1
Luận văn
Giải pháp tín dụng của chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư & Phát triển Quảng Nam
nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
tỉnh Quảng Nam
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay phát triển được xem như một sự chuyển đổi thành công cơ
cấu của một nền kinh tế. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau thì tỷ lệ chuyển
dịch cũng có sự khác nhau tuỳ theo đặc điểm của mỗi nước. Ở nước ta chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung trọng yếu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đối với tỉnh Quảng Nam có vai trò, vị trí trọng yếu trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng của cả nước.Để kinh tế Quảng
Nam phát triển nhanh bền vững thì cơ cấu kinh tế của tỉnh cần phải được đẩy
nhanh chuyển dịch theo hướng hợp lý, hiện đại. Tuy nhiên, để thực hiện được
điều này cần phải có nhiều nguồn lực tác động, trong đó các giải pháp về
TDNH có một vai trò hết sức quan trọng. Nó là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ
cho sự tăng trưởng kinh tế, là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chính vì vậy mà đề
tài “Giải pháp tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Quảng Nam nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Nam”
đã được chọn để viết luận văn.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải pháp về tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT tỉnh Quảng
Nam nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Nam là đề tài
nghiên cứu góp phần đề ra định hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh
Ngân hàng ĐT&PT Quảng Nam, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế tỉnh Quang Nam trong thơi gian tới.
Đề tài chọn để viết luận văn mang tính đặc thù riêng của Chi nhánh Ngân
hàng ĐT&PT tỉnh Quảng Nam và địa bàn tỉnh Quảng Nam nên đề tài này
không trùng lắp, chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do vậy sẽ có nhiều khó khăn
nhất định trong quá trình nghiên cứu, song cũng có những thuận lợi về mặt lý
luận và thực tiễn để đưa ra những giải pháp, biện pháp tích cực hữu hiệu có
tác dụng với đề tài.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, đề
xuất các giải pháp TDNH nhằm làm tăng tốc quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh Quảng Nam. Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận có ý nghĩa quan trọng về vai trò
tác động của TDNH trong quá trình thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của nền kinh tế nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích đánh giá tác động, kết quả tín dụng của Chi nhánh Ngân
hàng ĐT&PT tỉnh Quảng Nam đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh
Quảng Nam trong thời qua và những yêu cầu mới đặt ra cần giải quyết.
- Đưa ra các giải pháp về tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT
tỉnh Quảng Nam nhằm góp phần thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là một hệ thống đa cơ cấu hợp thành,
được phân chia thành nhiều loại theo những góc độ khác nhau trong đó cơ cấu
kinh tế ngành là quan trọng nhất, bởi vì cơ cấu kinh tế ngành là sự biểu hiện
chính xác trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động, trình độ
khoa học và công nghệ. Mỗi ngành là một đơn vị tổng thể các đơn vị kinh tế
“tế bào” gắn bó hữu cơ với nhau trong các mối quan hệ kinh tế - kỹ thuật,
trong một chỉnh thể thống nhất là nền kinh tế quốc dân. Do những hạn chế về
chủ quan và khách quan, trong khuôn khổ của luận văn chủ yếu tập trung
nghiên cứu và xác định về: Các giải pháp tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng
ĐT&PT tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, phương
hướng, giải pháp nhằm góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của tỉnh
Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định bởi các giới hạn như sau:
+ Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những giải pháp tín
dụng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
4
+ Về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Nam.
+ Về thời gian: Khảo sát đánh giá những tác động của TDNH từ năm
2001 đến nay.
+ Về giải pháp: Luận văn lấy năm 2010 làm mốc thời gian để đề xuất
các giải pháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Căn cứ vào chủ trương, chính sách, nghị quyết của
Đảng, Nhà nước, của địa phương và của ngành để đề xuất.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh,
phân tích, đánh giá và các phương pháp phân tích khác theo phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học chủ yếu của đề tài là đã khái quát, hệ thống hoá
những căn cứ lý luận, thực tiễn về vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc gia nói chung, cơ
cấu kinh tế của tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Phân tích những yêu cầu cơ bản, tiềm năng thực hiện và nhu cầu về vốn
cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần đưa ra những giải pháp tín dụng
của Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT tỉnh Quảng Nam nhằm góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Nam theo hướng CNH, HĐH.
Luận văn cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho cán bộ, sinh viên…
quan tâm đến các hoạt động trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Vai trò của TDNH với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động của TDNH tại Chi nhánh
Ngân hàng ĐT&PT Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp về TD của Ngân hàng ĐT&PT
nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Nam.
5
Chương 1
VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VỚI QUÁ TRÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1.1. QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ NHU CẦU VỀ
VỐN ĐẦU TƯ
1.1.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
- Cơ cấu theo quan điểm triết học, là một phạm trù phản ảnh cấu trúc
bên trong của đối tượng, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản tương đối ổn
định giữa các yếu tố cấu thành đối tượng đó trong thời gian nhất định.
- Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung, mục tiêu định
hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất
định [3].
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C.Mác cho rằng:
“Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ
nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ
sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất vật chất của họ, toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy
hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội” [14, tr.14 - 15].
Cũng theo C.Mác khái niệm CCKT cần được hiểu theo hai phương
diện chất và lượng. Về chất, đó là các quan hệ gắn bó giữa các yếu tố kinh tế
trong một chỉnh thể thống nhất và các yếu tố này vừa làm điều kiện cho nhau,
vừa tác động thúc đẩy nhau đảm bảo cho nền kinh tế vận động cân đối nhịp
nhàng, hiệu quả. Về lượng, đó là quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành nền
kinh tế. Quan hệ này được xác định trong một thời điểm nhất định theo chỉ số
kỹ thuật hay chỉ số giá trị.
Với ý nghĩa trên thì cơ cấu kinh tế được định nghĩa như sau:
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng
tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội [3, tr.347].
6
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy rằng cơ cấu kinh tế không ngừng vận
động và phát triển.Tuy nhiên, không có sẵn một cơ cấu kinh tế hoàn thiện,
cũng như không thể có một cơ cấu kinh tế chứa đựng trong đó tất cả những
sai lầm, khiếm khuyết và lạc hậu. Cơ cấu kinh tế mới được bắt nguồn từ sự
vận động, biến đổi chuyển dịch của cơ cấu kinh tế trước đó, từ sự điều chỉnh
và tích luỹ về số lượng đủ mức dẫn đến biến đổi về chất.
