là vô cùng quan trọng và Ngân
hàng Trung ương sẽ là người ra quyết định cuối cùng đối với các công cụ này. Hiện nay,
công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính sách tiền tệ đó là: Hạn mức tín dụng, nghiệp vụ lãi
chiết khấu, dự trữ bắt buộc và hoạt động của Ngân hàng Trung ương trên thị trường tự do
này còn gọi là nghiệp vụ thị trường mở. Trong điều kiện thế giới khi nền kinh tế thị
trường đã phát triển đa số các nước tiên tiến thường sử dụng các công cụ gián tiếp trong
điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước mới chuyển sang nền kinh
tế thị trường, sự phát triển của hệ thống thị trường chưa được đầy đủ và hoàn thiện vì vậy
việc sử dụng các công cụ này trong điều hành chính sách tiền tệ gặp nhiều khó khăn về
khách quan cũng như chủ quan đặc biệt là trong giai đoạn giao thời như hiện nay.
II. Công cụ của chính sách tiền tệ
1. Công cụ trực tiếp – Hạn mức tín dụng
Công cụ của chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi Ngân
hàng Trung ương nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu
thông và lãi suất. Hạn mức tín dụng là một loại công cụ trực tiếp đó là lãi suất dư nợ tối đa
mà Ngân hàng Trung ương bắt buộc các tổ chư chính sách tín dụng phải tôn trọng khi cấp
tín dụng cho nền kinh tế đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu
thông với công cụ này Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được khối lượng tiền
trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ, khi đó các công cụ gián tiếp
chưa có điều kiện để áp dụng. Trong trường hợp khẩn cấp với sức ép lạm phát tăng cao,
lượng tiền cung ứng cần được khống chế trực tiếp và ngay lập tức, Ngân hàng Trung ương
kiểm soát tất cả các khoản cho vay lớn của các ngân hàng trung gian, hạn chế cho vay tiêu
dùng, cho vay trả chậm, cho vay cầm cố Tuy nhiên, hạn mức tín dụng chỉ là một giải
pháp mang tính chất đối phó tình thế trước những biến động trước mắt. Hiệu quả điều tiết
của công cụ này không cao bởi tính chất hành chính và thiếu linh hoạt của nó. Bên cạnh
đó việc qui định hạn mức tín dụng đối với từng loại Ngân hàng trung gian là không giống
nhau, điều này tuỳ thuộc vào định hướng phát triển và mục tiêu điều hành của chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ vì vậy đôi khi tác dụng của nó lại đi ngược lại với chiếu hướng
của thị trường tín dụng làm cho mức lãi suất biến động bất lợi cho hoạt động kinh tế, giảm
khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian và các tổ chức tín dụng trong thị
trường.
Với những hạn chế như vậy, Hạn mức tín dụng chỉ được các Ngân hàng Trung
ương sử dụng khi chưa có điều kiện để sử dụng các công cụ khác như các công cụ gián
tiếp. ở Việt Nam hệ thống thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển vai trò của các Ngân
hàng Trung ương vẫn còn bị hạn chế, mặt khác việc tự do hoá tài chính tiền tệ luôn luôn
vấp phải sự can thiệp và điều tiết của Chỉnh phủ. Vì vậy hạn mức tín dụng đã từng là công
cụ điều tiết có hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời kỳ lạm phát. Trong điều
kiện phát triển hiện nay, công cụ này ngày càng tỏ rõ những mặt yếu kém do mức tín dụng
được Ngân hàng Trung ương đưa ra là không có căn cứ và sự lỏng lẻo trong công tác quản
lý hạn mức này. Do đó, công cụ trực tiếp sẽ dần dần được thay thế bằng các công cụ gián
tiếp để chính sách tiền tệ được thực thi một cách có hiệu quả.
2. Công cụ gián tiếp.
a. Dự trữ bắt buộc.
Như chúng ta đã biết, hoạt động tài chính ngân hàng là một hoạt động vô cùng cần
thiết và quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển như ngày nay.
