Luận văn
Giải pháp kiểm soát vốn thực
sự hiệu quả trong sự hài hòa
với những mục tiêu còn lại
của “tam giác bất khả thi”
1
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 2
CHƯƠNG 1: KIỂM SOÁT VỐN NHẰM NGĂN CHẶN SỰ ĐẢO NGƯỢC
DÒNG VỐN CỦA CÁC QUỐC GIA 2
1.Mục tiêu chung của việc kiểm soát vốn 2
2.Lý thuyết về kiểm soát vốn 5
Khái niệm 5
Các hình thức kiểm soát vốn 6
Các lý do kiểm soát vốn 6
Mặt trái của kiểm soát vốn 7
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT VỐN CỦA “NGƯỜI KHỔNG LỒ
TRUNG QUỐC„ 8
1.Kinh nghiệm thế giới về kiểm soát vốn 8
2.Kinh nghiệm kiểm soát vốn của „Người khổng lồ Trung Quốc“ 9
Phân khúc thị trường theo từng loại nhà đầu tư 9
Cấp chứng nhận các nhà đầu tư đủ tư cách (QFIIs) và ban hành các quy định
dành cho QFIIs 12
Giải pháp hỗ trợ cho việc kiềm soát dòng vốn FPI ở Trung Quốc – Đầu tư ra nước
ngoài 15
2
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ KIỂM SOÁT VỐN TRONG THỜI
GIAN QUA? NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT LÊN
DÒNG VỐN FPI 16
1.Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO 16
2.Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO 19
2.1.Những ràng buộc của Việt Nam khi gia nhập WTO
về đầu tư gián tiếp nước ngoài 19
2.2.Các biện pháp kiểm soát của Chính phủ 20
2.2.1. Các biện pháp hành chính 20
2.2.2. Can thiệp vô hiệu hóa 24
3. Đánh giá hiệu quả kiểm soát vốn ở Việt Nam trong thời gian qua 27
3.1.Thành tựu 27
3.2.Hạn chế 28
CHƯƠNG 4: GÓI GIẢI PHÁP TỰ DO HÓA CÓ KIỂM SOÁT VÀ PHÒNG NGỪA
ĐỐI VỚI DÒNG VỐN FPI 30
1.Nới lỏng các giải pháp hành chính 30
Nới lỏng tỷ lệ về vốn cổ phần do cổ đông nước ngoài nắm giữ 30
Mở rộng ngành nghề được phép bán cổ phần cho nhà ĐTNN 34
2.Đề xuất giải pháp thị trường mới 35
. Triển khai giao dịch cổ phiếu bằng ngoại tệ 35
3.Các giải pháp hỗ trợ khác 36
Đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài 36
Tăng cường hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) 38
Nới lỏng biên độ giao dịch tỷ giá hối đoái 42
4.Các giải pháp phòng ngừa 43
Gia tăng dự trữ ngoại hối 43
Ngăn ngừa tình trạng Đôla hóa 46
Nâng cao vị thế đồng Việt Nam- Tăng cường khả năng chuyển đổi hoàn toàn đồng
nội tệ 47
3
PHẦN KẾT LUẬN 50
PHẦN PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Những lý luận cơ bản về đầu tư gián tiếp nước ngoài
PHỤ LỤC 2: Thực trạng thu hút FPI ở Việt Nam trong thời gian qua
PHỤ LỤC 3: Kiểm định kiểm soát vốn tại Việt Nam bằng Lý thuyết ngang giá sức
mua PPP
PHỤ LỤC 4: Danh mục các ngành nghề cho phép người nước ngoài mua cổ phần
PHỤ LỤC 5: Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng cho nhà đầu tư nước
ngoài
PHỤ LỤC 6: Danh mục những ngành nghề, lĩnh vực nhà nước nắm giữ 100% vốn
4
DANH MỤC BẢNG
BẢNG 1.1: Độ dài và mức độ ảnh hưởng sâu rộng của các cuộc khủng hoảng 5
BẢNG 4.1: Hệ thống các tiêu chí của tổ chức VAFI về tỷ lệ đầu tư
của nhà ĐTNN vào lĩnh vực ngân hàng 32
BẢNG 4.2: Tình hình đô la hóa ở Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2006 46
5
DANH MỤC HÌNH
HÌNH 1.1: Đánh giá rủi ro kinh tế toàn cầu trong giai đoạn năm 1998- 2006 3
HÌNH 3.1: So sánh quy mô giao dịch trên TTCK Việt Nam năm 2005 và 2006 18
HÌNH 3.2: Lãi suất VNIBOR qua đêm tháng 2/2008 26
HÌNH 3.3: Thành phần các luồng vốn vào VN từ năm 1996 đến năm 2003 28
HÌNH 4.1: Tình hình đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam từ năm 1991- 2007 36
HÌNH 4.2: Đầu tư ra nước ngoài theo quốc gia ở Việt Nam từ năm 1991- 2007 36
HÌNH 4.3: Đầu tư ra nước ngoài phân theo ngành ở Việt Nam từ năm 1991- 2007 37
HÌNH 4.4: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam so với một số quốc gia
trong khu vực tính đến tháng 12/2007 44
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AIM : Alternative Investment Market- Sàn chứng khoán thứ cấp
AUM : Assets under Management
CSRC : Ủy ban quản lý chứng khoán Trung Quốc
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
ĐTRNN : Đầu tư ra nước ngoài
FDI : Foreign Direct Investment- Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPI : Foreign Portfolio Investment- Đầu tư gián tiếp nước ngoài
IMF : Quỹ tiền tệ thế giới
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTW : Ngân hàng trung ương
PPP : Power Purcharsing Parity- Lý thuyết Ngang giá lãi suất
PBOC : Ngân hàng nhân dân Trung Hoa
QFII : Nhà đầu tư tổ chức nước ngoài đủ tiêu chuẩn
RMB : Cách gọi khác của đồng Nhân dân tệ
SAFE : Cơ quan quản lý ngoại hối nhà nước của Trung Quốc
TTCK : Thị trường chứng khoán
7
UBCKNN : Ủy ban chứng khoán nhà nước
USD : Đồng Đôla Mỹ
VND : Đồng Việt Nam
WTO : World Trade Organization- Tổ chức thương mại thế giới
8
PHAÀN MÔÛ ÑAÀU
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ra đời cùng với việc thực hiện chính sách
đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng năm 1986 khởi xướng. Một năm sau đó, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật đầu
tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho thu hút đầu tư nước ngoài. Đạo luật này đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống và thu được kết quả khả quan.