- Phân loại cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế xét trên cấp độ nền kinh tế quốc dân hay trên một vùng
lãnh thổ, nó là một hệ thống đa cơ cấu hợp thành và được phân loại như sau:
+ Cơ cấu ngành kinh tế.
+ Cơ cấu lãnh thổ.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế.
+ Cơ cấu kỹ thuật và công nghệ.
+ Cơ cấu tái sản xuất xã hội.
Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, tinh tế và năng động.
Do vậy, cơ cấu kinh tế của nó cũng mang tính đa cơ cấu, nên việc trình bày
một số cơ cấu nói trên, xét về nội dung không phải là tất cả, mà chỉ là những
cơ cấu chủ yếu trong hệ thống kinh tế quốc dân. Đứng về phương diện nghiên
cứu, mỗi loại cơ cấu nói trên thể hiện một cách tiếp cận khác nhau đối với cơ
cấu kinh tế. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà xác định cách tiếp cận phù
hợp. Trong các loại cơ cấu kinh tế nói trên thì “cơ cấu theo ngành kinh tế - kỹ
thuật là quan trọng nhất” [36, tr.610]. Bởi vì: ngành kinh tế là “ tổng thể các
đơn kinh tế sản xuất cùng một loại sản phẩm hay dịch vụ, nằm trong hệ thống
phân công lao động xã hội Được đặc trưng bởi đặc tính và công dụng của
sản phẩm tạo ra, tính chất và đặc điểm của quá trình công nghệ, chức năng và
vị trí kinh tế của nó trong quá trình tái sản xuất” [26, tr.62].
-Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu kinh tế hợp lý
Một CCKT được xác định là tối ưu khi nó thoả mãn các yêu cầu sau:
+ Phản ảnh được và đúng các quy luật khách quan (bao gồm các quy
luật tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế và xã hội) nhất là các quy luật kinh tế.
7
+ Đảm bảo khai thác tối ưu các tiềm năng của cả nước, ngành, địa
phương và lãnh thổ thông qua các phương án kinh doanh đề ra.
+ Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu thế kinh tế - chính trị của khu vực
và thế giới.
1.1.1.2. Nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch CCKT là quá trình làm biến đổi các yếu tố trong cấu trúc
kinh tế và mối quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành nền kinh tế theo một
mục đích và phương hướng xác định. Về thực chất đây là việc chuyển biến
nền kinh tế từ thấp đến cao, từ không cân bằng đến cân bằng. Chuyển dịch
CCKT phải đảm bảo vừa tăng trưởng và phát triển, vừa giải quyết các vấn đề
xã hội, vừa phát triển con người toàn diện.
- Một số lý thuyết liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Phần trên chúng ta đã nghiên cứu khái niệm và nội dụng của cơ cấu
kinh tế, song chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào thì cũng phải dựa
trên những cơ sở lý thuyết phù hợp. Một số lý thuyết cần quan tâm đó là:
+ Sự phân công lao động và tái sản xuất xã hội của C. Mác.
Phân công lao động và tái sản xuất xã hội có liên quan đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế vì nó gắn liền với sự hình thành các ngành kinh tế quốc dân và
mối quan hệ giữa chúng trên không gian, lãnh thổ nhất định. Theo Mác thì sự
hình thành các ngành kinh tế quốc dân với tư cách là các ngành kinh tế độc
lập gắn liền với sự phát triển kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa dựa trên sự
phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng hoá phát triển thì các ngành kinh tế,
các chủ thể kinh tế trên lãnh thổ ngày càng mở rộng và ngược lại. Một trong
những cơ sở quan trọng nhất của sự phân công lao động xã hội là sự gia tăng
bất bình đẳng trong phân phối dẫn đến sự xuất hiện sở hữu tư nhân và theo đó
là các chủ thể tư nhân độc lập tương đối với nhau; mặt khác các mối quan hệ
giữa các ngành, các vùng là mối quan hệ trao đổi cả về mặt giá trị lẫn hiện vật
tuân theo quy luật tái sản xuất xã hội, trong đó khu vực tư liệu sản xuất tăng
nhanh hơn khu vực tiêu dùng.
8
+ Các lý thuyết trong kinh tế học phát triển.
Ngày nay, “phát triển kinh tế không chỉ làm tăng sản lượng quốc gia
tiềm năng mà còn làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế quốc dân” [6,tr.289]
hay “phát triển được xem như một sự chuyển đổi thành công của một nền
kinh tế” [30, tr.23]. Các quá trình tạo nên sự chuyển đổi đó bao gồm nhiều sự
thay đổi trên mọi lĩnh vực kinh tế: sự gia tăng năng lực sản xuất, sự chuyển
dịch các nguồn lực sử dụng trong quá trình sản xuất cũng như các quá trình
phát triển kinh tế xã hội như phân phối thu nhập, đô thị hoá, di dân… Một số
nghiên cứu thực tiễn cho thấy, xu hướng chung khi thu nhập bình quân đầu
người tăng lên thì có sự dịch chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất
công nghiệp và dân số cũng dịch chuyển từ khu vực nông thôn lao động nông
nghiệp đến thành phố sang các công việc ở các ngành công nghiệp. Vì vậy,
giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng lên ắt phải
xảy ra và tỷ trọng GDP của khu vực nông nghiệp sụt giảm.
Một số lý thuyết như: lý thuyết về giai đoạn phát triển kinh tế, lý thuyết
phát triển cân đối liên ngành, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân
đối… đều nêu vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những chỉ tiêu
quan trọng của sự phát triển trong giai đoạn công nghiệp hoá. “ Chuyển dịch
CCKT theo hướng CNH, HĐH là tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại
sản xuất” [29, tr.39].
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình cải biến cách
mạng dưới tác động đúng đắn, liên tục của nhân tố chủ quan, đặc biệt là vai
trò của Nhà nước, bằng một hệ thống chính sách và biện pháp đồng bộ, phù
hợp với quy luật và điều kiện khách quan, nhằm đẩy nhanh quá trình hình
thành và phát triển cơ cấu kinh tế mới theo những mục tiêu đã xác định.
