Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Báo cáo " Cấu trúc của thông tin xã hội " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.68 KB, 7 trang )

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197
191
Cấu trúc của thông tin xã hội
Vũ Văn Nhật*
Khoa Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
336 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 30 tháng 8 năm 2007
Tóm tắt. Trong khoa học cũng như trong thực tiễn hiện nay, khái niệm “Thông tin” là một trong
những khái niệm được sử dụng rộng rãi, đồng thời nó cũng lại gây ra nhiều cuộc thảo luận, tranh
cãi, với nhiều quan điểm khác nhau: Về thực thể thông tin, về những dấu hiệu, những hình thức
biểu hiện, những quan hệ của nó đối với các quy luật và phạm trù triế
t học, về vai trò của nó trong
quản lý, trong đời sống và trong sự phát triển của xã hội. Về những vấn đề này đã có khá nhiều bài
báo khoa học, các công trình nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước được đăng tải trong
các tài liệu chuyên môn và trên các phương tiện thông tin đại chúng [1]. Trong phạm vi của bài viết
này, chúng tôi xin được đề cập đến một khía cạnh khá quan trọng của thông tin xã hội: đó là cấu
trúc của thông tin xã hội và giá trị phương pháp luận củ
a nó trong truyền thông xã hội và đặc biệt
là trong lĩnh vực thông tin khoa học công nghệ và thông tin thư viện hiện đại.
1. Thông tin xã hội
*

Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về thông tin, tùy theo vào mục đích, ý
nghĩa và vị trí xem xét thông tin [2, 3]. Đứng
trên quan điểm ý nghĩa xã hội của thông tin
và sự vận dụng nó vào đời sống xã hội, đặc
biệt là lĩnh vực truyền thông xã hội, chúng tôi
định nghĩa thông tin xã hội một cách khái
quát như sau:
Thông tin xã hội là tri thức được diễn đạt


dưới hình thức các ký hiệu mà các thành viên
xã hội có thể hiểu được và có kh
ả năng làm
biến đổi trình độ hiểu biết của họ về thế giới
khách quan và cũng có thể làm thay đổi tình
trạng hệ kiến thức của họ (Thesaurus của họ)
________
* ĐT: 84-4-6620200
Email:
Với định nghĩa này, thông tin xã hội có 3
đặc trưng sau:
Tư duy: Thông tin xã hội là kết quả của sự
phản ánh ngữ nghĩa thế giới hiện thực. Trong
trường hợp ngược lại nó không thể tác động
lên hệ kiến thức của người dùng tin.
Hiểu: Các ký hiệu sử dụng trong truyền
thông xã hội phải có thể hiểu được đối với các
thành viên xã hội.
Mới: Thông tin xã hộ
i phải mang tri thức
mới cho người dùng tin, những tri thức mới
ấy có thể làm thay đổi (làm giàu thêm, bổ
sung thêm hoặc làm phong phú thêm) tình
trạng hệ kiến thức của người dùng tin và do
đó nó được sử dụng trong thực tiễn.
Để có thể thực hiện được sự truyền thông
xã hội, cần phải có hai yêu cầu:
Đảm bảo sự tương hợp hệ kiến thức của
người cung cấp thông tin và người dùng tin,
Vũ Văn Nhật / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197


192
họ cần phải có những hệ thống ký hiệu giống
nhau.
Các hệ kiến thức của người cung cấp
thông tin và người dùng tin phải khác nhau
về cấu trúc và sự tích lũy. Nếu ngược lại,
người cung cấp thông tin không thể thông
báo được bất kỳ một cái mới nào cho người
dùng tin.
Trong thực tiễn các yêu cầu trên thường
xuyên mâu thuẫn, trong nhiều trường hợp
chúng gây khó khăn cho việc truyền thông xã
hội.
2. C
ấu trúc của thông tin xã hội
Với định nghĩa như trên của chúng tôi về
thông tin xã hội, thì thông tin xã hội là tri
thức (hoặc sự hiểu biết của con người) về thế
giới khách quan: về sự tồn tại của xã hội; về
mối quan hệ giữa con người với con người
trong xã hội, giữa con người với thế giới tự
nhiên; về những tri thức khoa học và công
nghệ do con ngườ
i tạo ra và đang được sử
dụng ngày càng có hiệu quả trong nhận thức,
cải tạo và sống chung hòa đống với thế giới;
về các thành tựu văn hóa vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
phát triển lịch sử của nhân loại,… Như vậy tri

