Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tác động của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767 KB, 105 trang )














LUẬN VĂN:

Tác động của việc Trung Quốc gia nhập
tổ chức thương mại thế giới đối với xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam










LỜI MỞ ĐẦU



Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
Trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế hiện nay,gia nhập tổ chức WTO là một bước
đi tất yếu đối với tất cả các nước. Và với việc Trung Quốc gia nhập WTO không chỉ là
sự kiện sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế Trung Quốc trong hiện tại và tương lai mà còn
ảnh hưởng chung đến nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là các nước trong
khu vực.
Thực tế đã chứng minh như vậy, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, với nhiều lợi
thế sẵn có, cùng với bước đi đúng đắn, Trung Quốc trở thành một nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất trên thế giớí trong nhiều năm liên tục, và đứng đầu thế giới
trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng chế tạo. Điều đó một mặt gây ra sức ép lớn
hơn cho các nước Châu Á trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu các
mặt hàng của họ sang các thị trường lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU.
Tuy nhiên các nước Châu Á không phải là không có thuận lợi, với việc Trung Quốc
mở của thị trường của mình, các nước có thể khai thác một thị trường tiềm năng với
trên 1,2 tỷ người.
Đối với Việt Nam, do đặc điểm về vị trí địa lý và lịch sử, việc Trung Quốc gia nhập
WTO càng có ảnh hưởng sâu sắc hơn. Vốn đã có nhiều ưu thế hơn Việt Nam trong
nhiều mặt hàng xuất khẩu, với việc gia nhập WTO Trung Quốc sẽ được hưởng các ưu
đãi, đặc biệt là thuế quan của các nước thành viên WTO, điều này sẽ gây ra sức ép lớn
lên các hàng hoá cùng loại của Trung Quốc trên thị trường thứ ba. Đây là một bất lợi
lớn của Việt Nam trong việc cạnh tranh các hàng hoá cùng chủng loại, nhất là trên các
thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Với việc gia nhập WTO, môi trường đầu
tư của Trung Quốc còn được nâng cấp hơn nữa, điều đó đồng nghĩa tăng khả năng thu
hút vốn đầu nước ngoài. Tạo nên một sức ép cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài đối với các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh những thách thức là những cơ hội đối với Việt Nam, với một nền kinh tế
đang trên đà phát triển với tốc độ cao, theo đó là nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng
lên là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Cùng




với đó là các cam kết WTO, Trung Quốc sẽ thực hiện chế độ thương mại cởi mở hơn,
đó là cơ hội cho các hang hoá Việt Nam, đặc biệt là hàng nông, lâm, thuỷ sản có cơ
hội tăng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc.
Như vậy rất khó đánh giá những ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO
đến hoạt động xuất nhập khẩu khẩu Việt Nam.Các ảnh hưởng này phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như mức độ thương mại của Trung Quốc với các nước,lợi thế cạnh tranh từng
ngành hàng, hay mối quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Và vì vậy
cần có sự nghiên cứu cụ thể những lợi thế, hạn chế trong cạnh tranh các ngành hàng
xuất khẩu của Việt Nam trên từng thị trường xuất khẩu chính. Tìm ra những ảnh
hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến xuất khẩu Việt Nam khi Trung Quốc gia nhập
WTO. Từ đó tìm ra những đề xuất thích hợp cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong những năm tới. Chính vì lý do trên đây mà em đã chọn đề tài “Tác động
của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đối với xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu:
- Tìm ra vị thế của Trung Quốc, sau khi gia nhập tổ chức WTO, trong thương mại
toàn cầu.
- Tìm ra những những tác động tích cực và tiêu cực của Trung Quốc gia nhập WTO
đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
- Đề xuất một số các giải pháp cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nhằm khắc
phục các hạn chế và khai thác các tác động tích cực trong quá trình cạnh tranh của Việt
Nam với Trung Quốc.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Các tác động của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức WTO tới hoạt động xuất khẩu
và nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu như nông sản, dệt may,
da giầy sang các thị trường lớn như Hoa kỳ, Nhật Bản, EU, ASEAN và thị trường
Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2006




Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập số liệu theo các mốc thời gian trước và sau khi Trung Quốc gia nhập
WTO về xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc và của Việt Nam, Trung
Quốc với các đối tác thương mại khác.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh các số liệu và nghiên cứu lấy từ sách
báo, tạp chí có liên quan đến chủ đề nghiên cứu này.
Nội dung nghiên cứu:
Đề tài được kết cấu thành 3 chương (ngoài phần mở đầu và kết luận), nội dung
nghiên cứu cụ thể của từng chương như sau:
Chương I: Vai trò của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu khi là thành viên của
WTO.
Chương II: Những tác động chủ yếu của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong bối
cảnh Trung Quốc là thành viên chính thức của WTO.
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA TRUNG QUỐC TRONG THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU
KHI LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO.

1. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO ĐẾN NỀN
KINH TẾ TRUNG QUỐC.
1.1. Sơ lược các thoả thuận của Trung Quốc khi gia nhập WTO.
Có 5 quy tắc cam kết chính của chính phủ Trung Quốc khi tiến hành gia nhập
WTO, đó là; (1) không phân biệt đối xử; (2) mở cửa thị trường; (3) minh bạch và có
khả năng tiên đoán; (4) không bóp méo thương mại; (5) đối xử ưu đãi với các nước
đang phát triển. Sau đây là một số khái niệm về 5 vấn đề chính trên:
(1) Không phân biệt đối xử.
Trung Quốc cam kết tuân thủ theo nguyên tắc này, tức là áp dụng MFN (quy chế

tối huệ quốc) và NT (đối xử quốc gia) cho tất cả các nước là thành viên của WTO. Đối
với Trung Quốc điều đó có nghĩa là xoá bỏ hệ thống giá cả, các hạn chế thương mại
hay các thủ tục hành chính thống nhất hơn.



(2) Mở của thị trường.
Để thực hiện cam kết này được Trung Quốc thể hiện qua việc cắt giảm thuế quan
và phi thuế quan cũng như mở cửa dịch vụ. Thời hạn cuối để Trung Quốc thực hiện
cam kết này là sau 4 năm từ khi gia nhập WTO. Trên thực tế đã minh chứng rõ điều
này qua 1 số các số liệu sau:
Hàng rào thuế quan: Trung Quốc tiến hành giảm dần thuế nhập khẩu từ lúc gia
nhập cho đến năm 2005, đưa thuế bình quân gia quyền từ 13,3% năm 2001 xuống còn
6,8%/. Đặc biệt chấp nhận thuế suất 0% đối với các loại hàng viễn thông tin học. Thuế
dành cho hàng nông sản cũng giảm, đặc biệt thuế suất 1% cho hàng nông sản chính
với lượng nông sản chưa vượt quá hạn nghạch thuế quan
Hạn nghạch và hạn nghạch thuế quan: Đối với hàng công nghiệp, Trung Quốc cam
kết đến năm 2005 sẽ dần bãi bỏ hạn nghạch với hầu hết các mặt hàng. Trong lĩnh vực
nông nghiệp, sẽ áp dụng mức thuế rất thấp (1%) cho lượng nhập khẩu chưa vượt quá
hạn nghạch thuế quan. Đồng thời Trung Quốc cũng cam kết loại bỏ các hạn ngạch phi
thuế quan trái với WTO đối với hầu hết các loại mặt hàng từ ngày 1/1/2005
(3) Minh bạch và có khả năng tiên đoán.
Trung Quốc tuân thủ nguyên tắc này không chỉ được thể hiện việc thực hiện các
luật chung của WTO về minh bạch như công bố các luật và chính sách cụ thể. Mà còn
cam kết áp dụng một thể chế thương mại nhất quán, bộ máy tư pháp độc lập và xây
dựng một cơ chế để các bên có thể phản ánh các vấn đề về bảo hộ tại địa phương lên
chính quyền trung ương. Ngoài ra, Trung Quốc cũng rằng buộc toàn bộ biểu thuế quan
với hầu hết mức thuế ràng buộc thấp hơn tại thời điểm cam kết; nâng cao tính dễ tiên
đoán bằng cam kết không tăng thuế suất
Cam kết này còn được Trung Quốc thể hiện thông qua cam kết xoá bỏ dần những

hạn chế về thương quyền đối với tất cả các sản phẩm, loại trừ các hàng hoá nằm trong
danh mục thương mại nhà nước. Trên thực tế Trung Quốc đã thực hiện đúng theo các
cam kết của mình. Thàng 11/2003, Bộ thương mại Trung Quốc đã ban hành Quy định
tạm thời về minh bạch hoá trong quản lý thương mại, hay cuối năm 2003 Bộ thương
mại Trung Quốc đã lấy ý kiến đóng góp đối với Quy định quản lý đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực thương mại