An toàn trong kinh doanh tiền tệ sẽ bảo đảm cho hoạt động này được thông suốt. Để đảm
bảo cho khả năng thanh khoản bảo đảm cho những rủi ro bất thường trong hoạt động của
hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Trung ương đã qui định bắt buộc với toàn bộ ngân hàng
trung gian một khoản dự trữ gọi là dự trữ bắt buộc dưới dạng tiền gửi hoặc tiền mặt ở
Ngân hàng Trung ương. Mỗi ngân hàng trung gian sẽ mở một tài khoản ở Ngân hàng
Trung ương, điều này có thể giúp cho việc thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với
nhau giữa ngân hàng trung gian và Ngân hàng Trung ương, việc chi trả các khoản phí giao
dịch Dự trữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đây là tỷ lệ phần
trăm tính trên tổng sốdư tiền các loại tại một thời gian nào đó. Dự trữ bắt buộc được sử
dụng lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1913, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài vào
những năm 30, nó dần dần được sử dụng phổ biến ở những nước khác và lúc này Ngân
hàng Trung ương đã nhận ra rằng dự trữ bắt buộc không chỉ có thể đảm bảo khả năng
thanh toán và an toàn cho các ngân hàng trung gian mà nó còn có thể là công cụ để điều
tiết trong nền kinh tế. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc Ngân hàng Trung
ương có thể tác động vào nguồn dự trữ, vốn khả dụng của các ngân hàng và do vậy nó sẽ
làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế kỷ 20,
nhưng ở nhiệm vụ mới chỉ bắt đầu làm quen với khái niệm này vào năm 1990. Tháng
5/1990, sau khi hai Pháp lệnh ngân hàng được ban hành thì các ngân hàng bắt đầu thực
hiện qui chế dự trữ bắt buộc. Theo Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc được tính trên số dư tiền gửi của các tổ chức, các cá nhân ở các ngân hàng, tuỳ
theo từng thời kỳ khác nhau mà tỷ lệ này sẽ được qui định khác nhau trong phạm vi từ 10
– 35%. Trong giới hạn này dự trữ bắt buộc không được trả lãi, còn nếu vì một lý do nào
đó và nhằm một mục đích nhất định, thống đốc Ngân hàng nhà nước có thể ra quyết định
nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên cao hơn 35%, phần chênh lệch lớn hơn 35% sẽ được ngân
hàng nhà nước trả lãi. Trên thực tế tỷ lệ này thường là 10%, tuy nhiên việc áp dụng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc cũng khác nhau trong từng thời kỳ và với từng loại tiền gửi khác nhau. Ví
dụ như từ tháng 5/1990 đến tháng 3/1994 tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% cho tất cả các loại
tiền gửi nhưng theo Quyết định 261 – QĐ/NH1 ngày 19/09/1995, tỷ lệ 10% chỉ áp dụng
cho loại tiền gửi 12 tháng trở xuống. Giữa 2 thời kỳ này từ tháng 5/1994 đến tháng 9/1995
tỷ lệ dự trữ bắt buộc có sự phân biệt cho 2 loại tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở xuống và
tiền gửi không kỳ hạn
(1)
. Hay giả như năm 1999 là năm vô cùng khó khăn đối với nền
kinh tế nước ta, mặc dù sau
1
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á ( từ năm 1997)
các nước này đã có những dấu hiệu hồi phục nhanh chóng, nhưng Việt Nam lại rơi vào
tình trạng kinh tế suy thoái. Để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu tạo đà
phát triển kinh tế, ngân hàng nhà nước đã thực hiện việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với các tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng – 1999
(2)
Tổ chức tín dụng
T
ỷ lệ dự trữ bắt buộc (%)
1/1/99 1/3/99
1/6/99
1/7/99
1/10/99
1. NHTM quốc doanh, NHTMCP đô thị 10 7 6 6 5
Chi nhánh NH nư
ớc ngo
ài, NH liên doanh
và công ty tài chính
NHNN và phát triển nông thôn Việt Nam 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, Ngân hàng h
ợp tác,
QTND trung ương, QTDND khu vực
0
5
4
1
1
3. KTD có số dư ti
ền gửi phải tính DTBB
dưới 500 triệu đồng, QTDN cơ sở, HTX tín
dụng, NH phục vụ người nghèo
0 0 0 0 0
Như vậy rõ ràng công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ ảnh hưởng rất mạnh đến lượng
tiền cung ứng do vậy việc qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc dựa trên những cơ sở và yếu tố
nào để bảo đảm rằng tỷ lệ đó là thích hợp nhất. Trước tiên điều đó phải xuất phát từ mục
tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ qui định mức độ cung ứng
1 Tạp chí KH và đào tạo Ngân hàng số 3 ( 5+ 6/2000 )
2
tiền, quy định cách quản lý điều tiết tiền, đây là yếu tố quyết định nhất đến việc qui định
này. Mục tiêu của chính sách tiền tệ trước tiên sẽ là điều chỉnh cơ cấu và khối lượng tiền
trong lưu thông sao cho hợp lý nhất và từ đó cách quản lý tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ đó
sẽ được xác định một cách tối ưu và hiệu quả.
Thứ đến đó là qui mô hoạt động của các tổ chức tín dụng khi sử dụng dự trữ bắt
buộc trong điều tiết của Ngân hàng Trung ương người ta coi đây là một thứ thuế đánh vào
các tổ chức tín dụng. Xét trên một khía cạnh nào đó dự trữ bắt buộc được coi như một
khoản thuế là quan niệm có thể chấp nhận được, vì hầu hết các khoản dự trữ bắt buộc đều
không được trả lãi. Vì vậy nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ giảm mức độ gánh
nặng của dự trữ bắt buộc, người ta thường căn cứ vào qui mô tiền gửi của các ngân hàng
để định ra tỷ lệ dự trữ cho từng loại hình tổ chức tín dụng. Hiện nay các tổ chức tín dụng
thực hiện dự trữ bắt buộc theo Quyết định số 51/1999/QĐ-NHNN1 của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam ngày 10/02/1999. Nhóm các Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân
hàng thương mại cổ phần đô thị. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh
và công ty tài chính được áp dụng tỷ lệ 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng. Cũng
với loại tiền gửi này tỷ lệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng còn lạ là 1% và 0%
(1).1
Ngày nay các công cụ điều hành chính sách tiền tệ đã được củng cố và mở rộng,
hoàn thiện và phát huy vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Vì vậy dự trữ
bắt buộc không còn là công cụ mang lại hoạt động cao nhất, trong việc điều hành chính
sách tiền tệ từ đó việc qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực chất đó là việc xác lập một tỷ lệ
1 Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 3 ( 5 + 6/2000 )
sao cho nó có thể kết hợp với các khác thật nhịp nhàng trong điều tiết lượng tiền cung ứng
và mức lãi suất hợp lý trên thị trường.