thức là nội dung của thông tin xã hội. Chính
vì vậy, chúng ta có thể hiểu: Tri thức của con
người về thế giới khách quan là thông tin xã
hội. Ngượ
c lại, thông tin xã hội là tri thức của
con người về thế giới khách quan (bao gồm cả
thế giới tự nhiên, xã hội và con người).
Tùy theo vào trình độ phát triển của xã
hội, con người đã sử dụng nhiều công cụ
khác nhau để lưu trữ và chuyển tải thông tin
trong không gian và thời gian, từ nơi này đến
nơi khác, từ thời này sang thời khác, từ thé hệ
này sang thế hệ khác bằng các hình thức ký
hiệu khác nhau: âm thanh, ánh sáng, màu sắ
c,
cử chỉ, ký hiệu quy ước, ngôn ngữ tự nhiên
và ngôn ngữ nhân tạo…, trong đó ngôn ngữ
tự nhiên (tiếng nói của con người) là công cụ
quan trọng nhất được sử dụng để chuyển tải
thông tin xã hội. Chúng ta đã biết: ngôn ngữ
vừa là công cụ của tư duy, vừa là công cụ
giao tiếp của con người trong xã hội. Với tư
cách là công cụ giao tiếp, ngôn ngữ chính là
công cụ của truyền thông xã hộ
i. Từ xa xưa,
nhất là trong xã hội hiện nay, ngôn ngữ tự
nhiên vẫn đóng vai trò chủ yếu, quan trọng
nhất trong mọi hoạt động truyền thông xã hội
[4].
Với sự trình bầy khái quát trên, theo quan

điểm của chúng tôi: Thông tin xã hội có hai
mặt cần phải được phân tích cấu trúc, đõ là
tri thức trong thông tin xã hội (nội dung
thông tin xã hội) và ký hiệu được dùng để
chuyển tải tri thức trong thông tin xã hội
(hình thức cuả thông tin xã hội). Nh
ư vậy,
chúng ta tiến hành phân tích cấu trúc của tri
thức tức là phân tích cấu trúc nội dung thông
tin xã hội và phân tích cấu trúc của ngôn ngữ
tự nhiên được dùng để chuyển tải thông tin,
tức là phân tích cấu trúc hình thức của thông
tin xã hội.
2.1. Cấu trúc nội dung của thông tin xã hội
Thông tin xã hội có 3 tầng cấu trúc liên
quan chặt chẽ với nhau, đó là: Dữ kiện kinh
nghiệm; Dữ kiện khoa học và Quan niệm.
Hay nói cách khác, các dữ kiện và quan niệm
là các yế
u tố tri thức của con người.
Dữ kiện (Tiếng Latinh - Factun): đó là các
đối tượng, quá trình, hoặc các sự kiện tồn tại
thực trong quá khứ và trong hiện tại. có 3 loại
dữ kiện:
Dữ kiện là các đối tượng: Các sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, nguyên vật liệu, các mỏ
Vũ Văn Nhật / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197

