A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
“... Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không , chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em...”. Đó làm niềm
tin tưởng, hi vọng của Bác và cũng chính là lời dạy của Bác đối với thế hệ trẻ để
tiếp nối sự nghiệp đất nước. Những chủ nhân của thế kỉ mới phải là những con
người thơng minh, tự chủ, năng động, sáng tạo, có ánh sáng của trí tuệ, có tâm
hồn trong sáng, lành mạnh ... Con người của văn hóa thời đại khơng chỉ giỏi một
lĩnh vực mà phải là một con người tồn diện: Có năng lực chun mơn giỏi, có
sức khỏe tốt, am hiểu văn hóa nghệ thuật ... Chính vì thế mà giáo dục đặt lên
hàng đầu, toàn xã hội tôn vinh nghề giáo, trách nhiệm của người thầy vô cùng
nặng nề, địi hỏi người thầy khơng ngừng nổ lực phấn đấu vươn lên để phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại và nhu cầu nhận thức học tập của giới trẻ ngày
nay.
Đất nước ta đang cùng thế giới tiến vào thiên niên kỉ mới. Trên toàn đất
nước, các ngành nghề cũng không ngừng học tập, nghiên cứu đổi mới nhằm
thực hiện tốt nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đẩy mạnh sự phát triển cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành giáo dục là một ví dụ rõ nhất. Để đáp
ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của khoa học, cơng nghệ thì giáo dục phải
đào tạo ra những con người phát triển về mọi mặt: Đức – Trí - Thể - Mĩ. Chính
vì vậy Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến chất lượng nâng cao dạy học.
Hòa trong xu thế phát triển của toàn thế giới Việt Nam đang tiến nhanh trên con
đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện thành cơng cơng
cuộc đó, phát triển giáo dục là một chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó
tác động rất lớn đến các lĩnh vực khác. Và để có được một nền giáo dục phát
triển tồn diện thì việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là rất uan trọng. Chính vì
thế, việc đưa mơn mĩ thuật trở thành một trong những môn học bắt buộc trong
nhà trường tiểu học là quan trọng và cần thiết nhất. Mĩ thuật là mơn học có tính
chất năng khiếu nghệ thuật, nhằm giáo dục tính thẩm mĩ cho học sinh và hình
thành một số yếu tố cơ bản của giáo dục tính thẩm mĩ, giúp học sinh phát huy
năng khiếu sẵn có của tuổi thơ.
Trong chương trình mĩ thuật tiểu học, vẽ theo mẫu có vị trí quan trọng .
Vẽ theo mẫu giúp học sinh nắm được đặc điểm, hình dáng, cấu trúc đồ vật thơng
qua so sánh, phân tích, tổng hợp khái qt hóa. Học sinh được rèn luyện kĩ năng
miêu tả đồ vật bằng đường nét, màu sắc, đậm nhạt, hình khối. Kiến thức và kỹ
năng của vẽ theo mẫu hỗ trợ rất nhiều cho các phân môn khác như: Kiến thức,
kỹ năng sắp xếp bố cục, vẽ hình, tỉ lệ tương quan đậm nhạt, khơng gian, ánh
sáng được vận dụng trong các phân môn vẽ tranh, trang trí. Ngày nay mơn mĩ
thuật đã được chuyển sang phương pháp dạy học mới cho nên đòi hỏi phân mơn
vẽ theo mẫu cũng có sự chuyển đổi về phương pháp dạy học để phù hợp với
cách dạy mới, tạo phong cách vẽ mới, đầy hứng thú, sáng tạo cho học sinh.
1
skkn
Là một giáo viên dạy mĩ thuật ở trường tiểu học đã lâu, tôi nhận thấy cần
đưa ra những phương pháp dạy học tích cực dành cho phân mơn vẽ theo mẫu
như vẽ biểu cảm, vẽ theo trí nhớ kết hợp với cách phối màu theo cảm nhận và
sáng tạo thì các em sẽ có những tác phẩm tuyệt đẹp, mang tính giá trị nghệ
thuật. Ở khối lớp 3, hầu như các em đã nắm vững các bước cơ bản về vẽ theo
mẫu cho nên các em khó có thê tiếp thu nhanh với phương pháp dạy học mới,
các em sẽ lúng túng hay vẫn còn vẽ theo phương pháp cũ. Chính vì nhận ra điều
này, tơi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp dạy học tích cực để giúp các
em dễ tiếp cận với phương pháp dạy học mĩ thuật mới. Chính vì điều đó, tơi đã
đưa ra kế hoạch xây dựng đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để
rèn kĩ năng các bài vẽ theo mẫu môn Mĩ thuật cho học sinh lớp 3 Trường
Tiểu học Vạn Thọ 1“.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tơi nghiên cứu vấn đề này nhằm những mục đích sau đây:
- Nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy mĩ thuật, tạo khơng khí học vui tươi,
thoải mái.
- Giáo dục cho học sinh hình thành những kĩ năng cảm thụ cái đẹp, khả
năng quan sát thế giới xung quanh.
- Nhằm giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, cảm quan đối với thế giới xung
quanh một cách tự nhiên.
- Giúp học sinh ngày càng u thích mơn mĩ thuật. Hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan thẩm mĩ. Đây cũng là yếu tố để học sinh học tốt các môn
khác tốt hơn.
- Các bài vẽ sẽ sinh động, sáng tạo về hình và về màu sắc.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Tôi đã chọn học sinh khối lớp 3 trường tôi để dạy
thực nghiệm và nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân mơn vẽ
theo mẫu.
- Đối tượng nghiên cứu: Các phương pháp dạy học tích cực trong phân mơn
vẽ theo mẫu.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Sau khi thực hiện các phương pháp dạy học tích cực vào phân mơn vẽ
theo mẫu ở khối lớp 3, tôi tin chắc sẽ đem lại hiệu quả rất cao so với phương
pháp dạy học theo truyền thống cũ.
Cụ thể, chất lượng tiết dạy sẽ tốt hơn, từ một tiết học trầm lắng thì giờ
đây sẽ sơi động, học sinh được tích cực trao đổi, chia sẻ, cũng nhau tìm tịi,
khám phá.
Từ một mơ hình mẫu cụ thể, các em có thể liên tưởng những hình ảnh
sinh động khác từ đó các em sẽ thể hiện trên trang giấy vẽ.