Ngoài ra chúng ta cũng cần xét đến tính ổn dịnh của các loại tiền gửi. Vì sao? Vì
rằng mặc dù dự trữ bắt buộc được sử dụng với mục tiêu chính là công cụ của chính sách
tiền tệ song ở một chừng mực nào đó nó vẫn mang một ý nghĩa về thanh khoản. Do cách
tính dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm qui định trên số dư tiền gửi bình quân ngày trong
một thời kỳ nào đó cho nên khi cần thiết các ngân hàng có nhu cầu sử dụng tiền thì họ vẫn
có thể để số dự trữ bắt buộc của mình trên tài khoản ở Ngân hàng Trung ương bằng 0.
Tiền gửi của khách hàng với hệ thống ngân hàng trung gian có thể coi là có thể rút bất kỳ
lúc nào. Vì vậy không thể tách rời giữa dự trữ và khả năng bảo đảm thanh khoản của các
ngân hàng và cũng vì vậy tính ổn định của các loại tiền gửi cũng là yếu tố cần xem xét khi
các định mức dự trữ cần thiết.
Trên đây là một số căn cứ cần thiết để các Ngân hàng Trung ương có thể dựa vào
đó để đưa ra tỷ lệ dự trữ áp dụng cho cả hệ thống ngân hàng. Từ khi dự trữ bắt buộc được
đưa vào sử dụng Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quyết định, chính
sách về vấn đề này. Cách quản lý dự trữ bắt buộc trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam
cũng có những đổi thay đáng ghi nhận. Từ chỗ việc quản lý một cách cứng nhắc khoản dự
trữ bắt buộc trên tài khoản riêng tại Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng không
được phép sử dụng kể cả những khi cần đến nay cách quản lý của chúng ta đã linh hoạt
hơn nhiều. Các tổ chức tín dụng có quyền sử dụng dự trữ bắt buộc vào hoạt động kinh
doanh của mình. Ngân hàng nhà nước quản lý dự trữ theo đơn vị thời gian. Do đó công cụ
dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ được Ngân hàng nhà nước Việt Nam sử
dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển càng có nhiều loại công cụ
mới ra đời nhằm đáp ứng những điều kiện hiện nay tốt hơn. Tuy rằng những công cụ đó
không thể thay thế hoàn toàn được dự trữ bắt buộc nhưng nó cũng đã phần nào khắc phục
được những hạn chế của công cụ này như tác động của công cụ dự trữ bắt buộc đến khối
lượng tiền cung ứng là rất mạnh, chỉ cần một phần trăm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính
trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày mức dự trữ sẽ thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay
đổi theo cấp số nhân của lượng tiền cung ứng. Điều này làm cho công cụ dự trữ bắt buộc
trở nên thiếu linh hoạt vì nếu cứ thay đổi thường xuyên sẽ gây nên sự rối loạn mới ổn định
cho hoạt động của các Ngân hàng. Đi kèm theo đó là khoản chi phí cho các biến động
cũng tăng theo. Vì vậy công cụ này thường được sử dụng kết hợp với các công cụ khác
nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng của ngân hàng khi cần thiết.
b. Chính sách tái chiết khấu
Về thực chất chính sách tái chiết khấu là toàn bộ các qui định và điều kiện cho vay
của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại là một hệ thống có hoạt
động cung cấp một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu của xã hội bằng cách đi huy động các
nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Họ sẽ nhận tiền gửi và lấy khoản tiền đó cho người có
nhu cầu cần vay người ta gọi đó là hoạt động tín dụng đối với nền kinh tế. Tuy nhiên khi
tiến hành kinh doanh trong điều kiện cơ chế thị trường không phải ngân hàng nào cũng có
thể hoạt động một cách trôi chảy do điều kiện cạnh tranh giữa ngân hàng này và ngân
hàng khác. Nhiều khi có những biến động bất thường mà các ngân hàng chưa hoặc không
thể xoay sở kịp vốn hoặc dự trữ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng lúc đó các ngân hàng
này buộc phải đi tìm nguồn vốn bổ sung từ các ngân hàng khác hoặc từ Ngân hàng Trung
ương để bảo đảm kinh doanh. Trên cơ sở các ngân hàng thương mại yêu cầu mình cho vay
khoản tiền nào đó, ngân hàng trung ương sẽ xem xét và đưa ra quyết định có cho các
Ngân hàng thương mại vay hay không. ở Mỹ, quỹ dự trữ liên bang (Fed) cấp cho các ngân
hàng 3 loại cho vay chiết khấu. Tín dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ và tín dụng mở
rộng. Cho vay tín dụng điều chỉnh, một loại thông dụng nhất nhằm giúp các ngân hàng
giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị tạm thời rút ra. Tín dụng điều
chỉnh được cấp bằng một cú điện thoại sẽ được hoàn trả khá nhanh chóng – vào cuối ngày
làm việc sau đối với các ngân hàng lớn. Tín dụng thời vụ được cấp để đáp ứng các nhu
cầu thời vụ của một số ít ngân hàng đang nghỉ và của những vùng nông nghiệp hoạt động
theo thời vụ. Tín dụng mở được cấp cho các ngân hàng bị khó khăn nghiêm trọng về khả
năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra thì kh
1
ông yêu cầu phải hoàn trả nhanh chóng ngay
(1)
.