Ngày 7/11/2006, sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới là một trong những khởi đầu quan trọng của quá trình thực hiện
chính sách chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO đã mở ra cho
nước ta những cơ hội mới, cùng với những thách thức gay gắt, tác động sâu rộng đến hoạt
động đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cùng với sự bùng nổ của Thị trường chứng khoán,
Việt Nam trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài và các quỹ
đầu tư trên thế giới.
Tận dụng những cơ hội và vượt qua những thách thức và khó khăn, nền kinh tế
Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm với sự đóng góp không
nhỏ của dòng vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có vốn đầu tư gián tiếp FPI. Tuy nhiên, do
chưa nhận thức đầy đủ vai trò, lợi ích cũng như quá e ngại những rủi ro mà dòng vốn này
có thể mang lại, bằng những biện pháp kiểm soát vốn gắt gao, Chính phủ đã giới hạn
dòng chảy vào và ra của vốn FPI trước sự tiếc nuối của các nhà đầu tư nước ngoài lẫn sự
mong chờ một thị trường chứng khoán phát triển của các nhà đầu tư trong nước.
Với những kinh nghiệm quý báu có được trong việc thực hiện thu hút đầu tư nước
ngoài sau hơn 20 năm đổi mới, với thế và lực mới của đất nước sau khi gia nhập WTO,
làm thế nào để dòng vốn FPI phát huy hơn nữa vai trò tích cực đối với nền kinh tế nhưng
vẫn tránh được những đổ vỡ là công việc hết sức cấp bách và quan trọng hiện nay. Trong
đề tài này, chúng tôi có nghiên cứu những biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc và
những thành công mà Trung Quốc đã đạt được trong việc vừa thu hút vừa kiểm soát dòng
vốn FPI trong thời gian qua, đặc biệt là từ sau khi TTCK Trung Quốc bùng nổ. Mục đích
của việc nghiên cứu này là để tìm ra gói giải pháp kiểm soát vốn thực sự hiệu quả trong
sự hài hòa với những mục tiêu còn lại của “tam giác bất khả thi”, giúp Việt Nam có thể
tiếp cận dòng vốn toàn cầu nhưng tránh được nguy hiểm.
9
PHAÀN NOÄI DUNG
CHƯƠNG 1: KIỂM SOÁT VỐN NHẰM NGĂN CHẶN SỰ ĐẢO
NGƯỢC DÒNG VỐN CỦA CÁC QUỐC GIA
1. MỤC TIÊU CHUNG CỦA VIỆC KIỂM SOÁT VỐN
Một lập luận cơ bản nói rằng một quốc gia không nên kiểm soát các tài khoản vốn,
điều đó tương tự như một lập luận ủng hộ cho việc tự do hóa thương mại hàng hóa và
dịch vụ. Cũng như lời lập luận của Stanley Fischer (1998), sự dịch chuyển dòng vốn một
cách tự do sẽ giúp dễ dàng phân bổ nguồn tiền nhàn rỗi trên thế giới một cách hiệu quả
và dẫn những nguồn tiền nhàn rỗi này đến những nơi sử dụng thiết thực nhất, từ đó là gia
tăng sự tăng trưởng kinh tế và phúc lợi.
Nói một cách dễ hiểu hơn, sự dịch chuyển vốn tự do sẽ:
(1) Gia tăng phúc lợi cho người tiêu dùng thông qua việc cung cấp nhiều cơ hội
đầu tư mang tính quốc tế hơn;
(2) Mở ra nhiều cơ hội cho sự đa dạng hóa danh mục và do đó cung cấp cho các
nhà đầu tư ở những nước công nghiệp lẫn ở các nước đang phát triển khả năng đạt được
một tỷ suất sinh lợi cao tương ứng với rủi ro cao;
Ngoài ra, Cooper (1998) còn đưa thêm ba lý do khác cho việc tự do hóa dòng vốn.
Thứ nhất, mỗi cá nhân nên được tự do tùy ý quyết định tài sản và thu nhập của chính
mình sao cho họ thấy phù hợp, miễn là điếu đó không làm tổn hại đến người khác. Lý do
thứ hai là các rào cản ngăn cấm các dòng vốn tự do sẽ không còn hiệu lực nữa. Trong các
thị trường tài chính hiện đại, các công cụ tài chính đều có thể thay thế được và các thị
trường khả năng tránh được những sự kiểm soát vốn. Lý do thứ ba kiểm soát vốn làm
phát sinh sự thiên vị, hối lộ và tham nhũng.
Tuy nhiên, sau nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng tài chính, đặc biệt
là cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, ngày càng có nhiều nền kinh tế thị trường mới
nổi và nhiều nước đang phát triển đang mất đi sự tin tưởng vào sự tồn tại của thị trường
tự do.
10
HÌNH 1.1: Đánh giá rủi ro kinh tế toàn cầu trong giai đoạn năm 1998 đến năm 2006
Nhiều nhà kinh tế và cơ quan Nhà nước đã lưu ý rằng không có sự tương đồng
giữa tự do hóa thương mại và tự do hóa tài khoản vốn. Những bất lợi của sự dịch chuyển
vốn tự do được thể hiện ở những điểm sau:
(1) Sự dịch chuyển vốn tự do lấy đi quyền tự chủ trong việc xây dựng các chính sách
liên quan đến tiền tệ của một nước khi nước đó áp dụng chế độ tỷ giá cố định.
(2) Một khi vị thế đối ngoại của một nền kinh tế hoặc là các chỉ số kinh tế vĩ mô trở
nên tồi tệ hơn thì các dòng vốn tự do có thể sẽ gây nên làn sóng đầu cơ, kéo theo
phía sau là một cuộc khủng hoảng tiền tệ hoặc thậm chí là cuộc khủng hoảng tài
chính.