2
skkn
Trước đây, học sinh học thụ động, chỉ biết vẽ. Những em khơng có năng
khiếu thì ngại ngùng khơng dám thể hiện tác phẩm của mình vì sợ bị chê xấu.
Sau khi áp dụng phương pháp này, các em vẽ chưa đẹp cũng có thể được thể
hiện trình bày sản phẩm của mình, tự tin cùng các bạn trong lớp chia sẻ.
Nếu như áp dụng phương pháp vẽ theo mẫu như trước đây thì đa phần các
sản phẩm vẽ cùng một vật mẫu đều có hình ảnh và màu sắc tương tự nhau, cho
nên khó có thể mà tạo cho các em có những cảm nhận riêng, những lời nhận xét
của các em sẽ giống nhau không sinh động. Nhưng khi tơi áp dụng phương pháp
này thì hầu hết các em đều đưa ra những lời nhận xét, cảm nhận rất hay mà chỉ
chính các em mới thấy được.
Khơng chỉ vậy nhờ áp dụng phương pháp dạy học tích cực đã trau dồi cho
các em rất nhiều kiến thức, kĩ năng, tạo cho các em một phong cách thẩm thấu
mĩ thuật riêng biệt. Cho nên mỗi khi có những cuộc thi vẽ do các ban ngành tổ
chức các em rất phấn khởi tham gia và đã có một vài em đã đoạt giải.
Các phương pháp dạy học trước đây chỉ dạy cho các em biết cách vẽ trên
giấy thì thơng qua phương pháp này, các em có thể tạo được vật mẫu từ hình
3D, từ những vật liệu bỏ đi. Từ đó hình thành cho các em biết tái chế, sử dụng
lại những đồ vật hư hỏng, giúp các em có ý thức bảo vệ mơi trường, chống lãng
phí.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận.
- Cơ sở khoa học
- Cơ sở thực tiễn
5.2. Nghiên cứu thực trạng
- Nghiên cứu một số vấn đề trong phân môn vẽ theo mẫu.
- Nghiên cứu một số phương pháp dạy học tích cực ở phân mơn vẽ theo
mẫu trong khối lớp 3.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng các bài vẽ theo
mẫu.
6. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội nghiên cứu: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn kĩ năng
năng các bài vẽ theo mẫu môn Mĩ thuật cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học
Vạn Thọ 1.
- Thời gian nghiên cứu: 9/2018 đến 9/2019
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 3A,3B, Trường tiểu học Vạn Thọ 1.
7. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện tốt đề tài này, tôi vận dụng các phương pháp sau:
3
skkn
a. Phương pháp điều tra: Bằng hình thức đưa ra bảng hệ thống điều tra tỉ
lệ bao nhiêu phần trăm học sinh vẽ tốt trong phân môn vẽ theo mẫu. Thực hiện
bằng cách tổ chức cho học sinh khối 3 vẽ theo mẫu về một chủ đề nào đó, sau đó
lấy kết quả để nghiên cứu và so sánh với kết quả sau khi áp dụng phương pháp
dạy học tích cực. Ngồi ra cịn điều tra theo tính khách quan là phỏng vấn, đưa
ra những câu hỏi dành cho các em học sinh và lấy những câu trả lời để làm số
liệu điều tra.Những hình thức điều tra ta sẽ nghiên cứu, tìm ra được phương
pháp dạy học tốt hơn, phù hợp cho các em hơn.
b. Phương pháp luyện tập: Thông qua kết quả thực tế bài vẽ của học sinh
từ đó so sánh, đánh giá chất lượng. Đánh giá những bài vẽ theo mẫu đã hoàn
thành của các em để đem ra so sánh, kết luận.
c. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Bằng cách đánh giá các
hoạt động của học sinh thông qua từng nhiệm vụ học cụ thể: Ở mỗi nhiệm vụ
hoạt động, các em sẽ có những kiến thức , kĩ năng khác để hồn thành tốt các
nhiệm vụ đó. Sau mỗi nhiệm vụ, giáo viên sẽ đánh giá chi tiết, cụ thê từng
nhiệm vụ sau đó tổng kết để đưa ra kết luận chung nhằm đánh giá phương pháp
dạy học tích cực này.
d. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Với kinh nghiệm dạy đã lâu kết
hợp với những tích lũy kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy: Sau mỗi tiết dạy vẽ theo
mẫu, tôi đều ghi những khó khăn, thuận lợi, những gì học sinh đã đạt và chưa
đạt vào phần rút kinh nghiệm của giáo án cá nhân. Sau đó tơi sẽ thống kê,
nghiên cứu.
đ. Phương pháp trực quan: Nhằm quan sát quá trình học và thực hành
phân môn vẽ theo mẫu cửa học sinh để tìm ra được những khó khăn sau đó đưa
ra những phương pháp nhằm khác phục những khó khăn.
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1. Cơ sở khoa học
Đối tượng của cấp tiểu học là trẻ em từ 6 đến 11 tuổi. Học sinh tiểu học là
một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng
khả năng về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ
nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá
nhân, gia đình. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát
triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội các em đang từng bước gia nhập vào xã
hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa
đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần
sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh
tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng
cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa
được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất
nhanh và quên cũng nhanh.
4
skkn
Theo tinh thần chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học của ngành mơn mĩ
thuật nói riêng và việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng
dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn là một vấn đề bức thiết. Như chúng ta đã biết
nội dung và phương pháp giảng dạy bao giờ cũng gắn bó với nhau, mỗi nội dung
địi hỏi một phương pháp thích hợp, các kỹ năng khơng thể được hình thành và
phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kỹ năng này,
học sinh phải được hoạt động trong môi trường thực tế dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. Vì mục đích của mơn Mĩ thuật ở trường tiểu học nói chung và lớp 3
nói riêng chủ yếu là giáo dục thẩm mĩ, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm
quen và thưởng thức vẻ đẹp của mẫu vật sẵn có quanh các em, cung cấp cho các
em một lượng kiến thức cơ bản nhất định giúp các em hiểu được cái đẹp của
đường nét, mảng hình, đậm nhạt, màu sắc, bố cục.
2. Cơ sở thực tiễn
Mĩ thuật là môn học có tính chất năng khiếu nghệ thuật, nhằm giáo dục
tính thẩm mĩ cho học sinh và hình thành một trong những yếu tố cơ bản của giáo
dục tính thẩm mĩ. Giúp học sinh phát huy năng khiếu sẵn có của tuổi thơ, đồng
thời hướng dẫn một số phương pháp để các em quan sát tập vẽ theo mẫu tiến tới
vẽ tranh và xem tranh… Từ đó, gây cho các em niềm say mê, hứng thú tìm cái
hay, cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mĩ tốt
trong họctập, vui chơi và học tập hàng ngày.