Chính sách tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ương qui định với mục đích kiểm
soát được vốn mình cho vay, tránh cho khoản vốn vay đó không để bị sử dụng sai mục
đích. Vì mỗi một khoản vay sẽ làm cho lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương
mại tăng lên và tương ứng là mức cung tiền trong lưu thông cũng sẽ tăng lên. Như vậy
khả năng kiểm soát tiền tệ sẽ gặp khó khăn nếu Ngân hàng Trung ương không hạn chế các
khoản vay đó. Ngoài ra chính sách này cũng có hiệu ứng thông báo đối với các ngân hàng
khi Ngân hàng Trung ương đưa ra mức lãi suất tái chiết khấu của mình. Nhìn vào mức lãi
suất và điều kiện tái chiết khấu, các ngân hàng có thể dự đoán được mục tiêu sắp tới,
hướng điều hành của chính sách tiền tệ trong thời gian tới, nó sẽ tự điều chỉnh hoạt động
1 Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính – Federic – S.Mishkin
của mình để tránh những khó khăn có thể vấp phải trong tương lai. Chính sách tái chiết
khấu không những thể hiện được vai trò của Ngân hàng Trung ương trong việc điều tiết
lượng tiền cung ứng mà nó còn thể hiện vị trí không thể thiếu được của Ngân hàng Trung
ương trong hệ thống ngân hàng đó là cứu cánh cho vay cuối cùng. Khi cho vay thông qua
tái chiết khấu Ngân hàng Trung ương là người cuối cùng có thể cung cấp dự trữ cho hệ
thống ngân hàng khi các sự phá sản của ngân hàng đe doạ thoát khỏi sự kiểm soát do đó
mà ngăn chặn xảy ra những cuộc sụp đổ ngân hàng và tài chính.
ở Việt Nam chính sách tái chiết khấu cũng đã được sử dụng trong điều hành chính
sách tiền tệ. Tuy nhiên nó không được sử dụng như là một công cụ hữu hiệu của chính
sách tiền tệ mặc dù pháp luật về ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã có những qui định
hướng dẫn trong điều 57 về chiết khấu tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác. Nguyên nhân chủ chốt của vấn đề này đó là ở Việt Nam chưa hội
đủ những điều kiện để có thể tiến hành hoạt động này. Trước tiên đó là hoạt động chiết
khấu thương phiếu của các ngân hàng thương mại còn hạn hẹp từ khi có quyết định số
198/QĐ-NH5 ngày 16/09/1994 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành thể lệ tín
dụng ngắn hạn cũng đã có quy định về “ chiết khấu chứng từ có giá” nhưng cho đến nay
nghiệp vụ này của ngân hàng thương mại hầu như không đáng kể, chủ yếu chỉ là mua các
tín phiếu, trái phiếu ngắn hạn của nhà nước chưa đến hạn
(1)
. Trong khi đó thương phiếu –
công cụ tài chính quan trọng nhất trong sản xuất kinh doanh lại là hình thức công cụ tài
chính chưa phát triển ở Việt Nam. Chúng ta mới chỉ có trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngắn
hạn vì vậy phát triển hình thức tín dụng mới này còn gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục
điều này, đa dạng hoá các công cụ tài chính để làm cơ sở cho tín dụng ngân hàng sẽ là một
bước đột
1
biến làm thay đổi hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh vấn đề công cụ
tài chính, một yếu tố nữa không kém phần quan trọng đó là từ khi có quyết định 198 về
chứng từ có giá cho đến nay khi Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng được thi hàng
01/10/1998 thì các qui định và hướng dẫn nghiệp vụ còn chung chung. Đặc biệt là chưa có
tiêu chí xác định phân loại các chứng từ có giá để có thể áp dụng vào nghiệp vụ này. Mặt
khác kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ chưa đạt đến được nền sản xuất lớn hiện đại
và qui mô vừa mới tiếp cận với cơ chế thị trường qua mười năm đổi mới trong khi đó
nghiệp vụ này là rất cần thiết với nền kinh tế trong thời kỳ phát triển. Vì vậy những bước
chuẩn bị về luật pháp cũng như quá trình phát triển kinh tế là điều kiện để nghiệp vụ này
được mở rộng và phát triển trong một thời gian không xa.
Với những ưu điểm như vậy, chính sách tái chiết khấu liệu có còn điều gì hạn chế
hay không ? với khả năng định hướng và thông báo trước, chính sách tái chiết khấu đưa ra
các quy định về lãi suất chiết khấu và điều kiện chiết khấu, nó có tác dụng không những
về kiểm soát tiền tệ mà còn có tác dụng hướng dẫn thị trường đôi khi còn vì những mục
đích chính trị xen lẫn vào. Như thế thì chỉ có những loại giấy tờ có giá có những tiêu
chuẩn phù hợp với định hướng và chính sách đã đề ra thì mới được tái chiết khấu và nếu
trong một thời gian nào đó có sự thay đổi đặc biệt ở mức lãi suất thì việc cung ứng tiền tệ
không những không đi đúng hướng mà còn rơi vào tình trạng khó có thể kiểm soát được.
Hơn nữa công cụ này có khả năng điều tiết các mục tiêu trung gian nhưng khi sử dụng có
Ngân hàng Trung ương không kiểm soát hoàn hảo được lượng tiền cung ứng. Đó là công
cụ mang tác động một chiều, nó phụ thuộc vào mức độ phụ thuộc vốn của các ngân hàng
1 . Tạp chí Ngân hàng – số 14. Tháng 7/1998.
thương mại vào Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Trung ương không thể chủ động được
trong việc cấp phát vốn vì chỉ khi nào ngân hàng thương mại thực sự cần vốn họ mới xin
tái chiết khấu, lúc Ngân hàng Trung ương mới có quyền ra quyết định của mình. Để khắc
phục nhược điểm này cần kết hợp với việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc trong việc
thực hiện tốt vai trò kiểm soát của Ngân hàng Trung ương.
c. Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động của Ngân hàng Trung ương trên thị trường
mở thông qua việc mua bán các chứng khoán hoạt động này có ảnh hưởng trực tiếp đến
dự trữ của các ngân hàng thương mại và ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất trên thị
trường. Đây được coi là công cụ linh hoạt và có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ đã
được hầu hết các nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển sử dụng vô cùng hiệu quả.