1.1.2. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Các yếu tố về điều kiện tự nhiên
Nhân tố tự nhiên có thể hiểu là toàn bộ những đặt thù có tính chất tự
nhiên mà trên cơ sở đó những hoạt động kinh tế của con người phải thích ứng
9
và khai thác một cách có hiệu quả. Nhân tố tự nhiên bao gồm các yếu tố chủ
yếu như: vị trí địa lý, khí hậu, thời tiết, đất đai, tài nguyên…
- Về địa lý kinh tế:
Nếu một nước nằm trong vùng lạc hậu chậm phát triển của toàn cầu
hoặc nằm có khoảng cách rất xa so với các nước khác, khó khăn về phát triển
giao thông liên lạc thì việc phát triển kinh tế và tiến hành công nghiệp hoá hết
sức khó khăn. Nước ta nằm ở Đông Nam Châu Á, trên cánh cung trái của
vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương một khu vực kinh tế trên đà chuyển
mình rất mạnh trong xu thế hội nhập, mức tăng trưởng kinh tế cao. Sự phát
triển kinh tế năng động của khu vực đang làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của
nhiều quốc gia.
Vị trí kinh tế, Việt Nam là một nước thuộc nhóm nước nghèo của thế
giới. Lực lượng sản xuất nói chung cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là
kết cấu hạ tầng còn thấp kém và lạc hậu. Sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trên một nền
móng và điểm xuất phát quá thấp như vậy nên gặp rất nhiều trở ngại.
- Về tài nguyên thiên nhiên:
So với một số nước, tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong
phú và phần lớn chưa được khai thác. Đây là một nhân tố có liên quan đến sự
hình thành, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần được coi trọng. Cần
chú trọng khai thác có hiệu quả nhất những lợi thế so sánh vốn có của các
điều kiện tự nhiên.
- Khí hậu thời tiết:
Yếu tố khí hậu thời tiết ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển đặc biệt là
nông nghiệp. Cần phải có sự chuẩn bị đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để
đối phó với thiên tai.
* Các yếu tố về điều kiện xã hội:
Nguồn nhân lực là một yếu tố đầu vào và đầu ra không thể thiếu được
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chất lượng của nguồn nhân lực
thực sự có ý nghĩa quyết định mức độ thành công của quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
10
Chất lượng đào tạo, giáo dục chưa được nâng cao. “Nếp nghĩ tác phong
của người lao động vẫn mang nặng thói quen của một nền sản xuất nhỏ ở một
nước nông nghiệp, nên tính tổ chức kỷ luật còn yếu, tác phong công nghiệp
chưa cao” [3, tr.30]. Tất cả những điều trên sẽ tác động trên cả hai mặt thuận
lợi và khó khăn cần phải tính đến trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cần xác lập một cơ cấu nguồn nhân lực thích hợp, đầu tư thoả đáng cho giáo
dục, kết hợp với chính sách ưu đãi nhân tài thoả đáng.Tiếp tục đào tạo và đào
tạo lại để đảm bảo nhu cầu cho mọi thời kỳ phát triển.
Truyền thống văn hoá (phong tục, tâm lý…) trong sản xuất và tiêu
dùng là yếu tố quyết định đến khối lượng, chủng loại hàng hoá.
Trình độ dân trí và sức khoẻ: đây là yếu tố quyết định chất lượng của
nguồn nhân lực. Nếu có nguồn nhân lực dồi dào có chất lượng cao nó sẽ là
nguyên nhân dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công.
* Các yếu tố về kinh tế:
- Trình độ kinh tế thị trường:
Khi nói đến kinh tế thị trường là nói đến nhu cầu của con người cần
được thoả mãn thông qua thị trường. Nhu cầu của con người lại phụ thuộc vào
việc nền kinh tế xây dựng và chuyển dịch theo cơ cấu kinh tế nào, cho phép
trả lời được và đúng các câu hỏi mà nhu cầu đặt ra: sản xuất cái gì? sản xuất
bằng công nghệ gì? Và sản xuất cho ai? Trong nền kinh tế chỉ huy tập trung
việc trả lời các câu hỏi nêu trên qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu,
bao cấp được gắn liền với một cơ cấu kinh tế kém năng động, hiệu thấp. Khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
năng động, thích nghi với sự biến động của nhu cầu thị trường. Thị trường
càng phát triển do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Khả năng về nguồn vốn và sử dụng vốn
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết để thực hiện
CNH, HĐH,để chuyển dịch CCKT. Mặt khác có vốn mà sử dụng không tốt
thì sẽ lãng phí kém hiệu quả.
11
* Các yếu tố về khoa học - công nghệ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học - công nghệ
là cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
công nghệ diễn ra mạnh mẽ trong nước và trên thế giới, ngày càng trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Trước hết, nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền kinh tế quốc
dân, khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của các yếu tố
hợp thành trong quá trình lao động. Do đó, đòi hỏi cần có quan điểm, cách
nhìn mới trong việc khai thác sử dụng các yếu tố đó nhất là đối với tài
nguyên. Mặt khác, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ cũng đặt ra
những yêu cầu mới đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá cần phải
được tính đến khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Yếu tố về chính trị - quản lý:
Trình độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn phù hợp với trình
độ phát triển của nền kinh tế và chính tính hợp lý của cơ cấu kinh tế là điều
kiện cơ bản thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Cơ chế kinh tế
và cơ chế quản lý ảnh hưởng rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Gắn với
mỗi mô hình kinh tế là một cơ cấu kinh tế tương ứng với nó. Vai trò của Nhà
nước là hết sức quan trọng, mang tính quyết định đối với quá trình chuyển
dịch CCKT.
* Yếu tố về môi trường và điều kiện quốc tế.