(4) Không bóp méo thương mại.
Quy định chung của WTO về bóp méo thương mại bao gồm các quy tắc chung
trong các lĩnh vực như các biện pháp trợ cấp và đối kháng, chống bán phá giá và tự vệ.
Trung Quốc đã đưa ra những cam kết mạnh hơn mức yêu cầu đối với thành viên của
WTO. Ví dụ, Trung Quốc cam kết giới hạn trợ cấp nông nghiệp dưới mức 8,5% sản
lượng nông nghiệp, so với mức 3,5% hiện hành và 10% áp dụng cho các nước đang
phát triển khác.
Quyền tự vệ: Trung Quốc cho phép các nước là thành viên của WTO sử dụng
điều khoản tự vệ một cách tương đối rộng rãi, trong một thời gian dài để hạn chế hàng
nhập từ Trung Quốc, nếu như hàng này gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong
nước
Chống bán phá giá và thuế đối kháng: các nước khác được tiếp tục đánh giá việc
bán phá giá theo tiêu chuẩn “Trung Quốc là một nền kinh tế phi thị trường” trong vòng
15 năm sau khi gia nhập
(5) Đối xử ưu đãi cho các nước đang phát triển.
WTO đưa ra những quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) cho các nước
đang và kém phát triển thành viên. Tạo thuận lợi cho phép các nước thành viên đang
phát triển thoát khỏi điều khoản MFN và dành cho các nước đang phát triển đối xử
S&D
Với việc thừa nhận Trung Quốc là một nước đang phát triển đã giúp Trung Quốc
giành được những ưu đãi và nhân nhượng nhất định như: Trung Quốc được hưởng

những ân hạn thực hiện những cam kết trong WTO như dỡ bỏ dần hạn nghạch và giấy
phép, tự do hoá dần việc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị
truờng; Hay được hưởng thuế suất GSP của một số nước
Trên thực tế, xét theo tiềm năng cạnh tranh của ngành công nghiệp nhẹ Trung Quốc
thì Trung Quốc không cần thiết có sự đối xử ưu đãi về mặt thuế quan mà cần được
giảm bớt hàng rào phi thuế quan của các nước phát triển, đặc biệt trong nghành công
nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như dệt may và dày dép
1.2. Các lợi ích của Trung Quốc khi gia nhập WTO.
Trong nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, việc gia nhâp WTO có tác động hết sức
khách quan tới nền kinh tế nước này, đặc biệt là triển vọng trong dài hạn. Tăng trưởng



kinh tế Trung Quốc trong những năm gần đây thường ở mức 7-8%. Sau khi trở thành
thành viên của WTO, buộc Trung Quốc phải chuyển sang thời kỳ cải cách và mở của
mới, từ tự do hoá có chọn lọc sang tự do hoá toàn diện, từ tự do hoá đơn phương sang
tự do hoá dựa trên luật lệ của WTO. Điều này sẽ tạo ra những tác động năng động đến
các hoạt động kinh tế trong nước, thúc đẩy tăng trưởng năng suất. Những tác động này
thông qua hàng loạt các kênh như liên doanh với nước ngoài, chuyển giao công nghệ,
tiếp cận các viên nghiên cứu và cơ sở đào tạo nước ngoài, cải cách hành chính. Nhìn
chung, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong những năm qua suất phát từ 3 nhân tố
chính: Từ các nguyên tắc WTO; Từ nguồn vốn đầu tư FDI; Từ việc thực hiện các cải
cách thể chế và mở của thị trường.
1.2.1. Những lợi ích suất phát từ nguyên tắc của WTO.
Trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc tham gia thương mại quốc tế trên cơ
sở không phân biệt đối xử, được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc
gia (NT). Giúp hàng hoá Trung Quốc tham gia vào thị trường thế giới (thị trường 148
nước thành viên của WTO) trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, được hưởng đối xử như
các nước thành viên khác và xoá bỏ những lý do để các cường quốc thương mại áp
dụng các biện pháp phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, Trung Quốc có thể nâng cao được