193
khoáng chất, các di chỉ văn hóa, các hiện vật

khảo cổ được trưng bầy ở bảo tàng, các đối
tượng địa lý kinh tế, văn hóa và môi trường
sinh thái…
Dữ kiện là các quá trình: công nghệ, tâm
lý, xã hội…
Dữ kiện là các sự kiện: Các sự kiện của
đời sống xã hội, các hiện tượng tự nhiên
(động đất, sóng thần, lũ lụt…)
Dữ kiện kinh nghiệm: Là những dữ kiệ
n
chưa được hệ thống hóa, chưa được khái quát
hóa. Con người thu nhận được các dữ kiện
kinh nghiệm là nhờ vào sự quan sát và thực
nghiệm. Những dữ kiện này phải đảm bảo
các yêu cầu: Một là, sự đơn nhất (dữ kiện đó
là đối tượng riêng biệt, quá trình hoặc sự kiện
tách ra từ hàng loạt các dữ kiện tương tự);
Hai là, độ tin cậy: chúng ta chỉ coi đó là d

kiện khi các đối tượng, các quá trình và các
dữ kiện được đặc trưng bởi tập hợp các tính
chất và thuộc tính của nó và quy định đó là
một cá thể riêng, độc lập không giống bất cứ
một dữ kiện nào.
Dữ kiện khoa học: Là những dữ kiện đã
được hệ thống hóa và khái quát hóa. Những
dữ kiện kinh nghiệm chỉ giúp con người nhận
biết được m
ột mặt nào đó hoặc một khía cạnh
nào đó của sự vật và hiện thực khách quan.

Hay nói một cách hình ảnh, nếu dừng ở mức
độ này, con người mới chỉ nhìn thấy cây và
chưa nhìn thấy rừng cây. Trong cuộc sống
hàng ngày, đặc biệt là trong công tác khoa
học con người luôn mong muốn hiểu biết
được các đối tượng và hiện tượng khách quan
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và khoa học hơn.
Trong công tác khoa họ
c, bên cạnh các dữ
kiện kinh nghiệm còn có các dữ kiện khoa
học. Để các dữ kiện kinh nghiệm có thể trở
thành các dữ kiện khoa học, nó không những
cần phải xác định mà nó còn phải được nhận
thức. Nhận thức bởi các dữ kiện tức là phải
chứng minh sự tồn tại của nó bằng các
phương pháp khoa học, các dữ kiện kinh
nghiệm phải được xử lý, phân tích - tổng h
ợp
khoa học và phải được khái quát hóa và trừu
tượng hóa. Các dữ kiện này trở thành những
yếu tố của cả hệ thống tri thức. Như vậy, dữ
kiện khoa học là dữ kiện kinh nghiệm được
chứng minh, đựơc hệ thống hóa, khái quát
hóa và được trừu tượng hóa bằng các phương
pháp khoa học.
Trong thực tiễn, nếu đứng trên quan điểm
của Thông tin học hiện đại thì b
ất cứ một
công trình khoa học, một tác phẩm nghệ
thuật hoặc một văn bản nào của Đảng và Nhà

nước (thí dụ như các văn kiện Đại hội Đảng)
đều được xem như là các thông báo tin. Nếu
phân tích cấu trúc của chúng, thì chúng ta
cũng thấy chúng đều có cấu trúc nội dung
như chúng ta đã phân tích trên.
Quan niệm (tiếng Latinh: conceptis - tư
tưởng): Đó là sự hiểu thấu về các mối quan hệ

qua lại giữa các dữ kiện, được tạo ra trong
quá trình tư duy trừu tượng và lôgíc nhằm
giải thích các dữ kiện đang được quan sát,
phát hiện ra các quy luật đẻ điều khiển các dữ
kiện nào đó, hoặc để lãnh đạo và quản lý hoạt
động của con người. Có thể phân chia quan
niệm thành 3 loại:
Quan niệm - Kiến nghị: Phản ánh quan
niệm của một cá nhân hoặc một nhóm người
v
ề mối quan hệ qua lại giữa các dữ kiện (các ý
kiến, đánh giá, giả thuyết và dự báo…).
Quan niệm - Quy luật: Phản ánh các mối
quan hệ qua lại tất yếu giữa các dữ kiện (lý
thuyết khoa học).
Quan niệm - Chỉ thị: Chế định hoạt động
của con người trong từng tình huống và hoàn
cảnh cụ thể (các chỉ thị, hướng dẫn, quy tắc
và các phương pháp…).
D
ữ kiện kinh nghiệm, dữ kiện khoa học
và quan niệm là 3 cấp độ cấu trúc của tri thức