Nền kinh tế của nước ta thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường ở xuất phát điểm khá thấp nên rất cần sự hỗ trợ từ bên ngoài và môi
trường quốc tế thuận lợi. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
được phát triển mạnh mẽ và xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng
sâu rộng đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế, đồng thời cũng tạo ra khả năng và điều kiện để các nước tham gia vào
sự phân công hợp tác quốc tế. Đường lối kinh tế mở cửa của nước ta đã tạo
điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã gia nhập vào là một thành
viên của Tổ chức thương mại thế giới-WTO, thông qua việc đa phương hoá
12
các quan hệ và đa dạng hoá các hình thức hoạt động kinh tế đối ngoại trên
nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi nhằm huy động tối đa các nguồn lực bên
ngoài và bên trong, phát huy các lợi thế so sánh tạo nên các tiền đề cho việc
đấy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Giữa các nhóm yếu tố nói trên có quan hệ mật thiết với nhau và có tác
động đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng yếu tố bao
quát mang tính hiệu quả, quyết định vẫn là ở vai trò tác động của Nhà nước
trong thực tế.
1.1.3. Nhu cầu về vốn đầu tư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
1.1.3.1. Quan điểm về vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả luôn là bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tất cả quốc gia trên thế
giới.Vốn là một điều kiện tiên quyết để thực hiện CNH, HĐH nói chung và
chuyển dịch CCKT nói riêng.
Vốn dưới dạng tiền tệ là khoản tích luỹ, là một bộ phận thu nhập chưa
được tiêu dùng. Dưới hình thái vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết
bị nhà xưởng, các công trình hạ tầng, các loại nguyên vật liệu, các sản phẩm
trung gian, các thành phẩm Bên cạnh vốn tồn tại dưới dạng vật chất còn có
loại vốn vô hình (như bằng phát minh sáng chế). Trong quá trình hoạt động
của nền kinh tế, vốn luôn luôn vận động và chuyển hoá. Nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế cho rằng vốn là yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế.
“Vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất và tiến bộ xã
hội, vì thế nó là nhân tố vô cùng quan trọng thực hiện quá trình ứng dụng
khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế” [12, tr.20].
Vốn đầu tư bao gồm nguồn tích luỹ trong nước, vốn từ nước ngoài với các
hình thức viện trợ, tín dụng và đầu tư trực tiếp.Trong đó “vốn trong nước là quyết
định, vốn nước ngoài là quan trọng” [8, tr.87]. Có như vậy chúng ta mới đảm bảo
nâng cao cao tính độc lập tự chủ của đất nước trong chuyển dịch CCKT.
13
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vai trò to lớn của vốn đối với phát
triển sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch CCKT được thể hiện như là một trong
những điều kiện cốt yếu đảm bảo cho CNH, HĐH nhanh chóng đi đến thắng
lợi. Vì rằng qui mô và tốc độ gia tăng của vốn ảnh hưởng trực tiếp và có tính
quyết định trong việc thúc đẩy phát triển ứng dụng công nghệ. Nhờ đó, CCKT
của đất nước không ngừng được chuyển dịch ngày càng hợp lý làm cho tốc độ
tăng trưởng kinh tế bền vững hơn.
1.1.3.2. Vốn là một trong những tiền đề cơ bản thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Để đạt được những mục tiêu của chuyển dịch CCKT, cần phải khai
thác tốt mọi nguồn lực, đặt biệt là phải có nhiều vốn thì mới tạo nên bước
biến đổi to lớn về chất trong lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ, thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch CCKT trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế
quốc dân và trong từng ngành, vùng Thực tế trong nhiều năm qua cho thấy
đóng góp của các yếu tố đầu vào (tổng vốn đầu tư, chất lượng lao động và
năng suất lao động) cho tăng trưởng kinh tế chủ yếu là từ yếu tố vốn, “thời kỳ
1993-1997 tăng trưởng kinh tế từ yếu tố vốn chiếm 69%, thời kỳ 1998-2002
con số này là 57,5%” [29, tr.8]. Bên cạnh đó do xuất phát điểm của nền kinh
tế còn thấp trong khi đó hiệu quả sử dụng vốn còn thấp do lãng phí thất thoát
trong đầu tư còn khá lớn, cho nên nhu cầu vốn rất cao và vốn đóng vai trò
quan trọng chủ yếu.
Chúng ta làm rõ hơn nhu cầu và tầm quan trọng của vốn cho chuyển
dịch CCKT ở nước ta hiện nay trên một số khía cạnh sau:
+Vốn cho việc xây dựng và phát triển hạ tầng theo yêu cầu chuyển dịch
CCKT có ý nghĩa sống còn bởi vì cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ gây trở ngại lớn
cho quá trình phát triển kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển cao bền
vững phải có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, phù hợp.
+Vốn cho việc đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ tạo động lực
thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH đang là nhu cầu bức
bách. Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất. Do đó,
14
vốn dành cho lĩnh vực này là hết sức cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu “đi tắt,
đón đầu” mà chúng ta đã đề ra trong quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT.
+ Thông qua huy động và đầu tư, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ thúc đẩy
sự hình thành và phát triển những ngành, nghề mới, vùng kinh tế trọng điểm.
Khi các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng trọng điểm đã được xác định trong quá
trình chuyển dịch CCKT, sự tập trung vốn cho các ngành, các vùng đó để
khai thác tiềm năng về nguyên liệu, tài nguyên, nguồn lao động sẽ đẩy nhanh
quá trình hình thành xác lập những ngành, vùng đó trong CCKT, tạo nên sức
bật mạnh mẽ phát huy ảnh hưởng lan toả lôi cuốn các ngành, vùng khác cùng
phát triển, tạo ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao, có lợi thế cạnh tranh trên
thị trường quốc tế.
+Vốn đầu tư tạo điều kiện đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn.
Ở nước ta có khoảng 70 % dân số đang sinh sống trên các địa bàn nông
thôn. Ở đây, các tài nguyên, nguồn nhân lực đang còn hứa hẹn một tiềm
năng to lớn. Cần vốn để đầu tư, phát triển làm cho sản phẩm nông nghiệp trở
thành hàng hoá có chất lượng cao, có khả năng xuất khẩu
1.1.3.3. Dự tính nhu cầu vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Phương pháp tính toán nhu cầu vốn:
Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho chuyển dịch CCKT cũng chính là nhu cầu
vốn cho tăng trưởng kinh tế. Phương pháp tính nhu cầu vốn đầu tư hiện nay
trên thế giới là dựa vào mối quan hệ giữa tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế với tăng
trưởng kinh tế do nhà kinh tế Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đưa
ra để sử dụng phân tích kinh tế: Hàm này chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với hệ số gia tăng tư bản đầu ra (ICOR)và tỷ lệ đầu tư như sau:
i
k
g
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP)
i là tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (%GDP)
k là hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR)
15
Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) là tỷ lệ giữa vốn đầu tư và sản
lượng. Nghĩa là lượng vốn đầu tư đòi hỏi cho 1 đơn vị sản phẩm gia tăng.
