Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐỀ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN - MÔN QUẢN LÝ HÀNH VI CỦA HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.65 KB, 10 trang )

ĐỀ THI KẾT THÚC MÔN HỌC
QLHV của học sinh

Câu 1: (4,0 điểm)
Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng
cố trong q trình vận hành của hành vi.
Câu 2: (6,0 điểm)
Phân tích quan niệm hành vi của Bandunar? Rút ra những ứng dụng
trong quản lý hành vi lớp học ở tiểu học?

Câu 1: (4,0 điểm)
Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng
cố trong q trình vận hành của hành vi.
Trả lời:
Khái niệm về quản lí hành vi lớp học


Thuật ngữ “Quản lí hành vi” là sự chủ động các hành động nhằm ngăn
chặn để những hành vi có vấn đề khơng xảy ra. Nhận diện hành vi có vấn
đề và tìm kiếm các giải pháp để giải quyết vấn đề hành vi.
Quản lí hành vi lớp học [classroom behavior management] thường được
dùng đồng nghĩa với thuật ngữ “kỷ luật lớp học” [classroom discipline]
để mô tả những nỗ lực mà giáo viên tiến hành nhằm kiến tạo những
hành vi tích cực, đồng thời ngăn chặn và xử lý những sai phạm hành vi
trong lớp học.
Đối với các nhà tâm lí học hành vi (J.Watson, B.Skinnrer, A. Bandura),
yếu tố quyết định việc hình thành, điều chỉnh hay làm mất hành vi là
củng cố. Vì vậy, quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng
cố trong quá trình vận hành của hành vi.

Câu 2: (6,0 điểm)


Phân tích quan niệm hành vi của Bandunar? Rút ra những ứng dụng
trong quản lý hành vi lớp học ở tiểu học?
Trả lời:
I.

Phân tích quan niệm hành vi của Bandunar


Hành vi hình thành qua quan sát gắn liền với tên tuổi nhà tâm lí
học Bandura. Hơn 30 năm trước, Albert Bandura ghi nhận rằng những
quan điểm hành vi truyền thống về học tập là chính xác - nhưng khơng
đầy đủ - bởi vì chúng chỉ đưa ra một phần lời giải thích về học tập và đã
bỏ qua các yếu tố quan trọng, đặc biệt là ảnh hưởng của xã hội. Nghiên
cứu đầu tiên của ông về hành vi được căn cứ vào các nguyên tắc hành vi
của củng cố và trừng phạt, nhưng ông cũng tập trung vào học tập qua
quan sát những cá nhân khác. Quan điểm này được gọi là thuyết hành vi
học tập xã hội; nó được coi là một cách tiếp cận của chủ nghĩa hành vi
Một ví dụ được tìm thấy trong một trong những nghiên cứu ban
đầu của Bandura và cộng sự (1961). Trẻ em mẫu giáo được cho xem một
video về mơ hình hành vi đá và đấm búp bê bằng hơi “Bobo”. Nhóm thứ
nhất quan sát người lớn có hành vi gây hấn (aggression) khi chơi với búp
bê Bobo (Búp bê bằng nhựa được bơm hơi); nhóm thứ hai quan sát người
lớn chơi với búp bê Bobo mà khơng có hành vi gây hấn (non-aggression);
và các đối tượng trong nhóm đối chứng khơng tiếp xúc với hai tình huống
ở trên (Bandura và cộng sự, 1961). Kết quả là, nhóm trẻ em thứ nhất
(nhóm mà đã nhìn thấy những hành vi đấm và đá búp bê được củng cố
thông qua phần thưởng trên video) là có những hành vi gây hấn mạnh mẽ
nhất đối với búp bê trong phịng. Nhóm thứ 2 ít có hành vi gây hấn nhất
đối với búp bê có trong phịng. Nhưng khi trẻ được hứa có phần thưởng
cho việc bắt chước hành vi gây hấn của mơ hình hành vi mẫu, tất cả

chúng đã đã chứng minh rằng chúng đã học được hành vi.
Vì vậy, khuyến khích có thể ảnh hưởng đến sự thực hiện. Mặc dù
hành vi có thể đã xảy ra, nó có thể khơng được thể hiện ra cho đến khi
gặp tình huống thích hợp hoặc có những khuyến khích để thực hiện. Điều
này có thể giải thích tại sao một số học sinh không thực hiện“những hành
vi xấu”như chửi thề hay hút thuốc mà họ nhìn thấy ở người lớn, bạn bè và
các phương tiện truyền thông. Những hậu quả mà cá nhân có thể gặp phải