Vũ Văn Nhật / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197

194
và chúng có quan hệ hữu cơ với nhau tạo
thành hệ kiến thức của con người. Thông tin
về dữ kiện kinh nghiệm được gọi là thông tin
dữ kiện kinh nghiệm; Thông tin về dữ kiện
khoa học được gọi là thông tin dữ kiện khoa
học; Còn thông tin về quan niệm thì được gọi
là thông tin quan niệm.
Như vậy, cấu trúc nội dung của thông tin
xã hội có 3 cấp cấu trúc, tương ứng với chúng
là 3 loại thông tin xã hộ
i: Thông tin dữ kiện
kinh nghiệm; Thông tin dữ kiện khoa học và
Thông tin quan niệm (thông tin về kiến nghị,
thông tin về các quy luật và thông tin về các
chỉ thị).
2.2. Cấu trúc hình thức của thông tin xã hội
Ngôn ngữ tự nhiên được sử dụng để làm
hình thức thể hiện của thông tin xã hội. Chính
vì vậy khi chúng ta nghiên cứu cấu trúc ngôn
ngữ tự nhiên tức là chúng ta nghiên cứu cấu
trúc hình thức của thông tin xã hội và cũng
chính điều này đ
ã nói lên rằng ngôn ngữ học
đóng vai trò cơ sở lý luận và phương pháp
luận cho việc nghiên cứu cấu trúc hình thức
của thông tin xã hội [5].
Ngôn ngữ là một hệ thống bởi vì nó cũng

bao gồm các yếu tố và các quan hệ giữa các
yếu tố đó. Các yếu tố trong hệ thống ngôn
ngữ chính là các đơn vị của ngôn ngữ. Cấu
trúc của ngôn ngữ tự nhiên có những mức độ
sau đây:
Mức độ âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ
nhất mà người ta có thể phân ra được trong
chuỗi lời nói. Thí dụ: các âm a, b, c… hoàn
toàn không có thể chia nhỏ chúng hơn nữa.
Trong ngôn ngữ nói tổ hợp các âm là tổ hợp
các chữ cái hoặc các vần. Âm vị có chức năng
nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa. Bản
thân các âm vị là vật chất (âm thanh). Cho
nên nó có thể tác động đến giác quan của con
người, nh
ờ đó con người có thể lĩnh hội được.
Âm vị không biểu thị ý nghĩa nào cả nhưng
lại có tác dụng phân biệt ý nghĩa.
Mức độ từ vị: Từ là chuỗi kết hợp của một
hoặc một vài hình vị mang chức năng gọi tên
và chức năng ngữ nghĩa. Hay nói cách khác
đó là từ vựng, quy tắc xây dựng và sự biến
đổi của từ. Thí dụ nh
ư: Thông tin, Tin tức, Xã
hội, Thư viện, Sách, Báo…
Mức độ câu - cú pháp (Mệnh đề, các tổ hợp
từ): Câu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ,
chức năng của nó là chức năng thông báo [6].
Cấu trúc của ngôn ngữ tự nhiên đã được
Ngôn ngữ học cấu trúc nghiên cứu ngay từ

những năm giữa thế kỷ XX. Với tư cách là
một bộ phận cấu thành c
ủa Ký hiệu học, ngôn
ngữ học cấu trúc sắp xếp cấu trúc ngôn ngữ
theo 2 trục: Trục ngữ đoạn (Trục ngang) và
Trục hình thái - Hệ biến hóa (Trục đứng).