Vậy Việt Nam nghiệp vụ này được áp dụng như thế nào? Tại sao đến bây giờ Việt Nam
mới đưa nghiệp vụ này vào hoạt động.
Chúng ta đã biết sau Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước, hệ thống ngân hàng hai cấp
đã cho phép Ngân hàng nhà nước đóng vai trò Ngân hàng Trung ương và từ đây đã ra đời
một hệ thống chính sách tiền tệ được rút đúc từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới.
Thật vậy, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước thời gian qua đã góp phần quan
trọng thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành
các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở ngại trước hết là sự am hiểu
về một phương pháp điều hành mới còn hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn
thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ theo đúng nghĩa gốc của mỗi công
cụ. Chẳng hạn chính sách tín dụng chúng ta cho vay theo hạn mức truyền thống tiền đến
cho vay theo chỉ định là chủ yếu với cách tính và trả lãi sau hàng tháng (khác với cho vay
chiết khấu là hình thức cho vay trả lãi trước ). Chiết khấu giấy tờ có giá mới bắt đầu tập
dượt trên thị trường sơ cấp đối với tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước và tín
phiếu các ngân hàng thương mại. Trên thị trường thứ cấp nghiệp vụ này còn nằm trên bản
thảo, nên chưa có kinh nghiệm. Quá trình dự thảo các văn bản pháp qui liên quan đến các
công cụ của chính sách tiền tệ còn nhiều vấn đề cần trao đổi rộng rãi.
Về cho vay tái cấp vốn, nên cho vay trả lãi trước ( cho vay chiết khấu ) hay cho vay
trả lãi sau hàng tháng như lâu nay. Cho vay trả lãi trước có một ưu điểm là giảm được sự
lạm dụng vay để mua chứng khoản trả lãi trước. Nhu cầu vốn tạm thời để điều chỉnh cân
đối hàng ngày của các ngân hàng xử lý bằng loại cho vay nào, có tiếp tục cho vay thanh
toán bù trừ không.
Về chiết khấu giấy tờ có giá, có nên chiết khấu như một công cụ riêng biệt hay
được bao gồm trong chính sách tái cấp vốn hoặc giai đoạn đầu của nghiệp vụ thị trường
mở?
Về nghiệp vụ thị trường mở, hoạt động trên thị trường tài chính nói chung hay chỉ
trên thị trường tiền tệ, công cụ để giao dịch trên nghiệp vụ này là giấy tờ có giá ( GTCG)
nói chung hay chỉ GTCG ngắn hạn. Nói một cách khác chính sách tiền tệ chú ý đến khả
năng thanh khoản hay tính thời hạn của công cụ tài chính. Nếu mối quan tâm nhằm vào
tính thời hạn ( ngắn hạn ) thì trên thực tế nhiều công cụ tài chính dài hạn ở nhiều trường
hợp có khả năng chuyển đổi nhanh hơn các công cụ ngắn hạn, sẽ bị loại bỏ khỏi nghiệp vụ
thị trường mở (chứng khoán chính phủ chẳng hạn ). Trong khi đó nhiều GTCG ngắn hạn
rất khó chuyển đổi không phù hợp với chính sách tiền tệ nhạy bén buộc phải mua, bán
trên thị trường mở. ở các nước Ngân hàng Trung ương quan tâm vào khả năng thanh
khoản của các công cụ tài chính hơn là thời hạn. Một chứng khoán thanh khoán cao có thể
chuyển đổi được ngay nhờ kỹ thuật hợp đồng mua bán lại trong khi đó một chứng khoán
ngắn hạn bị ế thì không có kỹ thuật nào để xử lý. ở Việt Nam trong khi các công cụ tài
chính còn hiếm hoi Luật Ngân hàng nhà nước giới hạn phạm vi giao dịch của nghiệp vụ
thị trường mở trên thị trường tiền tệ thì trước hết nghiệp vụ này bước đầu gặp khó khăn do
thiếu các công cụ tài chính (vì trái phiếu kho bạc nhà nước chủ yếu có thời hạn dài trên
một năm) sau tiếp có thể giảm hiệu quả của nó. Thành viên tham gia thị trường mở bao
gồm tất cả hệ thống tài chính, phi tài chính và tư nhân hay chỉ có duy nhất hệ thống tài
chính ( điều này rất quan trọng vì nghiệp vụ thị trường mở có hiệu quả hay không phụ
thuộc vào hai yếu tố một là thành viên tham gia, hai là công cụ tài chính ). Phương thức
mua, bán là gì ( mua, bán hẳn, hợp đồng mua, bán lại ) thanh toán mua, bán bằng hình
thức nào ( bằng chuyển khoản, bằng séc, bằng điện tử ) Vì vậy em xin sơ lược đề xuất
các giai đoạn tổ chức, vận hành nghiệp vụ thị trường mở như sau:
Các bước hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở
Phân tổ
Giai đoạn đầu
(có thể áp dung)
Giai đoạn hoàn thiện
1. Thành
viên tham gia
-
Ch
ỉ bao gồm các
đ
ịnh
chế tài chính
-
H
ệ thống tài chính
- Phi tài chính (các công
ty)
- Tư nhân
2. Các công cụ tài chính áp
dụng
- Chứng khoán chính phủ
ngắn hạn
- Tín phiếu NHNN ngắn
hạn
- Chứng khoán chính phủ
ngắn hạn
- Chứng khoán chính phủ
dài hạn (bao gồm các cơ
quan thuộc chính phủ)
3. Lãi chi
ết khấu áp dụng
-
Lãi su
ất cố
đ
ịnh
-
Lãi su
ất
đ
ấu thầu
4- Kỹ thuật thị trường mở - Mua, bán hẳn - Mua, bán hẳn
- Mua bán theo hợp đồng
mua lại
5- Thời gian hoạt động - 1 tuần, tháng - Hàng ngày, khi cần thiết
Ta cần lưu ý:
1- Mua hoặc bán chứng khoán tận tay tư nhân là cách can thiệp vào lượng tiền
cung ứng trực tiếp và nhanh nhất.