Kinh nghiệm của các quốc gia thành đạt cho thấy, tốc độ tăng trưởng
cao thường đi đôi với hệ số ICOR thấp. Tuy nhiên ở giai đoạn đầu của sự phát
triển kinh tế thì hệ số ICOR thông thường là 3, sau đó tăng dần lên 4; 5 khi
nền kinh tế phát triển ở mức cao hơn. Sai lầm trong chiến lược phát triển kinh
tế dẫn đến sai lầm trong cơ cấu đầu tư, cùng với việc sử dụng vốn lãng phí,
kém hiệu quả làm tăng nhanh hệ số ICOR kéo theo việc giảm sút tỷ lệ đầu tư
sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và khả năng tích luỹ của nền kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế đến lượt nó lại là cơ sở cho việc tăng lượng vốn đầu tư, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh hơn. Bên cạnh vốn đầu
tư theo chỉ số ICOR còn có vốn lưu động để các nhà sản xuất kinh doanh mua
hàng hoá vật tư …
- Dự tính nhu cầu vốn đầu tư cho chuyển dịch CCKT ở nước ta trong
những năm đến
Khi chuyển đổi cơ cấu từ một nền kinh tế sử dụng nhiều lao động và ít
vốn sang nền kinh tế nhiều vốn thì hệ số ICOR tăng lên. Hệ số ICOR của
nước ta giai đoạn 2001-2005 là 4,88, tốc độ tăng GDP bình quân 7,51%/năm,
riêng năm 2005 tỷ lệ đầu tư xã hội trên GDP là 39,62%, tốc độ tăng trưởng
GDP là 8,43%. Dự báo hệ số ICOR của nước ta thời kỳ 2006-2010 là 5,0, tốc
độ tăng GDP 7,5 - 8,0/năm. Như vậy vốn đầu tư xã hội mỗi năm cần từ 15-20
tỷ USD, trong đó vốn trong nước chiếm trên 60%
Vậy vốn là nhu cầu bức bách và điều kiện tiên quyết cho việc đẩy mạnh
chuyển dịch CCKT theo hướng hiện đại. Do đó, muốn đấy mạnh chuyển dịch
CCKT thì cần phải huy động được nhiều vốn cho đầu tư phát triển. Quá trình
chuyển dịch CCKT diễn ra nhanh hay chậm là do việc tích tụ, tập trung vốn
có đáp ứng được yêu cầu hay không. Nguồn cung ứng vốn cho đầu tư được
huy động thông qua các kênh như: ngân sách Nhà nước, tín dụng ngân hàng,
vốn tự có của các tổ chức kinh tế, dân cư Trong điều kiện vốn ngân sách
Nhà nước còn hạn chế, thì vốn tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng.
16
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1.2.1. Quan điểm về vị trí vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc
huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong lĩnh vực này có một số quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng ngân hàng thương mại cũng là doanh
nghiệp nên mục đích kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt
động nghiệp vụ trong đó hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn mà không cần
quan tâm đến sự phát triển kinh tế chung cũng như sự tác động của TDNH
vào chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
- Quan điểm thứ hai cho rằng ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp
có tính đặc thù, kinh doanh loại hàng hoá “đặc biệt”, nó là huyết mạch của
nền kinh tế có động lực thúc đẩy phát triển mạnh nhất. Do đó, tín dụng ngân
hàng là một công cụ trọng yếu thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nên cần phải có
cơ chế tập trung: như chỉ định cho vay, bảo lãnh
Các quan điểm trên có mặt đúng nhưng chưa toàn diện và không thể
làm định hướng cho việc đề ra các giải pháp phát huy vai trò TDNH đối với
chuyển dịch CCKT, cần phải có một quan điểm toàn diện về vai trò của
TDNH trong việc huy động và đáp ứng nhu cầu vốn thúc đẩy chuyển dịch
CCKT. Đó là: TDNH là một kênh thu hút và cung ứng vốn rất quan trọng đối
với chuyển dịch CCKT theo hướng hợp lý, hiện đại. Nó tác động thúc đẩy
chuyển dịch CCKT thông qua việc thực hiện cơ chế chính sách của Nhà nước
và qui chế nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng.
1.2.2. Tín dụng ngân hàng và tác động của nó đối với chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
1.2.2.1. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá. Khái niệm “tín
dụng” nói chung có nguồn gốc từ thuật ngữ La tinh “credittum” có nghĩa là sự
tin tưởng tín nhiệm. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả
cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời
quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi.
17
Phân loại tín dụng theo tính chất chủ thể các quan hệ tín dụng như: tín
dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước,
tín dụng tiêu dùng.
Phân loại tín dụng tín dụng theo phạm vi tác dụng: tín dụng trong nước,
tín dụng quốc tế.
Phân loại theo nội dung, đặc điểm, phạm vi có tín dụng hàng hoá, tín
dụng tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng.
Đó là mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các
nhà doanh nghiệp và cá nhân. Nó là nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân
hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển trên cơ sở hình thành và phát
triển của nền sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá - tiền tệ. TDNH đã trải
qua một quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp về kỹ thuật và nghiệp
vụ, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng lớn về không gian
Tín dụng ngân hàng có hai chức năng cơ bản là:
+ Huy động và cho vay vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
+ Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua các quan hệ tín dụng với
các tổ chức kinh tế và cá nhân.
Tín dụng ngân hàng có các hình thức cơ bản sau: tín dụng ngắn hạn, tín
dụng trung và dài hạn.
Phân chia theo đối tượng đầu tư tín dụng: tín dụng vốn lưu động và tín
dụng vốn cố định.
Phân chia theo loại hình nghiệp vụ: tín dụng thuê mua, bảo lãnh, chiết
khấu chứng từ có giá.