-300
200
700
1200
1700
2200
2700
01.01.98
01.05.98
01.09.98
01.01.99
01.05.99
01.09.99
01.01.00
01.05.00
01.09.00
01.01.01
01.05.01
01.09.01
01.01.02
01.05.02
01.09.02
01.01.03
01.05.03
01.09.03
01.01.04
01.05.04
01.09.04
01.01.05
01.05.05
01.09.05
01.01.06
Asia Latin America Central- and Eastern Europe EMBI Global
11
Tự do hoá tài khoản vốn đối với các Hệ thống tài chính yếu:
(3) Sau khi tự do hóa tài khoản vốn, các dòng vốn vào quá mức cũng sẽ gây ra tổng
cầu nội địa quá mức và tạo ra các mức độ giá cả cao hơn. Việc này làm tăng giá
trị của tỷ giá hối đoái thực và do đó làm triệt tiêu tính cạnh tranh của xuất nhập
khẩu.
(4) Ở các nền kinh tế mới nổi và ở các nước đang phát triển, do các thị trường tài
chính nội địa còn kém phát triển và do có sự giám sát nên các dòng vốn tự do có
xu hướng mang tính đầu cơ. Điều này lại gây hại cho sự ổn định và phát triển của
thị trường tài chính trong nước.
(5) Do sự bảo hộ không phù hợp những của cải mang tính cá nhân hoặc do các thị
trường tài chính trong nước còn kém phát triển nên sự tự do hóa dòng vốn có xu
hướng gây ra hiện tượng đảo ngược, làm giảm sự tích lũy vốn trong nước và sự
tăng trưởng kinh tế.
Một số cuộc khủng hoảng gần đây ở các nền kinh tế thị trường mới nổi:
• Mehico 1994- 1995
• Châu Á 1997
• Nga 1998
• Brazil 1998- 1999
• Thổ Nhĩ Kỳ 2000- 2001
T
ự do hoá t
ài kho
ản vốn
Tăng lư
ợng vốn (ngắn hạn) v
ào
Phân b
ổ không đúng các nguồn t
ài chính
Đánh m
ất sự tin t
ư
ởng của các nh
à đ
ầu t
ư qu
ốc tế
S
ự dừng lại đột ngột của d
òng v
ốn v
ào và đ
ảo ng
ư
ợc d
òng v
ốn
Kh
ủng hoảng t
ài chính
12
• Achentina 2001- 2002
BẢNG 1.1: Độ dài và mức độ ảnh hưởng sâu rộng của các cuộc khủng hoảng
Độ dài trung bình
(tính theo năm)
Luỹ kế Mức độ giảm
của GDP (%)
Khủng hoảng tiền tệ 2.1 5.9
Khủng hoảng ngân hàng 2.6 6.2
Khủng hoảng tiền tệ và ngâ
n
hàng
3.8 18.6
Tất cả các cuộc khủng hoảng
2.5 8.3
(Nguồn: Số liệu của 56 quốc gia trong khoảng thời gian 1973 – 97- Bordo, Eichengreen,
Klingebiel, Martinez-Peria (2001) Economic Policy, April 2001)
Cả trong lý thuyết và thực tiễn, sự dịch chuyển dòng vốn tự do dường như là một
con dao hai lưỡi. Một mặt nó giúp cải thiện phúc lợi của nền kinh tế. Mặt khác nó rất
nguy hiểm – đặc biệt đối với những ai chưa được chuẩn bị đầy đủ. Những lý thuyết và
bằng chứng hầu như không thể quyết định một cách chính xác là sự dịch chuyển vốn tự
do là tốt hay xấu. Do đó, không có sự dịch chuyển vốn nào tự do hoàn toàn hoặc rào cản
nào hoàn toàn cản trở sự dịch chuyển dòng vốn trong thực tế.
Định nghĩa mục đích kiểm soát vốn có lẽ là quá ngắn gọn, một định nghĩa mang
tính thực tiễn hơn đó là các mục tiêu của kiểm soát vốn thì tương tự với mục tiêu của các
chính sách vĩ mô khác, hướng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì sự tăng trưởng kinh
tế. Sự ổn định kinh tế vĩ mô bao gồm lạm phát thấp, tạo ra việc làm đầy đủ cho người dân
và duy trì vị thế đối ngoại. Sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sự tích lũy vốn
và sự phân bổ nguồn lực hiệu quả. Vì thế, chúng ta cũng có thể định nghĩa mục tiêu của
kiểm soát vốn là lạm phát thấp, công ăn việc làm đầy đủ, duy trì vị thế đối ngoại và phân
bổ nguồn lực hiệu quả.
2. LÝ THUYẾT VỀ KIỂM SOÁT VỐN
Khái niệm
Kiểm soát vốn là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình
thức khác nhau, để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và chảy ra khỏi
một quốc gia để nhằm đạt mục tiêu nhất định của chính phủ.
13
Các hình thức kiểm soát vốn
Kiểm soát vốn trực tiếp
Còn gọi là kiểm soát vốn mang tính hành chính: là việc hạn chế những giao dịch vốn,
những khoản thanh toán liên quan đến giao dịch vốn và việc chuyển tiền bằng những quy
định mang tính hành chính. Kiểm soát hành chính tác động đến số lượng những giao dịch
tài chính từ nước này sang nước khác. Thông thường, loại kiểm soát này áp đặt những
nghĩa vụ hành chính lên hệ thống ngân hàng để kiểm tra dòng vốn.
Kiểm soát vốn gián tiếp
Còn gọi là kiểm soát vốn dựa trên cơ sở thị trường: là việc hạn chế những biến động
của dòng vốn và những giao dịch khác thông qua các biện pháp thị trường, chủ yếu là
làm cho các giao dịch này phải tốn kém nhiều chi phí hơn, từ đó hạn chế những giao dịch
này. Việc kiểm soát vốn có thể xảy ra dưới các hình thức khác nhau như hệ thống đa tỷ
giá, đánh thuế ngầm hoặc công khai lên dòng vốn quốc tế, nhưng chủ yếu là đánh thuế
vào các dòng vốn ngắn hạn và khuyến khích các dòng vốn dài hạn.