vị quốc tế và tạo thế đứng vững chắc hơn trong quan hệ quốc tế, giúp Trung Quốc có
thể được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong các tranh chấp thương mại, đặc
biệt là trước các áp lực của các cường quốc thương mại thông qua cơ chế giải quyểt
tranh chấp thương mại (DSM) của WTO
Ngoài ra Trung Quốc sẽ được đối xử đặc biệt và khác biệt giành cho các nước đang
phát triển trong WTO. Đối với Trung Quốc hiện nay, bảo hộ các ngành còn non trẻ là
một vấn đề sống còn, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp. Trung Quốc hiện nay vẫn là
một nước nông nghiệp với hơn 800 triệu người (khoảng 60% dân số). Với một phần tư
hộ nông dân sống dưới mức thu nhập 1 đô-la một ngày trong năm 1999 do đó mọi tác
động xấu đến nông nghiệp đều đáng được quan tâm. Và Trung Quốc đã được hưởng
quy chế giành cho các nước đang phát triển để duy trì chính sách bảo hộ cho ngành
nông nghiệp ở mức 8,5% thay vì mức 5% áp dụng cho các thành viên phát triển.
Khả năng linh hoạt hơn trong thực hiện các cam kết của WTO như được bảo hộ
một phần quyền kinh doanh và áp dụng một số hình thức trợ giúp giúp cải thiện năng



suất một số ngành sẽ đem lai thời gian trong quá trình chuyển đổi dần. Những ưu đãi
của các nước thành viên dành cho Trung Quốc, đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật sẽ giúp
Trung Quốc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị trường thế
giới.
1.2.2. Lợi ích từ việc cải cách thể chế và mở cửa thị trường.
Lợi ích lớn nhất mà Trung Quốc thu được là mức tăng trưởng ổn định xuất phát từ
các cam kết cải cách chính sách thương mại và đầu tư. Năng suất và hiệu quả kinh tế
sẽ tăng lên gấp nhiều lần con số dự báo 10 tỷ đô-la khi Trung Quốc mở cửa và điều
chỉnh thể chế cho tương thích với nền kinh tế mở, theo hướng kinh tế thị trường,
khuyến khích các công ty nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên tiến, kèm theo đó là
việc sử dụng chuyên gia giỏi sang hướng dẫn. Cải cách toàn diện về mặt thể chế, luật
pháp, hệ thống ngân hàng tài chính và đặc biệt là cải cách các doanh nghiệp nhà
nướcgiúp Trung Quốc quản lý nền kinh tế của mình trên cơ sở minh bạch, có khả năng

tiên đoán và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Việc này giúp cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế
Có nhiều quan điểm bày tỏ sự lo ngại rằng khi mở cửa thị trường, Trung Quốc với
thị trường lớn sẽ trở thành nước nhập siêu, đặc biệt là hàng nông sản. Nhưng trên thực
tế, ba năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO nền sản xuất nội địa Trung Quốc đã có
khả năng điều chỉnh nhanh chóng, và có thể đứng vững trong cạnh tranh, đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng trong khi xuất khẩu tăng vọt. Được kết quả này, một phần từ
khả năng tiếp cận thị trường trên cGơ sở bình đẳng với 148 nước thành viên(tính đến
ngày 13/10/2004), nhưng chủ yếu nhờ vào chế độ thương mại tự do của chính Trung
Quốc, giúp tăng vốn đầu tư về sản xuất và phát huy nhiều lợi thế so sánh của nước
này.
Trung Quốc có một số lợi thế so sánh hơn hẳn hầu hết các nền kinh tế khác, có thể
kể ra như sau: Thứ nhất, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhờ vào diên tích địa lý
rộng lớn trải dài trên nhiều hình thái địa lý; Thứ hai, với diện tích rộng lớn, chi phí đất
đai sản xuất thấp hơn hẳn so với các nước khác; Thứ ba, Trung Quốc có lợi thế tuyệt
đối về nguồn nhân lực. Chi phí cho nguồn nhân lực thấp vì có một lượng lao động dư
thừa đáng kể từ khu vực nông nghiệp chuyển sang công nghiệp. Ngoài ra trình độ
người lao động Trung Quốc trong những năm qua đã được nâng lên không ngừng; Thứ