Vũ Văn Nhật / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197

195


Trục ngữ đoạn: Quy định trật tự các yếu tố
của các mức độ khác nhau (âm vị, các bộ
phận của từ, các từ) trong các thông báo để
nhận được cách biểu đạt ngôn ngữ đúng - các

ngữ đoạn. Cần lưu ý rằng các ngữ đoạn của
mức độ ngôn ngữ này đều có thể được xem là
yếu tố của các mức độ ngôn ngữ
cao hơn. Thí
dụ như: Các ngữ đoạn âm vị là các từ, đó là
các yếu tố của mức độ từ vị; các ngữ đoạn từ
vị hoặc các liên kết của các từ là câu (mệnh
đề), đó là các yếu tố của mức độ ngữ pháp…
Chính vì vậy, các mức độ khác nhau của
ngôn ngữ được liên kết với nhau.
Trục hình thái: Hệ biến hóa phản ánh các
m
ối quan hệ qua lại của các yếu tố trong cùng
một mức độ ngôn ngữ. Tổ hợp các yếu tố
ngôn ngữ được sắp xếp thành nhóm theo dấu
hiệu giống nhau và khác nhau được gọi là
Bảng hình thái - Hệ biến hóa. Thí dụ: ở mức
độ từ vị có thể liên kết các từ có cùng chung
cách viết và phát âm giống nhau vào một
bảng hình thái (Các từ đồng âm, hoặc các từ
có nghĩa tương đương, các đồng ngh
ĩa hoặc
các từ trái nghĩa nhau) [7].
Các yếu tố của mức độ câu (mệnh đề)
cũng có thể tạo thành các ngữ đoạn, đó là văn
bản và các bảng hình thái. Thí dụ như trong
hệ thống mục lục chủ đề, các tiêu đề chủ đề là
các câu (các mệnh đề) của ngôn ngữ tự nhiên
được xây dựng theo một quy tắc nhất định.
Mục lục chủ đề có th

ể được xem là sự tổ chức
các bảng hình thái ở mức độ câu (mệnh đề)
của ngôn ngữ tự nhiên.
Sự phân biệt khác nhau của Trục hình
thái và Trục ngữ đoạn có ý nghĩa nhận thức
hết sức sâu sắc đối với việc phân tích các hệ
Vũ Văn Nhật / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197

196
thống ký hiệu khác nhau. Thông tin học đặc
biệt chú ý đến cấu trúc văn bản, vì văn bản là
các thông báo của thông tin xã hội. Với việc
áp dụng phương pháp ngôn ngữ cấu trúc,
bên cạnh các mức độ âm vị, từ vị và câu
(mệnh đề), chúng ta có thể đưa thêm mức độ
văn bản và tổ hợp văn bản (tổ hợp các thông
báo tin). Chẳng hạn như trong lĩnh vực thông
tin - thư viện: n
ếu như coi các ấn phẩm với tư
cách là các thông báo dưới dạng văn bản, thì
các ngữ đoạn văn bản chính là kho sách, còn
các bảng hình thái - đó là đề mục của mục lục
phân loại thư viện - thư mục.
Như vậy, trên đây chúng ta đã tiễn hành
nghiên cứu cấu trúc hình thức của thông tin
xã hội trên cơ sở phân tích ngôn ngữ học,
không những nhằm mục đích nhấn mạ
nh đến
bản chất ngữ nghĩa của thông tin xã hội, mà
còn nói lên sự cần thiết nắm vững phương

pháp luận Ngôn ngữ học cấu trúc để giải
thích, lý giải một cách khoa học những vấn để
kỹ thuật thư viện - thư mục truyền thống (Thí
dụ như các bảng phân loại thư viện - thư
mục, các hệ thống mục lục thư việ
n, các kỹ
thuật xây dụng kho sách thư viện…) và đồng
thời để nghiên cứu xây dựng các phương
pháp và các công cụ thông tin - thư viện hiện
đại (từ khóa, từ chuẩn, các công cụ tra cứu
tìm tin hiện đại, tin học hóa).
Mức độ văn bản không những được
Thông tin học nghiên cứu mà còn được các bộ
môn khoa học khác nghiên cứu. Thí dụ: các
văn bản nghệ thuật là thông tin nghệ thuật
được Ký hiệu học ngh
ệ thuật nghiên cứu và
lý Luận văn học cấu trúc nghiên cứu. Ký hiệu
học kinh tế có nhiệm vụ nghiên cứu phân tích
các ngôn ngữ được sử dụng để ghi và truyền
đạt thông tin kinh tế. Ký hiệu học khoa học
công nghệ nghiên cứu các ngôn ngữ nhân tạo
để truyền đạt, phổ biến các thông tin khoa
học công nghệ trong xã hội. Các bảng phân
loại thư viện - thư mục (UDC, DDC, BBK…,
và các bộ từ khóa từ chuẩn) là các thì d
ụ điển
hình được xây dựng và phát triển ngày càng
hoàn chỉnh trên có sở phương pháp luận của
Ký hiệu học khoa học và công nghệ hiện đại.