Các lý do kiểm soát vốn
Nhìn chung, kiểm soát vốn được coi là biện pháp tốt thứ hai đối với quy chế thận
trọng của hệ thống tài chính và các chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh. Tuy nhiên, sự kết
hợp các chính sách một cách hợp lý sẽ khác nhau giữa các quốc gia bởi vì các mục tiêu
chính sách là khác nhau. Nhìn chung, nguyên nhân chính của việc kiểm soát vốn là nhằm
hạn chế những rủi ro mà dòng vốn FPI có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế, giảm thiểu
nguy cơ khủng hoảng.
Kiểm soát luồng vốn ra, nhằm:
Hạn chế tài chính hoặc phân bổ tín dụng
Điều chỉnh thâm hụt cán cân thanh toán
Tạo thu nhập hoặc tài trợ chiến tranh
Kiểm soát luồng vốn vào, nhằm:
Ngăn chặn dòng vốn vào tiềm ẩn sự bất ổn
Ngăn ngừa nguy cơ mất ổn định tài chính
Ngăn ngừa sự tăng giá thực tế
Hạn chế sở hữu nước ngoài đối với các tài sản trong nước
14
Điều chỉnh thặng dư cán cân thanh toán
Mặt trái của kiểm soát vốn
- Kiểm soát luồng vốn, nhất là những hạn chế toàn diện được áp dụng, có thể gây
trở ngại cho các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai.
- Các biện pháp kiểm soát có thể đòi hỏi chi phí hành chính khá lớn nhằm đảm bảo
thực thi có hiệu quả.
- Các biện pháp kiểm soát vốn nhằm bảo vệ thị trường trong nước có thể dẫn đến
việc trì hoãn điều chỉnh những chính sách cần thiết.
- Các biện pháp kiểm soát vốn có thể làm nảy sinh những nhận thức tiêu cực về thị
trường, quốc gia áp dụng phải tốn kém hơn và khó khăn hơn trong việc tiếp cận
nguồn vốn nước ngoài.
15
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT VỐN CỦA “NGƯỜI
KHỔNG LỒ TRUNG QUỐC„
1. KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VỀ KIỂM SOÁT VỐN
Kinh nghiệm các nước cho thấy, việc kiểm soát luồng vốn ra được quan tâm
nhiều hơn từ sau những cuộc khủng hoảng tài chính. Một số nước như Tây Ban Nha,
Malaysia, Thái Lan thực hiện kiểm soát luồng vốn ra trước áp lực lớn về tỷ giá, mục tiêu
là ngăn chặn đầu cơ và ổn định thị trường ngoại hối trong bối cảnh dự trữ ngoại hối giảm
mạnh, các cơ quan tiền tệ trong nước có khoảng thời gian nhất định để khắc phục những
mất cân bằng về kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng. Trong đó, Tây
Ban Nha phải thỏa thuận với các nước thành viên trong hệ thống về quyết định thay đổi
tỷ giá, Thái Lan áp dụng cơ chế “neo” tỷ giá tại thời điểm áp đặt kiểm soát, Malaysia
thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước.
Nhằm hạn chế luồng vốn ra, Malaysia thực hiện đánh thuế vào lợi nhuận từ đầu tư
gián tiếp không kể cổ tức và lãi thu được, thu nhập liên quan đến các giao dịch vãng lai
và các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thái Lan yêu cầu các tổ chức tài chính hạn chế và đình chỉ các giao dịch với
người không cư trú (bao gồm cho vay đồng baht qua giao dịch hoán đổi, giao dịch kỳ hạn
về đồng baht và bán đồng baht lấy ngoại tệ), phải thanh toán bằng đô la Mỹ đối với giao
dịch mua hối phiếu bằng đồng baht trước kỳ hạn và những công cụ nợ khác, cấm các nhà
đầu tư cổ phiếu nước ngoài chuyển vốn về nước bằng đồng baht (nhưng được tự do
chuyển vốn bằng ngoại tệ), người không cư trú phải áp dụng tỷ giá nước ngoài khi
chuyển đổi lợi nhuận bằng đồng baht thu được từ việc bán chứng khoán.
Về kiểm soát luồng vốn ra, kinh nghiệm của các nước cho thấy:
- Để đảm bảo hiệu quả, các kiểm soát phải toàn diện và cần được tiến hành một cách
bắt buộc đồng thời với cải cách và điều chỉnh chính sách cần thiết. Hiệu quả của những
kiểm soát này dường như bị hạn chế trong những thị trường phức tạp.
- Bên cạnh những tác động tích cực, các biện pháp kiểm soát có thể dẫn đến phản ứng
tiêu cực hơn từ các thị trường tài chính quốc tế và làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu
tư quốc tế;
16
- Các kiểm soát không có tác dụng bảo vệ kéo dài khi phải đối mặt với động cơ tránh
kiểm soát, nhất là chênh lệch thu nhập hấp dẫn và kỳ vọng lớn của thị trường vào việc
giảm tỷ giá hối đoái.
- Khả năng kiểm soát hoạt động thị trường nước ngoài có thể là phương tiện để hạn
chế luồng vốn vào và ngăn chặn các áp lực đầu cơ.