2- Khả năng thanh khoản của chứng khoán quyết định tính linh hoạt của thị trường
mở chứ không phải thời hạn của chứng khoán, do đó nghiệp vụ thị trường mở hoạt động
trên thị trường chứng khoán nói chung chứ không chỉ thu hẹp trên thị trường tiền tệ.
Sau đây em xin nêu một vài suy nghĩ và kiến nghị sau đây:
1- Để phù hợp với thông lệ quốc té đồng thời là điều kiệnh thực tế của Việt Nam
hiện nay đề nghị sửa lại Điều 9 và Điều 21 Luật NHNN. Có như vậy mới tạo được tiền đề
cho nghiệp vụ TTM hoạt động có hiệu quả. Cụ thể là cộng cụ mua, bán trên nghiệp vụ này
bao gồm GTCG nói chung chứ không chỉ GTCG ngắn hạn, hay nói cách khác nghiệp vụ
TTM hoạt động trên phạm vi cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ, nhất là hiện nay trong
điều kiện nền kinh tế mới chuyển đổi chúng ta còn thiếu nhiều công cụ tài chính để giao
dịch mua bán. Thực tế cho thấy do yêu cầu chi tiêu dài hạn của Ngân sách Nhà nước nên
các trái phiếu kho bạc phát hành có thời hạn thanh toán trên một năm được bộ Tài chính
ưa chuộng hơn. Nếu bó hẹp theo thời hạn có nghĩa là chúng ta tự loại các trái phiếu này –
(loại GTCG có uy tín khả năng thanh khoản cao) ra khỏi nghiệp vụ TTM. Điều mà CSTT
đang cần. Trong khi chờ sửa luật đề nghị Bộ Tài chính tiếp tục phát hành tín phiếu kho
bạc thời hạn dưới một năm lâu nay đang thực hiện đấu thầu qua NHNN hoặc có thể vận
dụng thời hạn còn lại của GTCG để làm cơ sở pháp lý trong giao dịch, mua bán trên
nghiệp vụ TTM.
2- Không tách chiết khấu GTCG thành một khái niệm riêng “Cửa chiết khấu đặc
biệt”. Thực ra chiết khấu GTCG không có điều kiện nào dặc biệt. Nên coi đây là kỹ thuật
tài chính trong nghiệp cụ thị trường mở giai đoạn đầu ( mua GTCG theo phương pháp
chiết khấu với lãi suất theo chỉ đạo).
3- Bỏ cho vay thanh toán bù trừ (điều này phù hợp với dự án hệ thống thanh toán
mới đã ký hợp đồng triển khai với công ty Hundai), thiết kế loại cho vay điều chỉnh cân
đối vốn tạm thời hàng ngày có bảo đảm trong loại cho vay tái cấp vốn có bảo đảm (điểm 3
điều 17 luật NHNN) thay vì chiết khấu GTCG (điểm 2 điều 17).
4- Về xu hướng các NHTM thích sử dụng công cụ nào lãi suất hạ để vay hoặc để
bán. Nếu lãi suất vay hạ thì thông thường NHTM chưa bán GTCG. Do vậy để NHTM sử
dụng hết GTCG mới vay thì NHTW phải nâng cao lãi suất cho vay cao hơn lãi chiết khấu
GTCG, khi nào GTCG đã chiết khấu hết là lúc NHTW hạ lãi suất cho vay ngang bằng
hoặc thấp hơn lãi chiết khấu GTCG. Để chống tình trạng vay lãi suất thấp đầu cơ để mua
chứng khoán có lãi suất cao, ở đây kiểm soát lãi suất, khối lượng cho vay trong sự phối
hợp hài hoà giữa các công cụ của CSTT là rất quan trọng. Điều này càng có ý nghĩa khi
lãi suất được coi như một trong những đòn bẩy kích cầu nền kinh tế
(1)
.
Phần II: Nghiệp vụ thị trường mở
1
I. Nghiệp vụ thị trường mở.
Chính sách tiền tệ ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải pháp bảo đảm ổn
định đồng tiền và thị trường tiền tệ góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh
tế bao gồm công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài
chính, thị trường ngoại hối Đã có nhiều giải pháp được sáng tạo, hoàn thiện dần trong
1 Thị trường tài chính tiền tệ 12/1999.
quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng và được thừa nhận là những công cụ điều
hành sắc bén hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động lên khối lượng tiền tệ, phạm vi tín
dụng và mặt bằng lãi suất. Điểm xuất phát để tiếp cận khi áp dụng các giải pháp này là
làm thế nào để đạt được một khối lượng tiền nhất định tương ứng với một mức lãi suất.