Vai trò của tín dụng ngân hàng tác động đến chuyển dịch CCKT thông
qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.2.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng với sự hình thành và phát
triển xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thứ nhất, TDNH tác động vào sự hình thành và phát triển xu hướng
chuyển dịch CCKT nền kinh tế quốc dân thông qua việc đáp ứng yêu cầu phát
triển ngày càng cao của nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế
18
Tín dụng ngân hàng là một nhân tố quan trọng của nền kinh tế hàng
hoá, là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để phát triển nền kinh tế đó, thể hiện ở chỗ:
- Trong nền kinh tế thị trường những người có vốn tạm thời nhàn rỗi,
sẵn sàng cho vay số tiền đó của mình, nếu biết có người cần vay và có đủ độ
tin tưởng. Còn những nhà doanh nghiệp khác cũng vì mục đích sinh lợi của
vốn mà rất cần vay thêm tiền để mua sắm thêm máy móc, thiết bị đầu tư mở
rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mua nguyên vật liệu do chưa kịp bán hàng
hay cần lập doanh nghiệp mới mà chưa tích luỹ đủ vốn. Để giải quyết mâu
thuẫn đó, ngân hàng cũng vì mục đích kiếm lời cho mình và cho những người
có tiền, đã thông qua quan hệ tín dụng thu hút những khoản tiền tạm thời nhàn
rỗi của các tổ chức kinh tế, xã hội và của các tầng lớp dân cư khác, cho các
nhà doanh nghiệp, hộ kinh doanh, đang cần vốn vay. Qua sự môi giới trung
gian này ngân hàng đáp ứng được yêu cầu vốn của quá trình tái sản xuất và sự
vận động sinh lời của vốn nhàn rỗi.
- Tín dụng ngân hàng tác động sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân
hóa tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Tín dụng ngân
hàng luôn “chuyển hướng” đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao,
hạn chế hoặc không đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua
đó, tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung - cầu hàng hoá và thay
đổi cơ cấu ngành kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu
quả vốn tiền tệ (nhất là làm cho tiền để nhàn rỗi giảm xuống mức tối thiểu cần
thiết), tạo điều kiện cho người sản xuất kinh doanh tăng lợi nhuận để có
nguồn đầu tư phát triển.
Thứ hai, TDNH tác động vào sự hình thành và phát triển xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nền kinh tế quốc dân.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường tất yếu phải có sự chuyển dịch CCKT theo hướng hợp lý
hiện đại, tạo ra CCKT mới mang những đặc trưng của một CCKT tối ưu.
19
Phục vụ và thúc đẩy quá trình đó là mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ
quốc gia. Do đó, thông qua hoạt động tín dụng nhằm góp phần tích cực thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Qua đó, tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thúc
đẩy quá trình hình thành, phát triển và chuyển dịch CCKT của các ngành, các
vùng và các thành phần kinh tế.
Trong những năm qua ở nước ta, khối lượng vốn đầu tư và tỷ trọng dư
nợ cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh trong tổng dư nợ cho vay tăng
nhanh, đã góp phần tích cực phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, hình thành
CCKT nhiều thành phần, theo định hướng chiến lược chung của đất nước.
Có thể nói rằng, thông qua việc góp phần có ý nghĩa quyết định thực
hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia, tín dụng ngân hàng thực sự là
động lực mạnh mẽ, đầy tiềm năng đối với việc thúc đẩy quá trình hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng ngành kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Là một kênh đầu tư vốn quan trọng, tín dụng ngân hàng góp phần phá
vỡ vòng luẩn quẩn của những nước nông nghiệp nghèo nàn, kém phát triển,
tiến hành quá trình CNH – HĐH để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn. Một
nước có nền sản xuất kém phát triển thì thu nhập thấp, đầu tư sẽ thấp và kết
quả là sản xuất kém phát triển … Mỗi nước chọn một khâu trọng yếu để làm
đột phá khẩu phá vỡ vòng luẩn quẩn đó. Chẳng hạn như trước đây, nước Mỹ
mở rộng cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Nhật Bản thực hiện chính sách
thắt lưng buộc bụng… Đối với Việt Nam, đột phá khẩu chính là đẩy mạnh tiết
kiệm để dành vốn cho đầu tư với phương châm vốn trong nước là quyết định,
vốn nước ngoài là quan trọng. Với tư cách là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư,
tín dụng ngân hàng trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế và dân
cư trong nước, trong tổng thể cơ cấu các thành phần kinh tế, các ngành kinh
tế… Thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi hiện đang nằm phân tán ở khắp mọi nơi. Mặt khác, thông
qua hoạt động tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới
nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp
20
mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C… Như vậy, nguồn vốn trong và
ngoài nước chủ yếu được thu hút qua kênh tín dụng ngân hàng đầu tư cho các
tổ chức kinh tế mua vật tư, hàng hoá, trang thiết bị, đổi mới công nghệ…Bên
cạnh việc cho vay phục vụ sản xuất hàng hoá, phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, TDNH đã tăng cường đầu tư
vào một số vùng kinh tế trọng điểm và ngành công nghiệp mũi nhọn. Trong
những năm gần đây, hầu hết các chương trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đổi mới công nghệ, tạo việc làm, xây dựng nhà xưởng… đều có vốn
ngân hàng tham gia đầu tư với tỷ trọng ngày càng cao. Từ đó, TDNH đã đóng
góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế cả về mặt lượng (tăng trưởng dựa vào
tăng vốn đầu tư) và tăng trưởng về mặt chất (tăng trưởng do chuyển dịch
CCKT trên cơ sở phát triển và đổi mới công nghệ). Điều này được thể hiện rõ
ở kết quả tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng trong thời gian qua. Cụ thể
là năm 2001 tăng 25%, năm 2002 tăng 30%, năm 2003 tăng 27%.Bên cạnh đó
cùng với việc hợp tác mở rộng quan hệ quốc tế, các ngân hàng thương mại bằng
nhiều hình thức khác nhau đã huy động được nhiều nguồn vốn nước ngoài để
phục vụ cho đầu tư phát triển, tài trợ xuất nhập khẩu hàng trăm triệu USD.