- Các biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro của các giao dịch hợp pháp, bao gồm đầu tư trực
tiếp nước ngoài và các giao dịch phòng ngừa liên quan đến thương mại, nhưng có thể làm
tăng chi phí tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
2. KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT VỐN CỦA „NGƯỜI KHỔNG LỒ TRUNG
QUỐC“
Trước khi gia nhập WTO, các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc hầu như là
các biện pháp hành chính, được thể hiện thông qua các quy định cấm hoặc hạn chế
chuyển vốn ra nước ngoài, việc chuyển vốn ra và vào Trung Quốc cần phải có sự chấp
thuận của chính phủ; hay thông qua các quy định không cho các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào các ngành quan trọng như là viễn thông, vận tải, năng lượng, quốc phòng,
hoặc quy định giới hạn quyền sở hữu đối với các nhà đầu tư nước ngoài… Trong thời
gian qua các biện pháp này được đánh giá là hiệu quả trong việc kiểm soát dòng vốn đầu
tư nước ngoài. Minh chứng rõ ràng nhất cho sự hiệu quả này là Trung Quốc đã chịu ảnh
hưởng rất ít từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, khi mà Trung Quốc đã gia nhập WTO, Trung
Quốc phải thực hiện từng bước tự do hóa tài khoản vốn, tự do hóa thị trường tài chính
theo lộ trình đã cam kết WTO, mặt khác thị trường Trung Quốc đang phát triển quá nóng
(từ khi thị trường chứng khoán Trung Quốc bùng nổ từ năm 2005 đến nay) là một nguyên
nhân quan trọng để thu hút dòng vốn gián tiếp, dường như xét về mặt chủ quan lẫn khách
quan thì các biện pháp hành chính không còn giữ vai trò chủ đạo trong vấn đề kiểm soát
vốn nữa nhằm tránh một nguy cơ xảy ra đảo ngược dòng vốn trong tương lai nữa, thay
vào đó các biện pháp kiểm soát dựa trên thị trường sẽ tỏ ra thích hợp hơn. Vì vậy, trong
những phần tiếp theo chúng tôi sẽ chỉ giới thiệu những biện pháp kiểm soát thị trường
hiệu quả mà Trung Quốc đã áp dụng trong thời gian qua.
2.1. Phân khúc thị trường theo từng loại nhà đầu tư
17
Trong những năm 90, nền kinh tế Trung Quốc cần nhiều vốn cho đầu tư và tăng
trưởng, một trong những dòng vốn được xem là quan trọng, chính là vốn đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên chính phủ Trung Quốc đặt ra nhiều biện pháp kiểm soát vốn khá chặt
chẽ theo chủ trương thu hút chậm rãi dòng vốn FPI. Theo đó, chính phủ Trung Quốc theo
đuổi một chiến lược mang tên “Phân khúc thị trường theo từng loại nhà đầu tư”. Các nhà
đầu tư nước ngoài chỉ được cho phép mua các cổ phần và các công cụ nợ được định danh
bằng ngoại tệ trên cả thị trường nội địa lẫn thị trường quốc tế, từ đó hình thành nên thị
trường cổ phiếu loại B năm 1991; trong khi người dân Trung Quốc chỉ được phép mua
bán những chứng khoán định danh bằng nội tệ và giao dịch cũng bằng nội tệ, từ đó hình
thành nên thị trường cổ phần loại A, ngoài ra người dân Trung Quốc cũng bị cấm mua
bán hoặc phát hành các công cụ của thị trường tiền tệ và thị trường vốn trên thị trường
quốc tế.
Cổ phần loại B (B-shares) là các cổ phần mà ban đầu được phát hành dành riêng
cho nhà đầu tư quốc tế. Giống như các loại cổ phần khác, chúng cũng được định danh
bằng đồng nhân dân tệ, nhưng người dân Trung Quốc cho đến năm 2001 không được
phép sở hữu hoặc kinh doanh cổ phần loại B. Điều đáng lưu ý chính là cổ phần loại B do
các công ty trong nước phát hành được định danh bằng đồng nội tệ, nhưng được giao
dịch và chi trả cổ tức bằng ngoại tệ.
Ngoài cổ phần loại B, cổ phần vốn nước ngoài còn bao gồm các loại cổ phần đang
niêm yết ở nước ngoài, là các cổ phần được các công ty Trung Quốc niêm yết trên các thị
trường chứng khoán bên ngoài Trung Quốc Đại lục. Chúng hiện tại gồm: H-shares (cổ
phần niêm yết trên sàn chứng khoán Hồng Kông), N-shares (cổ phần niêm yết trên sàn
chứng khoán NewYork), L-shares (cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán Luân Đôn) và
S-shares (cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán Singapore). H-shares được mua bán
bằng đôla Hồng Kông và được định danh bằng đồng nhân dân tệ; chúng có thể được mua
bán bởi các nhà đầu tư Hồng Kông hoặc nhà đầu tư quốc tế. Một số N-shares được phát
hành thông qua các đợt IPO, nhưng phần lớn được định danh bằng đồng nhân dân tệ và
được mua bán bằng đồng USD; cổ tức của N-shares tính bằng đồng nhân dân tệ nhưng
được trả bằng đồng USD. L-shares được phát hành bởi sàn giao dịch chứng khoán Luân
Đôn theo bản ghi nhớ được ký kết giữa Anh và Trung Quốc.
18
Thị trường cổ phần loại B được điều chỉnh bởi hai luật do Hội đồng Quốc gia và
Ủy ban quản lý chứng khoán Trung Quốc (CSRC) ban hành. Theo hai luật này, B-shares
gồm có những đặc điểm sau:
Đầu tiên, cổ phần loại B được định danh bằng đồng nhân dân tệ nhưng được phép
mua và bán bằng đồng ngoại tệ, và được niêm yết và giao dịch trên sàn giao dịch chứng
khoán của Trung Quốc. Cổ tức và các khoản thanh toán khác của công ty phát hành phải
được tính và khai báo bằng đồng nhân dân tệ, nhưng được chi trả bằng đồng ngoại tệ.
Thứ hai, cổ phần loại B chỉ được phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài
Thứ ba, cổ tức và lãi vốn từ cổ phần loại B có thể được tự do chuyển ra nước
ngoài, bất chấp các biện pháp kiểm soát ngoại hối của Trung Quốc.
Thứ tư, công ty chứng khoán nước ngoài có thể kinh doanh cổ phần loại B, trong
khi không được cho phép kinh doanh cổ phần loại A.
Tuy nhiên do Trung Quốc đã trở thành thành viên của WTO đồng thời nhận thức
được tầm quan trọng của việc tự do hóa tài khoản vốn nên đã nới lỏng hơn biện pháp
kiểm soát vốn này, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài, từng bước thực
hiện việc tự do hóa. Việc mở cửa thị trường chứng khoán Trung Quốc sẽ tạo ra một sự
hấp dẫn lớn, đặc biệt là với các tập đoàn tài chính lớn trên thế giới. Chính các tập đoàn tài
chính đó sẽ đem lại những kinh nghiệm quý báu và tăng cường vai trò của các tổ chức
đầu tư trên thị trường khoán. Kế hoạch này còn giúp cho Trung Quốc tránh được những
cú sốc trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán do các đồng tiền "nóng" gây ra.