khơng khuyến khích họ thực hiện những hành vi đó. Trong ví dụ khác, trẻ
em có thể học được cách viết bảng chữ cái, nhưng việc viết của trẻ lại
kém vì sự phối hợp vận động tinh của chúng bị hạn chế, hoặc chúng có
thể học được cách làm thế nào để rút gọn phân số, nhưng khi chúng làm
bài kiểm tra lại kém bởi vì chúng cảm thấy lo lắng. Trong những trường
hợp này, những gì trẻ biểu hiện ra bên ngồi khơng phải là một dấu hiệu
của học tập.
Gần đây Bandura đã tập trung vào các yếu tố nhận thức như niềm
tin, tự nhận thức và kỳ vọng, vì vậy lý thuyết của ơng được gọi là lý
thuyết nhận thức xã hội (Hill, 2002). Lý thuyết nhận thức xã hội (được
thảo luận kỹ lưỡng hơn trong chương 9 và 10) phân biệt giữa học tập
thông qua trải nghiệm và học tập trực quan. Học tập thông qua trải
nghiệm là học tập bằng việc vừa làm vừa trải nghiệm những hệ quả mà
các hành động của bạn đem lại. Điều này dường như giống với điều kiện
hóa kết quả, nhưng không phải, và sự khác biệt là ở vai trò của các hệ
quả. Những người ủng hộ điều kiện hóa kết quả tin rằng hệ quả làm tăng
cường hoặc làm suy yếu hành vi. Trong học tập thông qua trải nghiệm, hệ
quả được coi nguồn là cung cấp thông tin.
Học tập quan sát hành vi là học bằng cách quan sát những người
khác. Người và động vật có thể học chỉ bằng cách quan sát người hoặc
động vật khác. Nếu con người có thể học tập bằng cách quan sát, họ phải

tập trung sự chú ý của mình, xây dựng hình ảnh, ghi nhớ, phân tích, và
đưa ra quyết định có ảnh hưởng đến học tập. Vì vậy, nhiều khi những
hiện tượng tâm lý xảy ra trong não như sự tập trung chú ý, ghi nhớ…xuất
hiện trước khi việc thực hiện và củng cố của hành động diễn ra – học tập
bằng cách quan sát những người khác.
Các yếu tố của học tập hành vi qua quan sát trực quan
Thông qua học tập trực quan, chúng ta không chỉ học cách thực hiện
một hành vi như thế nào mà còn xem xét những hệ quả sẽ xảy ra nếu thực


hiện hành vi đó trong một tình huống cụ thể. Quan sát có thể là một q
trình học tập rất hiệu quả. Lần đầu tiên trẻ cầm lược chải tóc, chiếc cốc,
hay vợt tennis, chúng thường chải, uống hoặc đánh như chúng có thể làm,
liên quan đến sự phát triển và phối hợp các cơ bắp của chúng. Bandura
(1986) lưu ý rằng học tập bằng quan sát hành vi gồm 4 yếu tố: chú ý, giữ
lại, lặp lại và động cơ.
Sự chú ý
Để học tập thông qua quan sát, chúng ta phải chú ý. Trong giảng
dạy, GV sẽ phải đảm bảo sự chú ý của học sinh vào các điểm quan trọng
của bài học bằng cách làm cho bài giảng rõ ràng và làm nổi bật các điểm
quan trọng. Trong thể hiện một kỹ năng cụ thể (ví dụ như, việc vận hành
máy tiện), GV cần phải cho học sinh nhìn thấy khi bạn thực hiện kỹ năng
đó. Học sinh quan sát cách thức bạn thực hiện các kỹ năng trong những
tình huống cụ thể cũng giống như học sinh hướng sự chú ý của mình vào
tình huống đó sẽ làm cho việc học tập trực quan trở nên dễ dàng hơn.
Duy trì
Để bắt chước hành vi mẫu, bạn phải nhớ rõ nó. Điều này liên quan
đến hiện tượng tâm lý đại diện cho hành vi mẫu theo một cách nào đó, có
lẽ là các bước bằng lời nói (Ví dụ, giáo viên karate nói với một học sinh:
“Hwa-Rang, chiêu thức thứ 8 trong võ karate, là di chuyển gót chân, sau

đó là một cú đấm, sau đó…”), hoặc hình ảnh trực quan hoặc duy trì cả
hai. Việc duy trì có thể được cải thiện bằng cách luyện tập bằng tưởng
tượng (tưởng tượng bắt chước hành vi) hoặc bằng cách thực hành thực tế.
Trong giai đoạn duy trì học tập trực quan, việc thực hành giúp chúng ta
nhớ các yếu tố của hành vi mong muốn được duy trì, chẳng hạn như trình
tự thực hiện các bước.
Hình thành
Một khi chúng ta “biết” cách quan sát và ghi nhớ các yếu tố hoặc
các bước của một hành vi được thực hiện như thế nào, chúng ta vẫn