Thứ ba, cơ chế hoạt động tín dụng cơ bản là “đi vay để cho vay”, “vay
có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn và lãi”, nếu quá hạn phải chịu lãi
suất cao Tín dụng ngân hàng thực sự là kênh dẫn vốn đảm bảo tốt nhất yêu
cầu nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn cho chuyển dịch CCKT
theo hướng CNH, HĐH
Ngân hàng không cho các đơn vị kinh tế làm ăn kém hiệu quả vay,
không đầu tư tín dụng cho các dự án thiếu tính khả thi, và không cho vay
những đơn vị để nợ khê đọng từ đó, ngân hàng buộc người vay phải năng
động, sáng tạo, phải nâng cao chất lượng hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn
đi đôi với hạ giá thành sản phẩm để tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh -
nghĩa là phải sử dụng vốn đầu tư một cách tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất. Điều
đó đòi hỏi các chủ dự án phải cân nhắc, tính toán thận trọng đảm bảo tính hiệu
quả và khả thi của dự án để được vay vốn. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng là
21
nguồn vốn chủ yếu bổ sung vốn lưu động (ngắn hạn) cho các tổ chức kinh tế
mua nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất kinh doanh khi đưa dây chuyền
mới vào hoạt động. Các dự án đầu tư sẽ không thực hiện được và trở nên vô
nghĩa khi máy móc - thiết bị công nghệ được đầu tư (từ mọi nguồn vốn)
không hoạt động, hoặc hoạt động cầm chừng vì thiếu vốn để mua nguyên,
nhiên vật liệu cho sản xuất. Mặt khác, TDNH tác động rút ngắn thời gian chu
chuyển vốn (giai đoạn lưu thông) qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, bộ
chứng từ thanh toán L/C
Thứ tư, TDNH tác động tới quá trình chuyển dịch CCKT thông qua
việc góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố
“đầu vào” và “đầu ra”, thúc đẩy xác lập CCKT mới theo hướng tiên tiến,
hiện đại
Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng làm biến đổi các điều kiện
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, nhất
là đảm bảo các yếu tố “đầu vào”, “đầu ra” qua một hệ thống thị trường đồng
bộ về vốn, lao động, vật tư và tiêu thụ sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp ở
Việt Nam thuộc loại quy mô vừa và nhỏ, có vốn lưu động tự có rất thấp so với
nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư, hàng hoá dự trữ cho sản xuất
kinh doanh (kể cả trong nước và nhập khẩu) chủ yếu được bù đắp bằng vốn
tín dụng ngân hàng (ngay cả ở Mỹ, các ngân hàng là nguồn vốn bên ngoài
quan trọng nhất để tài trợ cho các doanh nghiệp). Trong những năm qua ở
nước ta, Ngân hàng Công thương Việt Nam triển khai cho sinh viên vay vốn
học tập đã góp phần tích cực vào việc tạo nguồn và nâng cao chất lượng cho
thị trường lao động chất xám. Mặt khác, TDNH cũng tác động mạnh mẽ vào
việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng
tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập
trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh
tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập CCKT mới theo hướng tiên tiến, hiện đại.
22
Thứ năm, TDNH tác động tới quá trình chuyển dịch CCKT quốc dân
thông qua phát huy vai trò công cụ đòn bẩy của nó trong việc thực thi chính
sách tiền tệ - tín dụng, thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo những mục tiêu đã
hoạch định
Các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, của từng địa phương, từng vùng, từng ngành kinh tế (trong đó có
mục tiêu chuyển dịch CCKT) được thực hiện bằng nhiều giải pháp, cơ chế
chính sách, trong đó có chính sách tiền tệ - tín dụng mà TDNH là một trong
những nội dung, công cụ quan trọng.
Chẳng hạn, việc xoá bỏ cơ chế lãi suất “trần”, ”sàn”, thực hiện cơ chế
lãi suất cơ bản, rồi chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận đã giúp cho các
TCTD chủ động, linh hoạt hơn trong điều hành lãi suất, “ưu đãi” cho vay lãi
suất thấp hơn khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích những khách hàng có quan
hệ tín dụng tốt với ngân hàng. Qua đó góp phần tác động chuyển dịch CCKT với
mục tiêu hướng mạnh về xuất khẩu. Hoặc trong đầu tư tín dụng bình đẳng với
mọi thành phần kinh tế, đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo mục tiêu
thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và các thành phần kinh tế bình đẳng với
nhau trước pháp luật và trong sản xuất kinh doanh
1.2.2.3. Tác động của tín dụng ngân hàng trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành
Trong chuyển dịch CCKT ngành, TDNH tác động khai thác tiềm năng,
phát triển những ngành mới theo những quy mô hợp lý, công nghệ hiện đại là
“cầu nối” góp phần tích cực thúc đẩy mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong
sự phát triển của các ngành.
- Trong chuyển dịch CCKT ngành nông nghiệp, TDNH tác động vào
việc khai thác tiềm năng thúc đẩy phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá có
hiệu quả. Thông qua cho vay thu mua xuất khẩu lương thực, thực phẩm và
ngành chế biến hàng nông phẩm, tạo điều kiện để sản phẩm nông nghiệp trở
thành hàng hoá và được tiêu thụ mạnh. TDNH tác động khai thác tiềm năng,
23
tăng năng suất lao động nông nghiệp qua việc đầu tư áp dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật nông nghiệp (đặc biệt trong phát triển và ứng dụng công
nghệ sinh học như giống mới, chăm bón, bảo vệ cây trồng, vật nuôi), cơ giới
hoá nông nghiệp để rút ngắn thời gian chuẩn bị canh tác, thời gian thu hoạch,
phát triển hệ thống năng lượng và giao thông vận tải ở nông thôn Như vậy,
TDNH là một “cầu nối” góp phần tích cực thúc đẩy mối quan hệ tương tác lẫn
nhau trong sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp.
- Trong chuyển dịch CCKT ngành công nghiệp, TDNH thúc đẩy quá
trình sắp xếp lại và hiện đại hoá, hiệu quả hoá lực lượng công nghiệp hiện có;
phát triển những ngành công nghiệp mới theo những quy mô hợp lý, công
nghệ hiện đại, đủ sức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và
kinh tế nông thôn.