Tháng 07/2000, chính phủ Trung Quốc xem xét việc mở rộng thị trường chứng khoán
loại A cho các nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở học tập những kinh nghiệm từ thị trường
chứng khoán Đài Loan và Ấn Độ. Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được
quyền mua bán các cổ phiếu và các công cụ nợ được định danh bằng đồng nhân dân tệ
trên cả thị trường quốc tế và tại Trung Quốc.
Những quy định đối với cổ phần loại B cũng có một số sửa đổi, phù hợp với tiến trình
mở cửa tài khoản vốn, tự do hóa thương mại sau khi gia nhập WTO. Đối tượng áp dụng
đối với loại cổ phần này đã được mở rộng không chỉ cho nhà đầu tư nước ngoài mà cả
nhà đầu tư trong nước. Cho đến đầu năm 2001, nhà đầu tư cá nhân và tổ chức của Trung
Quốc vẫn bị cấm sở hữu cổ phần loại B. Tuy nhiên, chính sách này được thay đổi vào
tháng 2/2001, theo đó cho phép nhà đầu tư cá nhân nội địa được quyền mua và bán cổ
19
phần loại B. Tuy nhiên, cổ phần loại B vẫn được mua bằng đồng ngoại tệ và như vậy, nhà
đầu tư Trung Quốc có thể sử dụng tiền nước ngoài trong tài khoản của họ để mua các cổ
phần này.
Năm 2006, các nhà nghiên cứu của Trung Quốc đề nghị sáp nhập thị trường cổ
phiếu loại B với thị trường cổ phiếu loại A. Việc sáp nhập là vấn đề kỹ thuật, không khó
khăn gì vì rằng, tất cả công ty Trung Quốc phát hành cổ phần loại B đều được định danh
bằng đồng nội tệ như những cổ phần loại A. Thế nhưng, điều mà Chính phủ Trung Quốc
muốn duy trì, chính là lượng vốn đầu tư vào nước ngoài vào nền kinh tế quá lớn, trong
khi Trung Quốc liên tục thặng dư cán cân thương mại đã đưa đến sự dư thừa ngoại tệ
trong nền kinh tế. Nếu hấp thụ dòng vốn này, tất yếu đẩy lạm phát của Trung Quốc đã
cao lại càng tăng cao, tỷ giá không thể duy trì mức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Đứng
trước những vấn đề trên, Chính phủ Trung Quốc vẫn duy trì thị trường cổ phần loại B
như một kênh tạo ra nhu cầu ngoại tệ trong nền kinh tế, khi cơ hội đầu tư ra nước ngoài
của doanh nghiệp Trung Quốc không phải lúc nào cũng có và tăng cao tương ứng. Do
vậy, việc sáp nhập giữa hai thị trường cổ phần loại A và B sẽ được tiến hành một cách tự
nhiên do nhu cầu của thị trường mà Chính phủ không cần phải can thiệp. Những công ty
đã phát hành cổ phần loại B sẽ mua lại và phát hành cổ phần loại A để thay thế.
2.2.Cấp chứng nhận các nhà đầu tư đủ tư cách (QFIIs) và ban hành các quy
định dành cho QFIIs
Hệ thống các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài đủ tiêu chuẩn - The Qualified
Foreign Institutional Investors (QFII) là một hệ thống chuyển tiếp ở một số nước có nền
kinh tế thị trường mới nổi nhằm cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài được hoạt động
trong nước và mở cửa thị trường vốn nội địa trên cơ sở là các đồng tiền chưa được
chuyển đổi tự do hoàn toàn. Hệ thống QFII cho phép những nhà đầu tư nước ngoài nào
đáp ứng được một số điều kiện và được sự chấp thuận của cơ quan chính phủ có thẩm
quyền thích hợp ở nước sở tại đầu tư một lượng tiền ngoại tệ xác định trong phạm vi hạn
ngạch đã phê duyệt. Lượng tiền này có thể sẽ phải chuyển đổi sang nội tệ và được đầu tư
vào thị trường vốn trong nước thông qua những tài khoản đặc biệt – những tài khoản này
được giám sát chặt chẽ.
Hệ thống QFII bắt đầu có hiệu lực từ năm 2002. Ngày 5/11/2002 PBOC và CSRC
cùng ban hành “Các công cụ quản lý việc đầu tư vào chứng khoán nội địa của các QFII”
20
và công bố chính thức việc ra mắt của hệ thống QFII ở Trung Quốc. Trong tháng 5/2003
Swiss Bank and Nomura Securities trở thành tập đoàn đầu tiên trong các nhà đầu tư tổ
chức nước ngoài nhận được giấy chứng nhận QFII, và trong tháng 6/2003 họ được cấp
hạn ngạch đầu tư. Tháng 7/2003 họ chính thức đầu tư vào thị trường chứng khoán Trung
Quốc. Ngày 24/08/2006, CSRC, PBOC và SAFE đã cùng ban hành những quy định mới,
“Các công cụ điều hành việc đầu tư vào các chứng khoán trong nước của các nhà đầu tư
nước ngoài đủ tiêu chuẩn” (Các quy định mới dành cho các QFII) nhằm quản lý việc cho
phép các QFII được đầu tư vào các cổ phần loại A và các loại chứng khoán định danh
bằng đồng nhân dân tệ khác. Luật QFII mới này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/9/2006.
Chúng ta sẽ đề cập đến một số điểm mới (sửa đổi hoặc bổ sung) trong quy định
luật QFII mới so với luật QFII cũ.
Đối với các tiêu chuẩn đánh giá
So với quy định cũ thì trong quy định mới giá trị tối thiểu của tài sản AUM trong năm
tài khóa gần nhất của các đối tượng được xét duyệt QFII là các tổ chức quản lý quỹ giảm
từ 10 tỷ USD xuống 5 tỷ USD, bên cạnh vẫn duy trì việc yêu cầu tổ chức đó phải có thời
gian hoạt động tối thiểu là 5 năm.