khơng thể thực hiện hành vi đó thành thạo. Đơi khi, chúng ta cần thực
hành nhiều, có được phản hồi, và luyện tập các điểm cần lưu ý trước khi
chúng ra có thể lặp lại hành vi mẫu. Trong giai đoạn hình thành, thực
hành làm cho hành vi trơi chảy và thành thạo hơn nữa.
Động cơ và củng cố
Như đã đề cập trước đó, lý thuyết học tập xã hội phân biệt giữa sự
tiếp nhận và sự thực hiện. Chúng ta có thể có được một kỹ năng mới
thơng qua quan sát hành vi, nhưng chúng ta có thể khơng thực hiện hành
vi đó cho đến khi có một động cơ thúc đẩy để thực hiện hành vi đó. Củng
cố có thể đóng một số vai trị trong học tập trực quan. Nếu chúng ta dự
đoán trước được củng cố cho việc bắt chước các hành động mẫu, chúng
ta có thể có thêm động cơ để chú ý, ghi nhớ và sao chép hành vi. Ngoài
ra, củng cố rất quan trọng trong việc duy trì học tập. Một người thử một
hành vi mới khác với việc tiếp tục một hành vi mà không cần củng cố
(Ollendick, Dailey & Shapiro, 1983; Schunk, 2004). Ví dụ, nếu một học
sinh muốn được gia nhập một nhóm nào đó bằng cách bắt chước cách
mặc trang phục của nhóm đó, nhưng học sinh này vẫn bị nhóm bỏ qua và
chế nhạo, thì khơng chắc rằng việc bắt chước mặc trang phục giống nhóm
ở học sinh này vẫn cịn tiếp tục.

Bandura xác định 3 hình thức củng cố có thể khuyến khích học tập
thơng qua quan sát. Đầu tiên, tất nhiên, người quan sát có thể sao chép
hành vi mẫu và tăng cường củng cố trực tiếp, ví dụ, một người tập thể
thao thực hiện thành công một cú nhào lộn kết hợp và người huấn luyện
viên nói “Tuyệt vời!”.
Nhưng củng cố khơng cần phải trực tiếp – nó có thể là củng cố gián
tiếp. Người quan sát có thể chỉ đơn giản là nhìn thấy những người khác
được củng cố cho một hành vi cụ thể, sau đó bản thân người quan sát sẽ
tăng việc thực hiện hành vi đó với mục đích mong muốn nhận được củng
cố tương tự. Ví dụ, nếu bạn khen 2 học sinh đã có những minh họa thú vị


trong báo cáo về kết quả ở phịng thí nghiệm của chúng, một số học sinh
khác, những người đã quan sát lời khen của bạn có thể sẽ có những minh
họa cho báo cáo kết quả ở phịng thí nghiệm của mình. Hầu hết các quảng
cáo trên truyền hình hy vọng có được dạng hiệu quả tương tự, ví dụ,
người mẫu trong video quảng cáo trở nên vô cùng hạnh phúc khi họ lái
một chiếc xe hay uống nước ép trái cây, và người xem nghĩa rằng họ sẽ
làm điều tương tự; hành vi của người xem được củng cố gián tiếp bởi
niềm vui được biểu hiện rõ ràng của các diễn viên trong video. Trừng
phạt cũng có thể gián tiếp: bạn có thể đi chậm trên đường cao tốc sau khi
nhìn thấy một số người phải nhận vé phạt khi lái xe ở tốc độ tương tự.
Hình thức cuối cùng của củng cố là tự củng cố, hoặc kiểm soát các
yếu tố củng cố của riêng bạn. Loại củng cố này quan trọng đối với cả học
sinh và giáo viên. Chúng ta muốn học sinh của chúng ta cải thiện khơng
phải vì việc đó dẫn tới phần thưởng bên ngồi, mà bởi vì giá trị và năng
lực của học sinh sẽ phát triển. Và là một giáo viên, đôi khi tự củng cố là
tất cả những gì giúp bạn phát triển.
II. Những ứng dụng trong quản lý hành vi lớp học ở tiểu học là (môn
Tin học):

- Sự chú ý: Giáo viên cần phải hướng học sinh tập trung sự chú ý vào nội
dung chính của bài học.
Ví dụ: Bài vẽ hình từ hình mẫu có sẵn
-

Học sinh được làm quen với phần mềm Paint, sử dụng được công

-

cụ vẽ tự do để vẽ các nét đơn giản.
Học sinh cần phải thực hiện được các thao tác: lưu bài vẽ vào thư
mục máy tính, mở bài vẽ có sẵn.

- Duy trì: + Giáo viên làm mẫu hoặc đưa video, hình ảnh động làm mẫu,
học sinh lên làm thử,...
- Hình thành: + Đưa ra các bài tập, các phần mềm trò chơi để học sinh
củng cố kiến thức đã học.


- Động cơ và củng cố: Thúc đẩy sự yêu thích tin học bằng cách cho học
sinh làm bài tập bằng các trò chơi để các em vừa học vừa chơi và thực
hành hàng ngày, hướng dẫn các em hoặc phụ huynh cài đặt trên máy tính
ở nhà cho các em,....
………………………………………

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ,,,,,,,,,,,,,,,,


BÀI THU HOẠCH


Người thực hiện:
Ngày sinh:
Nơi sinh:

Hà Nội,tháng 12 năm 2021

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ……………….


BÀI THU HOẠCH

Người thực hiện:
Ngày sinh:
Nơi sinh:

Hà Nội,tháng 12 năm 2021



×