tư, quy mô thị trường rộng lớn và sức mua trong nước cao. Cùng với sự tăng trưởng
nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc trong những năm qua, dự báo trong thời gian
sắp tới, thị trường Trung Quốc sẽ trở thành một thị trường đầy tiềm năng hơn nữa; Thứ
năm,Trung Quốc là quốc gia đứng hàng đầu thế giới về thu hút vốn đầu tư FDI (mặc
dù hiện nay dòng vốn FDI đổ vào Trung Quốc có dấu hiệu chững lại và nếu tăng chỉ
với tỷ lệ không vượt qua 10% trong năm 2005 - theo nhận định của Lu Jinyong, một
nhà nghiên cứu đầu tư nước ngoài của trường Đại học Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
tại Trung Quốc). Yếu tố này sẽ giúp Trung Quốc chuyển dần lợi thế so sánh, từ sản
xuất các sản phẩm mang hàm lượng nhiều lao động sang các sản phẩm có hàm lượng

vốn cao.
Trung Quốc bước đầu thành công trong các trương trình dài hạn, nhằm chuyển
hướng nền kinh tế nông nghiệp và cơ cấu mậu dịch nông phẩm, chuyển sang sản xuất
những nông phẩm có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu và khai thác lợi thế của
Trung Quốc. Trong năm 2003, giá trị xuất khẩu rau đã tăng 43% và xuất khẩu quả đã
tăng 80%. Hiện nay Trung Quốc đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau khô, rau đông
lạnh, nấm chế biến, tỏi và quả đóng hộp. Trung Quốc khuyến khích người nông dân
chuyên môn hoá sản xuất dựa vào lợi thế so sánh, chuyển từ trồng các loại cây lương
thực chi phí cao sang các loại cây có giá thị gia tăng cao như rau, quả, nấm, măng
tây….
1.2.3. Lợi ích từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sau một số năm dòng vốn FDI đổ vào Trung Quốc có xu hướng giảm sút. Đến cuối
năm 2001, khi Trung Quốc gia nhập WTO, dòng vốn FDI đã tăng trưởng trở lại với
tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003, đã đánh dấu một bước ngoặt mới khi
lần Trung Quốc vượt qua Mỹ trở thành nước có thu hút FDI lớn nhất thế giới, với tổng
giá trị lên tới 53,5 tỉ USD. Đặc biệt là Trung Quốc đã thu hút được nhiều công ty
xuyên quốc gia (TNC) và các công ty TNC ngày càng đầu tư vào Trung Quốc với quy
mô lớn hơn. Đầu tư vào Trung Quốc cũng làm chuyển hướng FDI của các nước Mỹ,
Nhật Bản, EU vào các nước Đông Á khác và đặc biệt cũng khuyến khích các nguồn
FDI của chính các nước Đông Á như Hồng Công, Singapo đầu tư vào Trung Quốc.
Đạt được kết quả trên là nhờ cơ sở hạ tầng của Trung Quốc được nâng cấp và hiện đại
hoá và cơ chế chính sách trở nên minh bạch, dễ tiên đoán và khuyến khích các nhà đầu



tư nước ngoài. Các nhà chế tạo nước ngoài không phải chịu yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu,
cân đối ngoại hối và tỷ lệ nội địa hoá.
Ngoài việc tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, FDI mang lại nhiều lợi ích cho Trung
Quốc. FDI tạo ra môi trường cạnh tranh, giúp chuyển giao công nghệ, cách thức quản
lý kinh doanh và do đó giúp tăng yếu tố sản xuất. Điều này được thể hiện qua áp lực