Là giáo viên Mĩ thuật, tôi nhận thấy đa số các e học sinh đều thích vẽ
nhưng chất lượng các bài vẽ của các em cịn chưa cao. Vì vậy, người giáo viên
cần vận dụng những phương pháp tích cực từng bước giúp các em tự tin, nắm
vững kiến thúc, kĩ năng để thực hiện các bài vẽ tốt hơn.
Việc rèn luyện kĩ năng để nâng cao chất lượng các bài vẽ theo mẫu của
học sinh lớp 3 góp phần:
- Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là nhiệm vụ chính của mơn học Mĩ thuật.
- Cung cấp cho học sinh một số kiến thức Mĩ thuật phổ thông, giúp các
em hiểu biết về cái đẹp và hồn thành các bài tập của chương trình, đồng thời
tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác, góp phần xây dựng mơi
trường thẩm mĩ cho xã hội.
- Rèn luyện cho học sinh cách quan sát, khả năng tìm tịi, sáng tạo để góp
phần hình thành phẩm chất người lao động mới.
- Giúp học sinh nhận thức được vẻ đẹp của Mĩ thuật dân tộc và có ý thức
giữ gìn, bảo tồn nền Mĩ thuật đó.
- Tạo điều kiện để cho những học sinh có khả năng, có nhu cầu tiếp tục
học ở các trường, các ngành có liên quan như; kiến trúc, xây dựng, thời trang, sư
phạm Mĩ thuật…
Chương II: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
I. Đặc điểm tình hình
5
skkn
Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 một ngôi trường được thành lập từ khá lâu.
Trường được nâng cấp, xây dựng trên nền trường liên cấp một- cấp hai, nhưng
ngày nay trường cấp một và cấp hai đã được tách riêng, Trước đây, trường được
xây dựng với những phòng học đơn sơ, mộc mạc, còn thiếu thốn nhiều về cơ sở
vật chất, nhưng giờ đây cùng với sự phát triển của xã hội và quan tâm của các
cấp lãnh đạo, chính quyền, địa phương, ngôi trường được xây dựng khang trang
hơn, các phòng học, bàn ghế, trang thiết bị, dụng cụ học tập…của các em học
sinh cũng được đầu tư đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học của thầy trò.
Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 nằm trên địa bàn thôn Cổ Mã, xã Vạn Thọ.
Trường nằm trên đường quốc lộ 1A nên rất thuận tiện cho việc đi lại, dễ dàng
giao lưu với các trường bạn trên địa bàn huyện. Trường có một khn viên rộng,
được trơng rất nhiều cây lâu năm, cao vút tỏa bóng mát cho trường.
Khơng chỉ vậy, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 cịn có một đội ngũ các thầy
giáo, cơ giáo trẻ, nhiệt tình, tâm huyết, ln u thương, quan tâm học sinh. Nhà
trường luôn thay đổi các phương thức dạy, học của thầy cô và học sinh nơi đây.
Điều kiện sống của người dân nơi đây cịn khó khăn, một số cha mẹ học
sinh đi làm ăn xa nhưng các bậc phụ huynh vẫn quan tâm tới sự học hành của
con em.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
1. Nhà trường:
Thuận lợi: Trường được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền.
Ban giám hiệu nhà trường ln tích cực đổi mới, đưa trường học này càng đẹp
đẽ, khang trang. Bên cạnh đó, ban giám hiệu và tổ chun mơn ln tạo điều
kiện, sẵn sàng giúp đỡ giáo viên để giáo viên hồn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, nhà trường vẫn cịn gặp một vài khó
khăn như thiếu giáo viên nên phải hợp đồng. Trường học chưa có phịng chức
năng dành cho mơn mĩ thuật. Một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học của
các em học sinh nên cũng ảnh hưởng phần nào đến trường học.
2. Giáo viên:
Thuận lợi: Giáo viên lên kế hoạch xây dựng một phương pháp dạy học
để giúp cho tiết học vẽ tốt hơn, tạo điều kiện cho học sinh sáng tạo hơn nữa. Vì
yêu nghề, mến trẻ nên giáo viên tích cực, năng động trong việc tìm tịi, nghiên
cứu để trau dồi thêm kinh nghiệm về chuyên môn. Giáo viên là người địa
phương nên nắm bắt rất rõ về tình hình sinh sống của các em học sinh từ đó
tiếp cận với các em học sinh và nắm bắt được tình hình học tập của các em dễ
hơn
Khó khăn: Giáo viên phải dạy nhiều bộ môn ( Môn: đạo đức, thủ cơng,
khoa học…) nên chưa có thời gian tập trung để nghiên cứu chun mơn của
mình. Một trường tiểu học chỉ có một giáo viên giảng dạy mơn mĩ thuật cho
nên việc dự giờ, học hỏi kinh nghiệm về chun mơn cịn hạn chế. Bên cạnh đó
6
skkn
do thiếu mẫu vẽ trực quan nên giáo viên thường dạy sng, dẫn đến gặp nhiều
khó khăn trong q trình hướng dẫn học sinh nhận biết mẫu vẽ.
3. Học sinh:
Thuận lợi: Các em rất ham thích mơn vẽ, ngồi những tiết học vẽ ra các
em còn lấy giấy nháp ra vẽ những hình ảnh mình thích. Một số em rất thích vẽ.
Chính những yếu tố này đã làm động lực cho tôi thêm quyết tâm xây dựng
những phương pháp nhằm giúp các em học tốt hơn.
Khó khăn: Đang ngồi trên ghế trường tiểu học cho nên ý thức việc học
của các em còn hạn chế, hầu như thời gian rãnh các em vui chơi chưa tập trung
để vẽ. Trong quá trình học, các em cịn lúng túng khi vẽ bài, đa số học sinh còn
đi theo cách vẽ theo phương pháp cũ. Bài vẽ chưa có sự sáng tạo về hình và
màu. Chưa đa dạng về các kết quả bài vẽ. Học sinh vẽ bài theo một cách máy
móc. Chưa chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ như giấy A4, chì, màu... Các em có
sự sao chép hình ảnh, màu từ bài của bạn. Bên cạnh đó các em chưa mạnh dạn,
tự tin trong quá trình học tập, những em vẽ chưa đẹp thì khơng tham gia các
hoạt động tập thể của nhóm.