Để đạt được những điều này, các nhà hoạch định chính sách cân nhắc các giải pháp thích
hợp khi áp dụng hàng loạt các biện pháp được thử nghiệm rồi tựu chung lại thành một số
giải pháp chủ yếu được sử dụng cho đến ngày nay. Nó đã đang và sẽ được các ngân hàng
Trung ương áp dụng làm công cụ của chính sách tiền tệ như: tái cấp vốn, lãi suất trần, tỷ
giá, dự trù bắt buộc, tái chiết khấu và đặc biệt nghiệp vụ thị trường mở. Ra đời vào những
năm 20 của thế kỷ này, nghiệp vụ thị trường mở tỏ ra là một trong những công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất trong điều hành chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ này là nơi diễn ra việc mua bán
các chứng khoán ngắn hạn giữa một bên là ngân hàng Trung ương, một bên là khách hàng
bao gồm các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng và tư nhân
(1)
. Các giao dịch mua bán
này giúp ngân hàng Trung ương có thể thay đ
1
ổi khối lượng tiền dự trữ theo mong muốn
tăng dự trữ thực hiện nghiệp vụ mua bán, giảm dự trữ, thực hiện nghiệp vụ bán. Do các
thao tác của chính sách tiền tệ trong việ kiểm soát lượng tiền dự trữ mà nghiệp vụ thị
trường mở có thể thực hiện một cách chủ động hay thụ động. Khi chủ động, ngân hàng
Trung ương nhằm vào mục tiêu là khối lượng tiền dự trù xác định và cho phép lãi suất có
thể dao động dự do. Ngược lại, mức lãi suất được cố định và khối lượng tiền dự trữ được
phép thay đổi. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của xã hội mà quốc gia này hay
quốc gia khác có thể chủ động hoặc thụ động trong việc sử dụng công cụ này. Dù mục
1 Tạp chí Ngân hàng – số 3 + 4 – tháng 2/1999
tiêu của chính sách tiền tệ là lượng tiền dự trữ hay lãi suất, ngân hàng Trung ương vẫn
phải dựa vào những số liệu ước tính về những nhân tố khác tác động dến cung ứng tiền .
Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện điều chỉnh sớm chính sách tiền tệ.
Công cụ tài chính được sử dụng trong nghiệp vụ này đó là những chứng khoán của
kho bạc và của ngân hàng Trung ương như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Bên cạnh đó còn
có một số công cụ nợ ngắn hạn khác như: thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn, hợp
đồng mua lại do các định chế tài chính và cả công ty phát hành. Mỗi loại công cụ này lại
được lựa chọn sao cho phù hợp nhất với các điều kiện của thị trường. Ba khu vực để hoạt
động thị trường mở có hiệu quả là thị trường chứng khoán chính phủ và ngân hàng Trung
ương, thị trường liên ngân hàng và thị trường các công cụ nợ ngắn hạn
(22)
. Các công cụ
được sử dụng phải là các công cụ có tính linh hoạt, được sử dụng rộng rãi, khả năng thanh
toán cao, thích hợp với các hình thức giao dịch khác nhau. Ví dụ như dưới hình thức đấu
thầu các loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp của kho bạc hay
ngân hàng Trung ương, nếu các khoản tiền thu được không dành riêng cho chỉ tiêu chính
phủ thì nó sẽ được coi là một nghiệp vụ tiền tệ. ở một số nước có thị trường tài chính phát
triển, thị trường đối với chứng khoán. Chính phủ thoả mãn các điều kiện đòi hỏi của
nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Trung ương các nước này thực hiện phần lớn các
nghiệp vụ thị trường mở thông qua thị trường này. Tuy nhiên để duy trì một thị trường
lành mạnh cần phải có những điều kiện chính trị xã hội ổn định, khi đó các loại chứng
khoán của chính phủ được bảo đảm như vậy rủi ro tín dụng với loại công cụ này coi như
không có và nó trở thành phương tiện tốt nhất cho hoạt động thị trường mở. Nếu hoạt
động mua bán các công cụ nợ phát triển mạnh trên thị trường sơ cấp thì đó cũng là yếu tố
khuyến khích thị trường thứ cấp hoạt động mạnh mẽ. Vì vậy ngân hàng Trung ương luôn
luôn nắm vững các thông tin và biến động thị trường sao cho thị trường sơ cấp hoạt động
đạt hiệu quả. Nếu như nói thị trường sơ cấp là điều kiện cần thị trường thứ cấp sẽ là điều
kiện đủ để hoàn thiện toàn bộ hệ thống thị trường của các công cụ nợ. Trên thị trường thứ
cấp, nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành linh hoạt với các loại chứng khoán
1
được xếp
loại tín nhiệm cao, chủ yếu dưới dạng hợp đồng mua lại và hợp đồng mua lại đảo chiều
(1)
.
Ngược lại với các nghiệp vụ, mua bán đứt- hình thức mua bán thông qua đấu thầug rọng
rãi – hợp đồng mua lại hay hợp đồng hay hợp đồng mua lại đảo chiều được sử dụng khi
cần bổ sung tăng hoặc giảm dự trữ tạm thời Ngân hàng Trung ương tham gia trực tiếp kí
hợp đồng với các nhà môi giới, nó có thể được thực hiện qua đêm hoặc trên cơ sở gọi là
thời hạn xác định thường là 7 ngày
(2)
. Các khoản nợ ngắn hạn của tư nhân, kể cả các công
cụ nợ trên thị trường liên ngân hàng kém phù hợp cho các giao dịch trên thị trường mở.