giảm giá thế giới của hàng xuất khẩu Trung Quốc và sự thay đổi bản chất của luồng
FDI vào Trung Quốc. FDI thay đổi chủ yếu từ ngành chế suất sang đầu tư nhiều hơn
vào sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước, từ chỗ công nghiêp nhẹ sang công nghiệp
nặng và có công nghệ cao. Chính nhờ FDI mà ngành điện tử và chế tạo của Trung
Quốc đang phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, đưa nước này trở thành
nước hàng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm trên. FDI cũng giúp giải
quyết vấn đề xã hội nan giải hiện nay là thất nghiệp do nó tạo thêm công ăn việc làm
cho người lao động đặc biệt là lao động dư thừa do cải cách doanh nghiệp nhà nước
và cải cách trong nông nghiệp.
Sau 3 năm gia nhập WTO ( tính cuối năm 2004), xuất nhập khẩu hàng hoá của
Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tốc độ tăng
trưởng GDP đã tăng từ 7,5% năm 2001 lên 8,0% năm 2002; 9,3% năm 2003 và lên
9,5% năm 2004. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng từ 7% năm 2001 lên 22% năm
2002 và duy trì mức 30% cho tới nay. Nhập khẩu cũng tăng mạnh cho nhu cầu phát
triển, nhưng hiện nay Trung Quốc vẫn là một nước xuất siêu. Chính sách mở cửa có
trật tự quyền kinh doanh mậu dịch ngoại thương đã khiến cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trở thành chủ thể kinh doanh mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc,
ngoại thương của doanh nghiệp tập thể và tư nhân cũng nhanh chóng phát triển. Với
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2004 đạt 40,9% so với tốc độ tăng trưởng 35,4% của
cả nước và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu là 40% so với tốc độ tăng trưởng 36,1% của
nhập khẩu cả nước
Có thể khái quát tác động của việc gia nhập WTO đối với Trung Quốc như sau:
Thứ nhất, Trung Quốc trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất
và xuất khẩu hàng chế tạo như điện tử, giầy dép, dệt may… gây nên áp lực giảm giá
các mặt hàng này trên phạm vi toàn thế giới nhờ vào việc tận dụng các lợi thế so sánh
của mình như chi phí lao động và đặc biệt là FDI. Thứ hai, do mức độ bảo hộ giảm



nên Trung Quốc trở thành một trong những nước nhập khẩu lớn hàng ngũ cốc, đường

bông… nhưng cũng là nước xuất khẩu lớn các hàng nông sản có giá trị cao khác. Thứ
ba, FDI tăng lên cũng có tác động thay đổi cơ cấu xuất khẩu từ chỗ chủ yếu là sản
phẩm có hàm lượng lao động cao sang những ngành có hàm lượng vốn và công nghệ
cao cũng như xuất khẩu dịch vụ
1.3 Sơ lược những thách thức đối với Trung Quốc khi thực hiện các nguyên
tắc của WTO.
Bên cạnh những tác động tích cực, việc gia nhập WTO cũng đem đến cho Trung
Quốc những thách thức không nhỏ. Gồm những thách thức chủ yếu sau:
- Thứ nhất là áp lực phải cải cách thể chế để phù hợp với WTO. Đòi hỏi Trung Quốc
phải hoàn thiện toàn bộ thể chế luật pháp cho kinh tế thị trường phù hợp với các luật
của WTO. Những cải cách này có thể làm mất đi những đặc quyền của một số nhóm
lợi ích, đặc biệt là một bộ phận trong bộ máy công quyền và các DNNN
- Thứ hai là thách thức từ cạnh tranh mạnh mẽ hơn giữa các doanh nghiệp và hàng
sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu. Từ đây xuất hiện thêm tình trạng nan giải đó
là sự phá sản không thể tránh khỏi của một số doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN. Do đó
tỷ lệ thất nghiệp thành thị sẽ tăng cao nếu không có cách khuyến khích khu vực kinh tế
tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển để tạo thêm việc làm
cho lượng người thất nghiệp của khu vực DNNN.
- Thứ ba là nguy cơ bất bình đẳng trong xã hội. Tự do hoá thương mại sẽ tạo cơ hội
cho nhiều người giúp họ cải thiện cuộc sống nhưng sẽ có những người, đặc biệt là
vùng sâu vùng xa sẽ trở nên tụt hậu nhiều hơn. Sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn
và thành thị tiếp tụ tăng lên khi có tới ba phần tư người nghèo cả nước ở nông thôn,
nhưng vẫn chưa bằng một phần ba thu nhập bình quân ở thành thị
- Thứ tư là dưới tác động của việc tăng trưởng quá nhanh sẽ gây ra tình trạng tài
nguyên khan hiếm và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng
- Thứ năm là gia tăng tranh chấp thương mại. Sự tăng trưởng nhanh chóng của mậu
dịch đối ngoại và quy mô xuất khẩu không ngừng mở rộng của Trung Quốc đã làm
thay đổi cục diên thị trường. Một mặt, sự cạnh tranh với các quốc gia mới phát triển có
ưu thế giống Trung Quốc ngày càng quyết liệt. Mặt khác, một số nước đã quy kết
nguyên nhân gây khó khăn cho nước họ do hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc và từ