Đứng trước những khó khăn và chớp lấy những thuận lợi, tôi đã kết hợp
với nghiên cứu các tài liệu để đưa ra các phương pháp dạy học phù hợp và đạt
hiệu quả ở phân môn vẽ theo mẫu ở khối 3. Đồng thời rút ra được bài học kinh
nghiệm cho bản thân.
Chương III: Giải pháp nghiên cứu
I. Mục tiêu của giải pháp
- Từ khi lý luận dạy học ra đời bắt đầu hình thành những định nghĩa khác
nhau về phương pháp dạy học, mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào
đó, phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về
bản chất khái niệm phương pháp dạy học ở một thời kỳ xác định.
- Với mục tiêu chung và chương trình cụ thể, dạy học mĩ thuật ở Tiểu học
khơng chỉ là vẽ mà lấy hoạt động mĩ thuật để nâng cao hiểu biết cho học sinh
giúp các em có thêm kiến thức, kĩ năng trong q trình hồn thiện nhân cách
Đức - Trí - Thể - Mĩ.
- Vẽ theo mẫu là phân mơn tương đối khơ cứng, khó tưởng tượng , do vậy
bài vẽ của học sinh sẽ không giống hệt nhau mà có thể chỉ giống trên những nét
lớn, đặc điểm và hình dáng chung cịn kích thước, đậm nhạt, bố cục…sẽ khác
nhau, tuỳ thuộc vào vị trí, khả năng diễn tả, cảm thụ của người vẽ, và cuối cùng
sẽ có bài vẽ đẹp, bài chưa đẹp.
- Vẽ theo mẫu có ảnh hưởng, tác dụng lớn đến vẽ trang trí, vẽ tranh và
thường thức mĩ thuật. Ví dụ: khả năng quan sát, nhận xét, bố cục, vẽ hình...
Vì vậy, khi dạy bài vẽ theo mẫu, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh
thế nào là vẽ theo mẫu. Cần giải thích thêm để các em phân biệt được: vẽ theo
mẫu khác với vẽ kĩ thuật.
7
skkn
+ Vẽ kĩ thuật yêu cầu vẽ đúng, chính xác đến từng milimét, nét thẳng
phải thẳng băng, đều đều; hình trịn, hình ơvan phải thật chính xác, trịn trịa, đều
đặn. Nét, hình ở vẽ kĩ thuật phải dùng thước, compa…để vẽ.
+ Vẽ theo mẫu chỉ yêu cầu tả lại, mô phỏng lại mẫu, khơng địi
hỏi chính xác, đúng như mẫu. Nét vẽ, hình vẽ ở vẽ theo mẫu tuyệt nhiên khơng
được dùng thước, compa, mà chỉ dùng tay tả lại nét thẳng nét cong của mẫu.
- Cần hình thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng sau:
+ Kĩ năng quan sát: giúp cho học sinh biết cách quan sát đồ vật, quan sát
từ tổng thể đến chi tiết, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát để nắm được tỉ
lệ , đặc điểm cấu trúc và cảm thụ được vẻ đẹp của mẫu. Trên cơ sở quan sát đặc
điểm của mẫu, hình thành ở học sinh biểu tượng về đồ vật, góp phần hình thành
thị hiếu thẫm mĩ và thói quen quan sát nhận ra vẻ đẹp của đồ vật xung quanh,
biết trân trọng cái đẹp và thích tạo ra cái đẹp theo khả năng và sở thích của
mình.
+ Kĩ năng xác định bố cục: Giúp học sinh biết chọn mẫu vẽ, biết sắp xếp
mẫu có bố cục đẹp, biết sắp xếp hình vẽ trên giấy cân đối, thuận mắt.
+ Kĩ năng vẽ hình: Trên cơ sở kết quả quan sát nắm được đặc điểm hình
dáng của mẫu, học sinh sắp đặt bố cục hình vẽ trên giấy và phác hình từ khái
quát, tổng thể đến chi tiết. Nếu không biết cách phác hình thì bài vẽ khơng đạt
được hiệu quả như mong muốn. Có thể phải tẩy xóa nhiều, bài vẽ bẩn và hình
vẽ có thể xộc xệch khơng vững chắc. Kĩ năng này cũng được sử dụng nhiều
trong trang trí, vẽ tranh…
+ Kĩ năng chỉnh hình, trên cơ sở hình vẽ đã được xác định, học sinh biết
cách so sánh hình vẽ với mẫu để điều chỉnh hình cho đúng tỉ lệ, hình dáng, đặc
điểm của mẫu, kỹ năng này cũng được sử dụng trong vẽ trang trí và vẽ tranh.
+ Kĩ năng vẽ đậm nhạt: Sau khi hình vẽ được hoàn chỉnh, học sinh cần
quan sát mẫu để xác định các mảng đậm, nhạt trên cơ sở ánh sáng chiếu vào vật
mẫu. Học sinh biết cách vẽ đậm nhạt, thể hiện đúng các độ đậm nhạt trên mẫu.
II. Mô tả bản chất của giải pháp
1. Nội dung chương trình mĩ thuật lớp 3
Chủ đề: Em sáng tạo với họa tiết. (4 tiết)
Chủ đề: Tranh tĩnh vật. (4 tiết)
Chủ đề: Đồ vật quen thuộc. (4 tiết)
2. Nghiên cứu phương pháp làm mẫu hoặc tưởng tượng trong phân
môn vẽ theo mẫu
Trong các phân mơn của mĩ thuật thì phân mơn vẽ theo mẫu là một phân
mơn quan trọng, cịn có thể nói nó là xương sống, trọng tâm và là nịng cốt của
bộ môn mĩ thuật. Hơn nữa với môn mĩ thuật ở tiểu học chúng ta đang hướng dẫn
học sinh cảm thụ mĩ thuật từ kĩ năng “đóng” sang kĩ năng “mở”, có nghĩa là
8
skkn
hướng các em, tạo điều cho các em cớ sự sáng tạo từ những kiến thức đã được
học và tạo cho mình một kiến thức mang dấu ấn riêng của cá nhân.