Tiêu chuẩn đánh giá đối với các công ty bảo hiểm cũng thay đổi từ việc phải nắm giữ
tối thiểu là 10 tỷ USD giá trị tài sản AUM sang nắm giữ ít nhất 5 tỷ USD giá trị tài sản là
chứng khoán trong năm tài chính gần nhất.
Hơn thế nữa, nếu như trong luật QFII cũ không có quy định cụ thể dành cho đối
tượng các nhà đầu tư tổ chức khác thì trong Thông cáo bổ sung của luật QFII mới đã quy
định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá QFII cho các nhà đầu tư này (là các quỹ hưu trí, quỹ từ
thiện, quỹ phúc lợi, các công ty nhà nước, ) đó là phải được thành lập ít nhất 5 năm và
phải có tài sản AUM hoặc một danh mục chứng khoán trong năm tài khóa gần nhất có giá
trị tối thiểu là 5 tỷ USD.
Đối với các quy định hạn chế việc đầu tư của các nhà đầu tư là tổ chức
nước ngoài, chúng ta sẽ lập một bảng so sánh để thấy rõ sự khác biệt như
sau:
Luật QFII cũ Luật QFII mới
21
Mỗi một QFII không đư
ợc phép sở
hữu trên 10% tổng giá trị cổ phần đang l
ưu
hành của một công ty niêm yết.
Tổng giá trị các cổ phần đư
ợc nắm
gi
ữ bởi tất cả các QFII trong một công ty
niêm yết không được vư
ợt quá 20% tổng
giá trị cổ phần đang lưu hành c
ủa một công
ty niêm yết.
Mỗi nhà đầu tư nước ngoài đầu t
ư
thông qua QFII không đư
ợc nắm giữ quá
10%Trung Quốc tổng giá trị cổ phần
đang
lưu hành của một công ty niêm y
ết (ngoại
trừ khoản đầu tư mang tính chiến lư
ợc của
nhà đầu tư nước ngoài căn c
ứ theo “Các quy
định dành cho khoản đầu tư mang tính chi
ến
lược vào các công ty niêm yết bởi các nh
à
đầu tư nước ngoài). Quy định này nh
ằm
nhắm đến lợi nhuận của nhà đầu tư nư
ớc
ngoài đầu tư thông qua QFII ch
ứ không phải
đơn thuần là của QFII như trong lu
ật QFII
cũ.
Tất cả các nhà đầu tư nước ngo
ài
không đư
ợc nắm giữ quá 20% tổng giá trị
cổ phần đang lưu hành c
ủa một công ty
niêm yết.
Trong luật QFII mới không có thay đổi quan trọng nào trong quy định dành cho
các khoản đầu tư được phép ngoại trừ một điều rằng các khoản này được đầu tư vào các
quỹ đầu tư chứng khoán và chứng quyền. Các khoản đầu tư được cho phép bao gồm đầu
tư vào các chứng khoán được niêm yết trong nước, các trái phiều niêm yết, các quỹ đầu
tư chứng khoán, các chứng quyền được niêm yết và các chứng khoán định danh bằng
RMB khác theo sự chấp thuận của CSRC. Ngoài ra các QFII cũng có thể tham gia các
đợt chào giá lần đầu cổ phiếu hoặc trái phiếu chuyển đổi.
Việc ban hành luật QFII là một bước đi thực hiện hóa các cam kết gia nhập WTO
của Trung Quốc. Cho đến tháng 12 năm 2006, Trung Quốc đã chấp nhận QFII cho 48
công ty nước ngoài. Các công ty này được cấp hạn ngạch đầu tư là 10 tỷ USD vào thị
trường cổ phiếu loại A. Còn tính đến tháng 12/2007 Trung Quốc đã chấp nhận 52 tổ chức
nước ngoài là những QFII để đầu tư vào thị trường cổ phiếu loại A với tổng mức đầu tư
là 9,9 tỷ USD trong hạn ngạch 10 tỷ USD của mình. (Bảng tổng hợp thông tin các nhà
22
đầu tư tổ chức nước ngoài được cấp giấy chứng nhận QFII tính đến ngày 31/5/2007 được
Trung Quốc trình bày trong Phụ lục 7).
Các QFII, theo SAFE là các nhà đầu tư tổ chức chiến lược, đã trở thành bộ phận
các nhà đầu tư tổ chức lớn thứ hai sau các quỹ chứng khoán nội địa. Giá trị vốn hóa thị
trường của các QFII này là gần 200 tỷ đồng Nhân dân tệ (gần 28 tỷ USD) vào cuối 2007,
hơn gấp đôi so với giá trị thị trường của các QFII 97,1 tỷ đồng Nhân dân tệ trên thị
trường cổ phiếu loại A cuối năm 2006. Trong cuộc gặp mặt đối thoại về chiến lược kinh
tế giữa Mỹ và Trung Quốc vào tháng 5/2007, Trung Quốc đã đồng ý sẽ nâng mức hạn
ngạch lên 30 tỷ USD vào cuối năm 2007. Đây chính là một dấu hiệu nới lỏng các biện
pháp kiểm soát vốn để mở cửa của Trung Quốc. Các nhà đầu tư nước ngoài giờ đây có
thể tiếp cận được vốn những cổ phiếu loại A, loại cổ phiếu trước đây chỉ dành riêng cho
các nhà đầu tư trong nước, và ngược lại, các nhà đầu tư trong nước cũng được mua bán
các cổ phiếu loại B vốn trước đây chỉ dành riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
2.3.Giải pháp hỗ trợ cho việc kiềm soát dòng vốn FPI ở Trung Quốc – Đầu tư
ra nước ngoài
Trung Quốc có khá nhiều kênh tiêu thụ ngoại tệ. Việc hình thành cổ phần loại B
đã làm giảm nhu cầu chuyển đổi từ ngoại tệ sang nội tệ để đầu tư. Do vậy, sẽ giảm áp lực
cho ngân hàng trong việc thu gom ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá.
Hơn nữa hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc khá mạnh.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng hướng tới việc đầu tư vào thị trường chứng khoán các nước.