Với nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi, ngân hàng không đầu tư tín dụng
vào những doanh nghiệp yếu kém về khả năng sản xuất kinh doanh và không
nhất thiết phải thuộc sở hữu Nhà nước, đã góp phần tích cực thực hiện chủ
trương giải thể hoặc cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn không có hiệu
quả, thua lỗ kéo dài Những doanh nghiệp mới hoặc những doanh nghiệp
chuyển hướng sản xuất kinh doanh - với phương án có tính khả thi, hiệu quả
cao được vay vốn tín dụng ngân hàng đủ mức cần thiết để đổi mới trang bị kỹ
thuật - công nghệ và bổ sung vốn lưu động cho phát triển sản xuất kinh
doanh. Qua đó, TDNH thúc đẩy sự chuyển dịch, chuyển đổi cơ cấu các ngành
công nghiệp theo hướng CNH, HĐH với nhiều mặt hàng, nhiều chủng loại
với chất lượng cao.
- Trong chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ: TDNH tác động thúc đẩy ngành
dịch vụ phát triển nhanh, nhất là những ngành dịch vụ có liên quan tới thu hút đầu
tư nước ngoài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH; Tích cực góp phần khắc
phục tình trạng cơ cấu bất hợp lý, thiếu đồng bộ trong ngành dịch vụ.
Trong các ngành dịch vụ, TDNH ưu tiên đầu tư cho phát triển dịch vụ,
du lịch, hàng không, thương mại và các dịch vụ khác phục vụ yêu cầu phát
triển của các ngành kinh tế quốc dân. Chẳng hạn, Ngân hàng Ngoại thương
24
Việt Nam bảo lãnh cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam mua máy bay
của nước ngoài, mua ô tô về cho thuê làm xe tắc xi Ngân hàng Công thương
Việt Nam bảo lãnh và trực tiếp cho Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam vay vốn trang bị mạng cáp quang và các tổng đài điện tử
1.2.3 Tác động của quản lý và tổ chức bộ máy hoạt động ngân hàng
đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2.3.1 Quản lý của Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương)
đối với các lĩnh vực tiền tệ - tín dụng về hoạt động ngân hàng nói chung
Vai trò của NHTW thông qua các nhiệm vụ và quyền hạn đặt thù nhằm
hướng vào mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát việc cung ứng tiền và
tạo điều kiện cho ổn định và tăng trưởng kinh tế thông qua việc hoạch định và
thực thi chính sách tiền tệ. Thông qua quản lý thực thi các cơ chế kích thích
tích tụ- tập trung, huy động, cho vay vốn một cách có hiệu quả.
NHTW thông qua cơ chế sử dụng hệ thống công cụ của chính sách tiền
tệ như: dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái, nghiệp vụ thị trường mở … một cách
phù hợp với yêu cầu từng thời kỳ tác động vào hoạt động TDNH nhằm thực
hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, thúc đẩy chuyển dịch CCKT.
1.2.3.2. Quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động tín dụng
của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian tài chính khác
NHNN là cơ quan chủ trì trong việc hoạch định chính sách tiền tệ - tín
dụng, ban hành các qui định cơ bản về hoạt động tín dụng, huy động vốn,
thanh toán Nếu chính sách tiền tệ và những qui chế đó mang tính khoa học,
phù hợp với thực tiễn thì tính khả thi và tác động của TDNH trong chuyển
dịch CCKT được phát huy mạnh mẽ, ngược lại nó sẽ kìm hãm hoặc trở thành
lực cản kéo chân các NHTM và các tổ chức trung gian tài chính khác trong
việc huy động, cho vay đối với các đơn vị kinh tế.
1.2.3.3. Vai trò tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại đối với
các đơn vị kinh tế và dân cư
Vai trò tín dụng của NHTM có tác động trực tiếp đến hoạt động SXKD
của các tổ chức kinh tế và dân cư, qua đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu
25
kinh tế. Vai trò đó phụ thuộc vào mục tiêu kinh doanh của các NHTM và
quản lý hoạt động tín dụng của Nhà nước. Hệ thống NHTM là công cụ đắc
lực đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng
Nhà nước không giao nhiệm vụ trực tiếp cho các ngân hàng làm việc này và
yêu cầu nó làm với bất cứ giá nào. Nhiệm vụ này được thực hiện một cách tự
nhiên như là hệ quả tất yếu của hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng.
- Một giải pháp quan trọng trong quản lý NHTM nhằm đảm bảo an
toàn vốn đi đôi với tăng trưởng khối lượng tín dụng là phải tuân theo qui luật
khách quan, phát triển tín dụng phải theo chiều hướng chung của nền kinh tế
và chính sách tiền tệ quốc gia. Do đó cơ chế tín dụng phải tuân theo qui định
chung của Nhà nước, đồng thời đi theo quỹ đạo của sự phát triển, chuyển dịch
CCKT theo hướng hợp lý hiện đại, cụ thể là:
+ Về chính sách về cơ cấu đầu tư: Khi các NHTM tăng tỷ trọng cho vay
trung, dài hạn; cho vay kinh tế ngoài quốc doanh; các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong tổng dư nợ thì các doanh nghiệp có điều kiện thực hiện tốt CNH, HĐH.
+ Về huy động vốn của các NHTM nếu linh hoạt mềm dẻo sẽ thu hút
được nhiều vốn, với lãi suất huy động bình quân thấp.
+ Về lãi suất phù hợp sẽ kích thích cả người gửi lẫn người vay. Có thể
đưa ra một số lãi suất ưu đãi trong cho vay xuất khẩu, cho vay sinh viên, cho
vay ở vùng sâu vùng xa Cơ chế đó làm tăng thêm vai trò thúc đẩy của
TDNH đối với quá trình chuyển dịch CCKT.
+ Qui định về thủ tục cho vay phải phù hợp với điều điện thực tế của
nước ta thì các doanh nghiệp mới có điều tiếp cận các nguồn vốn của
ngân hàng.
Tóm lại TDNH có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá, đã,
đang và sẽ là công cụ, động lực to lớn trong quá trình hình thành, phát triển,
chuyển dịch CCKT. Mặt khác, chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH
làm cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh, từ đó tạo thị trường và động lực tăng
quy mô tín dụng ngân hàng, giảm bớt rủi ro.