Hiện nay môn mĩ thuật bậc tiểu học đã được đổi mới, chuyển sang mơ
hình mới - mơ hình Đan Mạch. Ở mơ hình này, phân mơn vẽ theo mẫu đã được
cải tiến hóa nhằm khơi nguồn cảm hứng sáng tạo, tạo cho các em học sinh sự
năng động, ham học hỏi. Từ vẽ theo mẫu chỉ biết nhìn chăm chăm vào giấy, vẽ
theo đúng các bước dựng hình, phác nét, vẽ chi tiết, vẽ độ đậm nhạt... thì giờ đây
học sinh chỉ cần vẽ theo mẫu dưới sự cảm nhận của bản thân và vẽ lên giấy.
Chính sự thay đổi này, bản thân tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp dạy
tích cực như cho học vẽ bằng cách nhắm mắt nhớ lại mẫu và vẽ trên . Đây là
một phương pháp rất hay, đòi hỏi sự sáng tạo, nhớ lâu và tính thẩm mĩ cao nhất
của học sinh. Bởi vì ngồi kĩ năng quan sát, vẽ hình gần giống mẫu, các em học
sinh cần phải có sự tưởng tượng, sáng tạo- đó mới là kết quả cần đạt được ở vẽ
theo mẫu.
Nếu đi theo các phương pháp dạy trước đây thì khó có thể hướng dẫn, tạo
điều kiên cho các em được thỏa sức sáng tạo, đưa ra những ý tưởng hay. Cho
nên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực nhằm đổi mới
cách dạy, nâng cao hiệu quả bài dạy, nâng cao chất lượng sản phẩm vẽ theo mẫu
của học sinh.
3. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phân môn mĩ thuật
3.1. Phương pháp vẽ biểu cảm:
- Đây là một phương pháp mới sau khi qua quá trình quan sát đa phần khi
vẽ theo mẫu, hầu hết các em khi chịu nhìn mẫu vẽ mà chỉ chăm chú tập trung thị
giác vào tờ giấy vẽ dẫn đến các em chưa nắm rõ cấu trúc, đặc điểm của mẫu vẽ.
Các em lượt bỏ đi một số chi tiết của mẫu - mà những chi tiết đó là đặc điểm để
nhận biết vật mẫu. Đa phần khi vẽ các em cịn lệ thuộc vào cục tẩy, các em hay
gơm tẩy nhiều lần dẫn đến làm cắt đứt nguồn cảm hứng vẽ hay là mất thời gian.
Phần tô màu, các em bị động về cảm nhận màu. Màu của mẫu như thế nào các
em đều tơ như vậy, chính điều đó đã ngăn chặn, kiềm hãm khả năng cảm nhận
tư duy giữa mẫu với cảnh vật thiên nhiên. Bằng phương pháp vẽ biểu cảm, các
em sẽ rút ngăn các giai đoạn phác hình, sắp xếp bố cục mà tập trung vào phần
quan sát, cảm nhận vẽ đẹp. Vẽ biểu cảm ở đây là các em hạn chế nhìn giấy, mắt
nhìn mẫu, tay phác hình vẽ khi mắt nhìn mẫu, chính bằng cách vẽ như vậy, các
em sẽ thể hiện hết được các đặc điểm của mẫu, ngồi các em cịn sáng tạo từ
những nét dư thừa khi vẽ mẫu không nhìn giấy. Qua phần phối màu, mỗi em
một tính cách thì khả năng cảm nhận, phối màu cũng hồn tồn khác nhau. Từ
khả năng cảm nhận sự tương quan màu của mẫu với cảnh vật xung quanh, các
em sẽ tạo cho mình màu hồn tồn khác với các bạn. Từ đó, kết quả sản phẩm
vẽ theo mẫu sẽ sinh động hơn.Và cũng từ đó, học sinh sẽ nhớ lâu về đặc điểm
của mẫu. Đây cũng là phần yêu cầu mục tiêu mà các em cần đạt.
- Có thể vẽ chân dung người hoặc vật khi vẽ học sinh quan sát thật tập
trung chú ý kết hợp mắt và tay HS cố gắng khơng nhìn vào giấy vẽ. Đối với vẽ
chân dung những bức vẽ rất ấn tượng và đôi khi rất hài hước thậm chí có những
9
skkn
bức chân dung chỉ nhận ra bộ phận của cơ thể mắt, mũi, tóc, tai, miệng hay đối
với đồ vật chỉ mang dáng dấp đặc điểm của đồ vật mình vẽ . Vẽ biểu cảm tăng
khả năng quan sát, buộc các em tập trung dùng ý chí bàn tay để vẽ, hình ảnh sẽ
được khắc sâu và nhớ lâu hơn.
* Để rèn luyện những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên
cần:
a. Mẫu vẽ:
Đối với vẽ theo mẫu thì nhất thiết phải chuẩn bị mẫu vẽ. Giáo viên
tự chuẩn bị mẫu vẽ hoặc giao cho các nhóm học sinh chuẩn bị. Mỗi lớp học phải
có ít nhất 4 mẫu cho 4 nhóm. Lựa chọn mẫu vẽ phải có sự đa dạng, phong phú
về kiểu dáng, màu sắc, kích thước...nhằm tạo hứng thú cho học sinh, tránh sự
đơn điệu, nhàm chán. Đặc biệt đối với mẫu vẽ tĩnh vật cần chọn các loại hoa quả
có hình dáng đẹp, màu sắc phong phú. Tuy vậy cũng khơng nên chọn mẫu có
q nhiều màu sắc đối chọi nhau, sẽ làm cho bài vẽ khơng có tính chủ
đạo.Với những mẫu vẽ đẹp học sinh sẽ có hứng thú quan sát, từ đó lơi cuốn vào
các bước tiếp theo của bài vẽ. Như vậy ngay từ bước chuẩn bị đồ dùng học tập,
giáo viên bước đầu hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát mẫu.
b. Tổ chức lớp học:
Lớp học giờ vẽ theo mẫu cần được sắp xếp hợp lí đảm bảo cho tất cả các
học sinh đều có thể quan sát mẫu một cách dễ dàng. Có thể sắp xếp thành 4
nhóm ngồi xung quanh mẫu hoặc xếp học sinh thành 2 hàng dọc hai bên...tuỳ
theo ánh sáng của lớp học.
c. Bày mẫu :
Giáo viên nên để cho học sinh tự bày mẫu, sau đó chỉnh sửa và gợi ý cho
học sinh cách bày mẫu đẹp. Mẫu vẽ cần được bày phong phú và đảm bảo có
nhiều góc vẽ đẹp. Giáo viên yêu cầu học sinh phải tự quan sát và vẽ mẫu đúng
với góc nhìn của mình.
d. Hướng dẫn học sinh quan sát mẫu:
+ Đặt câu hỏi: Giáo viên cần bám sát mẫu để đặt câu hỏi cụ thể trên từng
mẫu vẽ, không đặt câu hỏi một cách chung chung. Khi đặt câu hỏi giáo viên cần
chỉ vào mẫu để hướng sự chú ý của học sinh vào mẫu vẽ.