Qua sự phân tích trên, có thể đi đến kết
luận: Tri thức của con người về thế giới khách
quan (tự nhiên, xã hội và con người) là nội
dung của thông tin xã hội; Ngôn ngữ tự
nhiên của con người là hình thức biểu đạt của
thông tin xã hội. Các phương pháp luận khoa
học của Lý luận nhận thức, Tâm lý học, Ngôn
ngữ học cấu trúc… được sử dụng để phân
tích cấu trúc nội dung và hình thức của thông
tin xã hội. Chính điều này một lần nữa nói lên
Thông tin học có quan hệ chặt chẽ với Triết
học, Tâm lý học, Ký hiệu học và Ngôn ngữ
học. Những kết quả của sự phân tích cấu trúc
nội dung và hình thức của thông tin xã hội có
thể dùng làm c
ơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu xây dựng các công cụ lưu trữ, tra cứu tìm
tin hiện đại với sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin như: Các bộ từ chuẩn, từ khóa tìm
tin, các CSDL thư mục, dữ kiện, toàn văn và
các ngân hàng dữ liệu, đồng thời làm cơ sở lý
luận và phương pháp luận để giải thích một
cách có căn cứ khoa học về các kỹ thuật thông
tin thư
viện thư mục truyền thống, thủ công,
thí dụ như: cấu trúc của các bảng phân loại
thư viện - thư mục, các hệ thống mục lục thư
viện và các bản thư mục tra cứu tìm tin khoa
học và công nghệ đang giữ vai trò đặc biệt
quan trọng và cũng còn đang được sử dụng

rộng rãi trong các cơ quan thông tin - thư
viện hiện nay ở Viêt Nam và trên thế giới.
Tài li
ệu tham khảo
[1] V.G. Afanaxép, Thông tin xã hội và quản lý xã hội,
NXB Khoa học Xã hội, 1979, tr.5.
Vũ Văn Nhật / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 191-197

197
[2] Claudia Mast, Truyền thông đại chúng - những
kiến thức cơ bản, NXB. Thông tấn, 2003, tr.8-12.
[3] Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, NXB
Chính trị Quốc gia, 2004, tr.38.
[4] Philipp Breton, Serge Proulx, Bùng nổ truyền
thông, NXB Văn hóa, 1996, tr.7-12.
[5] Vũ Văn Nhật, Mối quan hệ của Thông tin học
với các khoa học trong hệ thống các khoa học,
Tạp chí Khoa học - Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Tập 22, số 4 (2006), tr.57.
[6] Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn
Minh Thuyết, Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục, 1994.
[7] Vũ Văn Nhật, Nghiên cứu xây dựng bộ từ chuẩn
tìm tin cho các CSDL chuyên ngành khoa học Thông
tin - Thư viện (Đề tài NCK cấp ĐHQGHN, Mã
số: QX 2000-08), 2002, 216tr.


Social information structrure
Vu Van Nhat

Information and Library Faculty, College of Social Sciences and Humanities, VNU
336 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
In this study, three following mail issues are mentioned by the author:
General notion of contents of social information (IS) and its scientific definiton.
On the base of theory for realying and languisties structure; analysing its contents and formal
structure.
Methodology significance and practical value of SI structure analyze for studying and
developing theory and practice of traditional and modem library information.

×