Trước hết là do nó chứa đựng nhiều rủi ro tính dụng thêm vào đó nó còn có thể đẩy các
ngân hàng trung ương
vào tình thế khó khăn khi phải lựa chọn. Vì vậy nó ít được sử dụng vào nghiệp vụ này.
Trên thế giới, hiện nay có rất ít nước có được thị trường lý tưởng- là điều kiện cho hoạt
động thị trường mở. Vì vậy, các công cụ cần được kết hợp với nhau phụ thuộc vào chiến
lược cụ thể áp dụng cho từng thời kỳ và cho từng quốc gia. Vậy nghiệp vụ thị trường mở
có mối quan hệ như thế nào với các công cụ khác!
2 Báo thị trường tài chính – tiền tệ số 13 – tháng 7/2000.
1. Tạp chí Ngân hàng số 8/2000
Với công cụ dự trữ bắt buộc, ngân hàng Trung ương kết hợp với nghiệp vụ thị
trường mở sẽ làm tăng cường tính hiệu quả của chính sách tiền tệ và giúp cho Ngân hàng
Trung ương đo được tác động với lãi suất và cung ứng tiền. Tuy nhiên dự trữ bắt buộc là
phương pháp truyền thống của các Ngân hàng Trung ương. Tuy rằng việc thay đổi tỷ lệ tài
sản được yêu cầu ở dạng dự trữ rõ ràng là phương tiện để kiểm soát tiền tệ nhưng vì hiện
nay việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở đã trở nên rộng rãi hơn nên thực tế các Ngân
hàng Trung ương ít phải thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc – 1 công cụ tương đối thô sơ. Ngày
nay vai trò của công cụ này đã bị hạ thấp vì các ngân hàng cho rằng họ bị bất công hơn so
với các định chế tài chính khác cũng hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng mà lại
không phải để lại một khoản dự trữ bắt buộc được qui định từ phía Ngân hàng Trung
ương. Do vậy một số nước như Anh không áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc chỉ duy trì
nó ở một mức cần thiết với một mức dự trữ tối thiểu, hoạt động thị trường mở sẽ tự phát
huy hiệu quả và ảnh hưởng của nó đến lãi suất và mức cung tiền. Tuy vậy song song với
nghiệp vụ này dự trữ bắt buộc vẫn và công cụ quan trọng của Ngân hàng Trung ương.
Song hành với nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu tái chiết khấu cũng được coi là
các công cụ chủ đạo Ngân hàng Trung ương nghiên cứu xác lập một cách phù hợp mối
quan hệ và trật tự vận hành giữa hai công cụ này khác với chiết khấu và tái chiết khấu, các
ngân hàng tham gia nghiệp vụ này không chỉ nhằm mục tiêu quản lý khả năng thanh
khoản của mình mà đây còn là cơ hội kinh doanh với những mục tiêu lợi nhuận rõ ràng.
Để hạn chế các ngân hàng tiếp cận được với Ngân hàng Trung ương thông qua “ cửa sổ
chiết khấu “ vì nếu không thì nghiệp vụ thị trường mở không thể sử dụng như một công cụ
1. Tạp chí Ngân hàng số 3+4 tháng 2 năm 1999
cơ bản được, cần có những chính sách về lãi suất chiết khấu và điều kiện chiết khấu chặt
chẽ. Như vậy “ cửa số chiết khấu “ sẽ trở nên kém hấp hẫn với các ngân hàng khi họ có ý
định tham gia vào nghiệp vụ này đồng thời đây cũng là biện pháp nhằm hạn chế việc lạm
dụng cửa sổ chiết khấu ở Ngân hàng Trung ương. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở và “
cửa sổ chiết khấu” có thể được triển khai song hành trong điều hành tiền tệ nhưng Ngân
hàng Trung ương còn bảo đảm rằng có sự tách bạch rõ ràng phạm vi tác động của chúng
để có thể điều hành và phối hợp hai công cụ này phát huy tác dụng tốt nhất theo mục tiêu
cuả chính sách tiền tệ.
Thị trường mở là công cụ kiểm soát tiền tệ chủ yếu ở các nước công nghiệp và
ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển và với nền kinh tế
chuyển đổi. Nó cho phép Ngân hàng Trung ương có khả năng linh hoạt hơn trong việc xác
định thời điểm và khối lượng giao dịch tiền tệ theo ý muốn, thúc đẩy nhiều mối quan hệ
mang tính chất kinh doanh và khắc phục được những hạn chế của các công cụ trực tiếp.
Thay vì việc sử dụng những công cụ trực tiếp kém hiệu quả, khi nghiệp vụ thị trường mở
đã phát huy đầy đủ tác dụng của nó trong những điều kiện thích hợp, công cụ này được sử
dụng thường xuyên hơn bởi những ưu điểm hơn hẳn của mình so với các công cụ khác
như thị trường mở có khả năng kiểm soát hoàn toàn về mặt khối lượng. Sự kiểm soát này
mang tính chất chủ động và linh hoạt về thời gian và mức độ tác động. Hơn nữa ở bất kỳ
mức độ nào, mục đích nào khi sử dụng nghiệp vụ này Ngân hàng Trung ương luôn tạo
được tính khách quan trong tác động như một thương nhân tham gia và thị trường. Thị
trường mở còn có tác động hai chiều. Điều này đã khắc phục được hạn chế trong việc tác
động một chiều của Ngân hàng Trung ương khi tiến hành chính sách tái chiết khấu. Khi