+ Quan sát mẫu:
Quan sát từ bao quát đến chi tiết, không sa vào chi tiết, bộ phận để nhận
ra
Quan sát mẫu để suy nghĩ về bố cục.
+ Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu: Khi hướng dẫn học sinh vẽ mẫu, giáo viên
cần chuẩn bị hình hướng dẫn các bước vẽ theo mẫu. Bên cạnh sử dụng hình
hướng dẫn chuẩn bị trước, giáo viên cần vẽ minh hoạ thêm những phần
cần nhấn mạnh để học sinh lưu ý. Trước khi học sinh vẽ mẫu, giáo viên cho các
em tham khảo một số bài vẽ hoàn chỉnh của các học sinh khoá trước. Bài vẽ sử
10
skkn
dụng làm bài mẫu tham khảo phải là các bài vẽ được chọn lọc, đạt yêu cầu
về hình, bố cục, đậm nhạt... Sau khi hướng dẫn xong, giáo viên xoá các hình
minh họa và cất bài mẫu, tránh để học sinh bắt chước bài tham khảo. Sau đó học
sinh sẽ nhìn mẫu để vẽ nhưng khơng nhìn vào giấy.
* Để phát triển những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên
cần :
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài học để xác định mục tiêu cụ thể. Trong bài
học đó giáo viên cần hình thành ở học sinh những kĩ năng nào và mức độ
đến đâu?
- Kĩ năng sắp xếp bố cục và phác hình: Qua nhiều bài luyện tập các kĩ
năng trên được hình thành từng bước và phát triển.
- Cuối mỗi bài học qua đánh giá kết quả học tập của học sinh giáo viên
nắm được mức độ, kĩ năng đã phát triển ở từng học sinh và từ đó giáo viên có
thể có kế hoạch bồi dưỡng cho cả lớp và từng cá nhân học sinh.
* Để hình thành và phát triển những kĩ năng trên cho học sinh, giáo
viên nên sử dụng một số phương tiện dạy học như:
-Yêu cầu học sinh cùng tham gia chuẩn bị mẫu vẽ. Học sinh phân cơng
trong nhóm mang theo mẫu và bày mẫu tuỳ theo nội dung của bài học
(có thể bày 3 hoặc 4 nhóm mẫu để học sinh vẽ theo nhóm). Mẫu các nhóm có
thể giống hoặc khác nhau tùy theo yêu cầu của bài. Tuy nhiên phải đảm bảo yêu
cầu chung của bài.
- Bài vẽ của học sinh năm trước (cả bài tốt và bài chưa tốt).
3.2. Phương pháp vẽ theo trí nhớ:
- Vẽ theo trí nhớ là phương pháp vẽ bằng cách cho các em tự do chọn
mẫu mình u thích để vẽ, tiếp đó cho các em liên tưởng tới đồ vật đó, nhớ lai
hình dáng, đặc điểm, cấu trúc và màu sắc của mẫu vẽ. Sau đó cho các em bắt
đầu vừa nhớ vừa vẽ nhanh trên giấy. Phương pháp này sẽ giúp học sinh hoàn
thành bài nhanh, thể hiện hết các đặc điểm của mẫu vẽ. Và kết quả đạt được là
những sản phẩm vẽ theo mẫu phong phú về mẫu vẽ. Nhiều bài vẽ rất đẹp có sự
sáng tạo.
- Phương pháp này giúp các em khơng bị lệ thuộc vào mẫu vẽ. Các em có
thể vẽ mẫu vẽ mà khơng cần nhìn mẫu. Các em sẽ vẽ bằng cách khơi nhớ lại vật
mình cần vẽ. Nhiều người cho rằng vẽ theo mẫu không cần vẽ thì học sinh sẽ vẽ
khơng giống mẫu. Theo tơi điều đó khơng đúng, vì tơi đã áp dụng phương pháp
vẽ theo trí nhớ và đạt được kết quả tốt.
* Để rèn luyện những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên
cần:
a. Mẫu vẽ:
11
skkn
Đối với phương pháp này, giáo viên không nhất thiết chuẩn bị mẫu. Mẫu
vẽ sẽ do học sinh chọn lựa tùy thích ( chọn những mẫu mà học sinh đã quan sát
được trước đó)
b. Tổ chức lớp học:
Học sinh được tự do lựa chọn của mình sao cho phù hợp nhưng cần đảm
bảo trật tự và tất cả các học sinh đều có thể vẽ được
c. Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu theo trí nhớ:
+ Đặt câu hỏi: Giáo viên đặt câu hỏi hướng sự tập trung của học sinh vào
mẫu vẽ, từng chi tiết, bộ phận để học sinh nhớ và vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu: Sau khi hướng dẫn xong, giáo viên yêu
cầu học sinh sẽ nhớ lại mẫu để vẽ vào giấy.
* Để hình thành và phát triển những kĩ năng trên cho học sinh, giáo
viên nên sử dụng một số phương tiện dạy học như:
-Yêu cầu học sinh quan sát trước mẫu thật kĩ, nhớ chính xác và phải đảm
bảo yêu cầu chung của bài.
- Bài vẽ của học sinh năm trước (cả bài tốt và bài chưa tốt).
3.3. Phương pháp tạo hình 3D tiếp cận chủ đề:
Phương pháp này gần giống như phương pháp xây dựng hình 3D nhưng
có sự khác biệt ở chỗ từ một vật liệu bỏ đi các em quan sát và liên tưởng gần
giống đồ vật nào. Sau đó các em sẽ trang trí, cắt vật liệu đó thành đồ vật mình đã
liên tưởng. Nhờ áp dụng phương pháp này đã có những sản phẩm đẹp từ những
vật liệu bỏ đi.
Ví dụ: Đĩa CD, que kem kết hợp với giấy màu các em đã tạo thành một
chiếc xe đạp ngộ nghĩnh; Hộp thuốc, nắp vỏ chai, cây tăm các em đã thiết kế
một chiếc tivi mini xinh xắn...