Những biện pháp này chứng tỏ Trung Quốc đã áp dụng chương trình “controlled capital
account liberalization” mà IMF đã từng giới thiệu (tháng 8/2006), có thể hiểu theo nghĩa
tiếng Việt là “dẫn thủy nhập điền”. Với cách thức này, Ngân hàng nhà nước cứ việc tăng
thêm cung ứng tiền để mua vào hết lượng ngoại tệ trôi nổi bên cạnh việc cam kết bán lại
lượng ngoại tệ này cho các công ty hoặc các quỹ đầu tư tương hỗ hiện đang có kế hoạch
vươn ra nước ngoài. Các công ty hoặc các quỹ đầu tư này phải cam kết bán lại lượng
ngoại tệ này cho Ngân hàng nhà nước trong một thời gian nhất định. Tổng cung tiền
không đổi sau kế hoạch này nhưng lại hấp thụ hết toàn bộ dòng vốn đầu tư nước ngoài
chảy vào nền kinh tế. Bên cạnh đó là hoạt động mua lại các công ty nước ngoài.
Tất cả các hoạt động này không chỉ nhằm tìm kiếm lợi nhuận mà còn giúp
giảm áp lực tăng giá lên đồng nội tệ, giảm áp lực lên tỷ giá, giúp bình ổn nền kinh tế vĩ
23
mô, tạo môi trường đầu tư thuận lợi thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán
và cuối cùng là sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ KIỂM SOÁT VỐN TRONG
THỜI GIAN QUA? NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP
KIỂM SOÁT LÊN DÒNG VỐN FPI
1. GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 ra đi đã để lại dấu ấn khá sâu đậm
đối với Chính phủ VN về mặt trái của luồng vốn FPI nên tâm lý e ngại, dè chừng trong
việc thu hút dòng vốn này trong những năm đầu của công cuộc đổi mới là không thể
tránh khỏi. Có lẽ chính vì vậy nên hầu hết các cánh cửa dành cho dòng vốn FPI đều bị
đóng kín hoặc chỉ hé mở. Sau đây xin liệt kê những biện pháp hành chính mà Chính phủ
đã sử dụng để kiểm soát vốn FPI.
Đầu tiên là việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
145/QĐ-TTg ngày 28/6/1999 chính thức cho phép nhà ĐTNN được tham gia mua cổ
phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng với tỷ lệ không vượt quá 30% vốn điều lệ
của doanh nghiệp. Tỷ lệ mua cổ phần, nếu vượt quá 30% thì doanh nghiệp này không còn
là doanh nghiệp trong nước nữa mà đã trở thành xí nghiệp liên doanh được điều chỉnh
theo một hệ thống chính sách và pháp luật hoàn toàn khác.
Riêng đối với công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán,
ngày 10-6-1999 Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết định số 139/QĐ-TTg cho phép nhà
đầu tư nước ngoài được mua cổ phiếu nhưng với tỷ lệ thấp hơn, tối đa không quá 20%
tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty niêm yết.
Vì nhiều lý do cả hai văn bản trên đã không tạo nên sức hấp dẫn
cần thiết để thu hút giới đầu tư. Vì vậy, ngày 11-3-2003, Chính phủ ban hành tiếp Quyết
định số 36/2003/QĐ-TTg về quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
với tuyên bố: khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, đồng thời huy động vốn,
công nghệ, phương pháp quản lý doanh nghiệp của nước ngoài và mở rộng thị trường,
tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Điểm đáng chú ý ở đây là việc mở
rộng loại doanh nghiệp được phép bán cổ phần, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước thực
hiện cổ phần hóa, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, liên
hiệp hợp tác xã, hợp tác xã hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề do Thủ
24
tướng Chính phủ quyết định hoặc ủy quyền Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố ở
từng thời kỳ. Dù vậy, tỷ lệ cho phép mua phần vốn góp vẫn bị khống chế theo mức cũ,
30%.
Trong khi đó, đối với công ty niêm yết, bằng Quyết định số
146/2003/QĐ-TTg ngày 17-7-2003 của Thủ tướng Chính phủ tỷ lệ mua cổ phiếu từ 20%
được nâng lên mức ngang bằng 30%.
Những quy định này khiến cho nhiều nhà ĐTNN muốn tăng thêm lượng vốn
đầu tư của mình nhưng không thực hiện được do bị giới hạn về tỷ lệ. Chính điều này
chưa thúc đẩy việc đa dạng hóa các kênh huy động vốn, chưa tạo điều kiện khuyến khích
thị trường vốn phát triển. Mặt khác về lý thuyết, chúng sẽ hạn chế được sự thống trị
doanh nghiệp nội địa, thống trị thị trường bởi nhà ĐTNN theo như mục đích mà Chính
phủ ban hành. Tuy nhiên, nó vẫn có vai trò hạn chế trong việc ngăn luồng vốn nước
ngoài đổ vào VN. Vì tuy không thể mua đứt một doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn được mua
tới hạn tỷ lệ sở hữu cho phép ở tất cả những doanh nghiệp khác. Do đó, tổng lượng vốn
nước ngoài đổ vào thị trường vẫn có thể tăng cao (tối đa 30% giá trị cổ phiếu tung ra thị
trường), thị trường chứng khoán vẫn có nguy cơ “tăng trưởng bong bóng” dẫn tới khủng
hoảng.
Sau đó, Quyết định 238/2005/QĐ_TTg ngày 29/09/2005
(thay thế Quyết định 146/2003/QĐ- TTg ngày 17/7/2003) nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài lên 49% đối với các công ty niêm yết (trừ lĩnh vực ngân hàng, theo quy
định chuyên ngành, hiện chỉ cho phép tỷ lệ 30%) đã có ảnh hưởng rất lớn đến TTCK.
Quyết định này kể từ khi ra đời đã góp phần thay đổi cơ bản quy mô TTCK và thúc đẩy
tiến trình cổ phần hóa DNNN, thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Làm tăng lượng vốn
FPI vào VN, vào thị trường OTC khoảng vài tỷ USD; Quy mô TTCK tăng hơn gấp 3 lần,
nhiều doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu hơn.