Phương pháp này sẽ giúp cho các em sự khéo léo, sáng tạo đồng thời giúp
cho các em có ý thức bảo vệ môi trường, tái chế lại những đồ vật bỏ đi.
Các hình khối tạo ra từ những vật tìm được như dây thép, đất nặn, giấy
bồi và được kết nối với nhau trơng 1 khơng gian nhất định. Có rất nhiều chủ
điểm: ngôi nhà, ô tô, xe đạp, thuyền, của hàng , nghề nghiêp, con vật, trò
chơi…..Tùy mồi chủ điểm người giáo viên mĩ thuật có thể thực hiện các em học
tập, khám phá và phản ánh cuộc sống bằng nghệ thuật.
* Để rèn luyện những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên
cần:
a. Chuẩn bị vật liệu:
Học sinh tự chuẩn bị vật liệu hoặc giao cho các nhóm học sinh chuẩn bị.
Lựa chọn vật liệu phải có sự đa dạng, phong phú về kiểu dáng, màu sắc, kích
thước...nhằm tạo hứng thú cho học sinh, tránh sự đơn điệu, nhàm chán... Ngoài
ra giáo viên cũng chuẩn bị những mẫu, như vậy học sinh sẽ có hứng thú quan
12
skkn
sát, từ đó lơi cuốn vào các em tích cực hơn trong hoạt động tạo hình và sưu tầm
vật liệu.
b. Tổ chức lớp học:
Sắp xếp theo nhóm hợp lí, đảm bảo cho tất cả các học sinh đều có thể
thực hiện tạo hình một cách dễ dàng.
c. Bày mẫu :
Mẫu tham khảo, giáo viên nên đặt ở tung tâm lớp học, làm sao đảm bảo
cho tất cả học sinh đều có thể xem được
d. Hướng dẫn học sinh quan sát và thực hiện:
+ Đặt câu hỏi: Giáo viên hỏi về ý tưởng thực hiện tạo hình của học sinh:
hình gì? Sử dụng vật liệu gì?cách thực hiện như thế nào?...
+ Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu: Sau khi hướng dẫn xong, giáo viên để học
sinh tự do sáng tạo theo ý tưởng nhưng giáo viên cần bao quát để giúp đỡ các
em lúc cần thiết.
* Để hình thành và phát triển những kĩ năng trên cho học sinh, giáo
viên nên sử dụng một số phương tiện dạy học như:
-Yêu cầu học sinh chuẩn bị trước vật liệu định tạo hình thật đầy đủ, nhớ
chính xác các chi tiết và phải đảm bảo yêu cầu chung của bài.
- Bài vẽ của học sinh năm trước (cả bài tốt và bài chưa tốt).
4. Kết quả thu được
Qua thời gian giảng dạy áp dụng phương pháp dạy học mới, cùng với sự
sáng tạo chủ động của người giáo viên, sự hoạt động tích cực của người học
sinh, tôi nhận thấy kếtquả của học sinh rất khả quan, điều này chứng tỏ kĩ năng
của các em đã được cải thiện và nâng cao qua sự trải nghiệm hoàn toàn thuyết
phục. Những con số trong bảng dưới đây đã nói lên rất rõ:
Khối lớp
Tổng số HS
Thích học vẽ
Số lượng
3
41
%
41
Khơng thích học vẽ
Số lượng
100
%
0
0
Bảng 1: khảo sát HS thích vẽ và khơng thích vẽ
Tên chủ đề
Số
tiết
Sĩ
số
HS
Đạt
%
Chưa
đạt
%
Chủ đề: Em sáng tạo với họa tiết.
4 tiết
41
40
97,6
1
2,4
Chủ đề: Tranh tĩnh vật.
4 tiết
41
40
97,6
1
2.4
Chủ đề: Đồ vật quen thuộc.
4 tiết
41
41
100
0
0
Bảng 2: Kết quả hs đạt được khi học xong chủ đề
13
skkn
Với kết quả như trên, chứng tỏ rằng các em đều thích vẽ nên việc rèn luyện
kĩ năng thực hành cho các em cần phải được người giáo viên cần phải được chú
trọng, quan tâm.
Chương IV: Hiệu quả sáng kiến
1. Hiệu quả của sáng kiến:
Sau một thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài “Vận dụng phương pháp
dạy học tích cực để rèn kĩ năng các bài vẽ theo mẫu môn Mĩ thuật cho học
sinh lớp 3 Trường Tiểu học Vạn Thọ 1.“ kết quả giảng dạy đạt kết quả cao;
Tiết học vui tươi, sơi động, đa dạng về hình thức dạy luôn tạo cảm giác thoải
mái cho các em khi tham gia tiết học. Giáo viên được gần gũi, thân thiện với học
sinh nhiều hơn; Nếu trước đây theo phương pháp dạy truyền thống, giáo viên chỉ
đưa ra câu hỏi gợi ý để học sinh nắm bắt kiến thức rồi sau đó cho các em vẽ thì
ở phương pháp này người giáo viên được quan tâm, chia sẻ với học sinh thông
qua phần lý thuyết và thực hành. Học sinh thì ham thích học vẽ hơn, các em
được học trong tiết học vui tươi, năng động. Tất cả các em đêu có ý thức làm
việc nhóm. Những em có năng khiếu thì có thể chia sẻ cho những bạn trong lớp.
Các em cùng nhau hợp tác tốt để hoàn thành các sản phẩm. Ngịai ra, các em đã
có ý thức trách nhiệm cao, ý thức tự quản của các bạn nhóm trưởng, các bạn
trong nhóm ln hồn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Không chỉ vậy, những
sản phẩm của bài vẽ theo mẫu của các em cũng tăng dần về số lượng và chất
lượng, đẹp về hình thức và nội dung. Đó cũng chính là u cầu cần đạt trong
mơn vẽ nói chung và phân mơn vẽ theo mẫu nói riêng. Từ đó các em mạnh dạn,
tích cực tham gia vào các cuộc thi vẽ tranh do các ban Ngành, đơn vị tổ chức.
Tuy không phải là chất lưọng mũi nhọn của trường nhưng Ban Giám Hiệu và
các tổ chức đồn thể trường tơi rất quan tâm và tạo điều kiện cho tôi các em học
sinh thuận lợi trong dạy và học chính vì vậy cơng tác giảng dạy ở trường tơi,
bước đầu đã có những kết quả nhất định tạo cho các em có thói quen học tập.
Bản thân tôi tự nhận thấy giáo viên phải biết xây dựng được hình thức dạy học,
sưu tầm các hình ảnh, các trị chơi phù hợp theo từng nhóm đối tượng học sinh ở
từng trình độ khác nhau của mỗi học sinh có thể tiếp thu được, có như vậy các
em mới thích thú học tập. Vì vậy, việc giảng dạy muốn đạt hiệu quả, chất lượng
cao, làm cho mọi học sinh trong lớp đều được học tập thì giáo viên tập trung suy
nghĩ, nghiên cứu có như vậy hiệu quả mới tốt, học sinh mới ham thích học tập.
2. Tổ chức thu thập minh chứng đánh giá hiệu quả, tác dụng của sáng
kiến
- Bài vẽ biểu cảm của học sinh ( phụ lục 1)
- Sản phẩm tạo hình của học sinh ( phụ lục 2)
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc áp dụng các phương pháp dạy vẽ biểu cảm ,vẽ theo trí nhớ là cải
tiến đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
14
skkn
học sinh, lúc bấy giờ giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động
thơng qua hình ảnh trực quan sinh động, học sinh tư duy và tự phát hiện, tìm ra
kiến thức mới của bài học và thực hành đúng đề tài. Tuy nhiên vẫn không quá
lạm dụng phương tiện dạy học này mà giáo viên vẫn chú ý kết hợp nhiều hình
thức dạy học vào một tiết dạy thì kết quả sẽ đạt cao hơn nhiều.Tóm lại, việc áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy phân mơn vẽ theo mẫu có
những ưu điểm so với phương pháp truyền thống như sau:
- Nội dung, hình thức tiết dạy phong phú, đưa được nhiều hình ảnh động,
từ đó, tạo được sự kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo được khơng khí
vui tươi và thi đua trong học tập qua hoạt động thi đua giữa các nhóm. Học sinh
vẽ bài tốt, bài vẽ sáng tạo đạt hiệu quả cao.
- Do tính trực quan cao, nên giúp học sinh yếu kém dễ tham gia và tạo
cảm hứng ham mê môn học.
- Mỗi bài vẽ sẽ có sự sáng tạo. Kết quả sẽ phong phú, đa dạng về hình ảnh
và màu sắc.
Mỗi thầy cơ giáo nói chung và bản thân tơi nói riêng phải đem hết tinh
thần, trách nhiệm, lương tâm và có tâm huyết với công việc để giúp và trang bị
cho các em những kiến thức nhằm xây dựng, đào tạo cho các em trở thành
những công dân tốt cho đất nước, phát huy được năng lực tư duy sáng tạo của
mình, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu của giáo dục hiện nay theo tinh thần cuộc
vận động mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng về tự học, tự rèn và sáng tạo.
Đổi mới nội dung chương trình phương pháp dạy Mĩ thuật hiện nay để phù
hợp với xu thế trên thế giới và phù hợp với điều kiện nước ta đang phát triển. Để
giờ học vẽ theo mẫu đạt hiệu quả tôi đã nghiên cứu và thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học phân môn Vẽ theo mẫu trong chương trình Mĩ thuật Tiểu học dạy
theo phương pháp dạy học tích cực. Đó là một u cầu phù hợp với đặc điểm
nhận thức của học sinh, phù hợp với mục tiêu giáo dục trong thời đại mới. Đổi
mới phương pháp dạy học tạo khơng khí nhẹ nhàng, thoải mái. Học sinh đóng
vai trị chủ đạo tích cực trong hoạt động học tập. Kết quả học phân môn Vẽ theo
mẫu mơn Mĩ thuật được nâng cao. Học sinh có kĩ năng vẽ theo mẫu có thể vận
dụng vào các bài vẽ của các phân môn khác trong môn Mĩ thuật. Các em có thể
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày. Đây là phương pháp thiết
thực để nâng cao chất lượng học tập toàn diện cho học sinh.
2. Khuyến nghị
* Đối với nhà trường:
- Nhà trường ( tổ chuyên môn) thường xuyên tổ chức chuyên đề nhằm đổi
mới và thống nhất phương pháp giảng dạy, áp dụng kinh nghiệm sáng kiến để
giờ học đạt hiệu quả.
- Bên Đội có thể tổ chức những cuộc thi để tạo điều kiện cho các em có
năng khiếu được thể hiện tài năng của mình.
* Đối với phụ huynh:
15
skkn
- Cần có sự quan tâm việc học vẽ của con em mình. Nên tạo mọi điều kiện
để các em hoàn thành, phát huy hết khả năng năng khiếu của mình. Như:
Khuyến khích các em tham gia các cuộc thi mĩ thuật, tạo điều kiện cho các em
vẽ bài khi ở nhà.
- Mong các bậc phụ huynh có cái nhìn công bằng môn mĩ thuật đối với các
môn khác. Không xem nhẹ môn vẽ mà chỉ biết quan tâm các mơn tốn, tiếng
việt.
- Cịn một số em học sinh khi đi học chưa chuẩn bị tốt đồ dùng học tập của
mơn mĩ thuật. Các em chưa có ý thức giữ gìn hay tiết kiệm các đồ dùng học tập.
Một vài học sinh chỉ chăm lo học các mơn tốn, tiếng việt nên chưa hoàn thành
các bài vẽ.
Trên đây là một số phương pháp của tôi trong công tác giảng dạy mơn mĩ
thuật nói chung và phân mơn vẽ theo mẫu nói riêng. Với kinh nghiệm nhỏ nhoi
này tơi hi vọng là sẽ phần nào thúc đẩy quá trình học tập của học sinh ngày càng
tốt hơn. Rất mong sự góp ý của Hội đồng khoa học để đề tài được hoàn chỉnh
hơn.
Vạn Thọ, ngày 30 tháng 9 năm 2019
HIỆU TRƯỞNG
Người viết
Phạm Trần Vy Ni
16
skkn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tập huấn dạy Mĩ thuật - phương pháp Đan Mạch – Bộ giáo dục và đào
tạo.
2. Tài liệu Hướng dẫn các kĩ năng cơ bản vẽ theo mẫu.
3. Giáo trình Mĩ thuật và phương pháp dạy mĩ thuật ở tiểu học – Thạc sĩ Nguyễn
Lăng Bình.
4. Các video mẫu dạy vẽ theo mẫu.
17
skkn
18
skkn