đó gia tăng các hình thức bảo hộ thông qua các biện pháp như chống bán phá giá, thuế
đối kháng, hàng rào mậu dịch mang tính kỹ thuật… khiến cho hàng hoá xuất khẩu của
Trung Quốc gặp phải những thách thức mới
Bên cạnh đó, sau khi kết thúc thời kỳ quá độ gia nhập WTO năm 2005, một số biện
pháp quản lý vốn có sẽ từng bước được nới lỏng và xoá bỏ, một bộ phận ngành sản
xuất nhạy cảm sẽ đứng trước áp lực cạnh tranh. Ngày 01-01-2005, Trung Quốc đã huỷ
bỏ quản lý cấp phép hạn ngạch ô tô, thuế quan nhập khẩu ô tô sẽ hạ đến 30%, thuế linh
kiện phụ tùng hạ xuống còn 13%. Năm 2005, Trung Quốc hạ mức thuế quan hàng
nông sản xuống còn 15,35%, là một trong những nước có mức thuế quan thấp nhất
trên thế giới, các biện pháp kinh doanh chỉ định cũng được bãi bỏ. Biện pháp quản lý
hạn ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đối với một bộ phận mặt hàng mang tính nguyên
liệu chiến lược than đá, than cốc, đất hiếm, một số loại kim màu… sẽ bị các thành viên
WTO như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản phản đối. Đối với lĩnh vực dịch vụ cũng có nhiều
khó khăn do phương tiện bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí tuệ của Trung Quốc còn hạn
chế, chưa đạt theo yêu cầu của “TRIPS” nên lĩnh vực này khó tránh khỏi trở thành
hàng rào phi thuế quan chủ yếu của nước ngoài đối với doanh nghiệp dịch vụ của
Trung Quốc.
2. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
2.1. Vị trí của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu sau khi trở
thành thành viên của WTO.
2.1.1. Vị trí của Trung Quốc trong thương mại thế giới.
Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế Trung
Quốc đã trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Trung Quốc
đang phát huy vai trò đầu tầu, đang hoà nhập vào dòng vận động của sản xuất và buôn
bán toàn cầu. Trong điều kiện kinh tế thế giới không mấy sáng sủa như hiện nay, nền
kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh với thị trường 1,3 tỷ dân đã trở thành điểm sáng

trong bức tranh toàn cầu, tạo ra một động lực quan trọng thúc đẩy và kích thích kinh tế
toàn cầu phát triển.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc, có thế nhận thấy những mặt
hàng chủ lực có thể cạnh tranh mạnh trên thị trường Thế giới của nước này là dệt may,



bưu chính viễn thông, thép vật liệu, xe hơi, điện tử, công nghiệp hoá chất, cơ khí, một
số loại nông sản phẩm, rau và hoa quả …
Theo số liệu thống kê của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tuy GDP năm 2003
của Trung Quốc chỉ là 1.460 tỷ USD chiếm 4,3% trong tổng GDP thế giới, nhưng tỷ lệ
đóng góp về tăng trưởng của Trung Quốc là hơn 17%, đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ.
Năm 2003 kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đạt hơn 850 tỷ USD, tỷ lệ đóng
góp vào tăng trưởng thương mại thế giới là hơn 7%, đứng thứ ba thế giới sau Mỹ và
Nhật Bản. Năm 2004, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục đạt mức tăng trưởng 9,5% so
với mức 9,3% năm 2003. Xuất khẩu Trung Quốc tăng 35,4% do năng lực sản xuất
trong nước liên tục được mở rộng. Trong ba năm liên tiếp, tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu của Trung Quốc là nhân tố chủ yếu duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tại một
số các nước NIES của khu vực Đông Á. Trong lĩnh vực thị trường hàng hoá, Trung
Quốc đóng vai trò chủ đạo của tăng trưởng toàn cầu do có nhu cầu cao đối với một số
mặt hàng như năng lượng, kim loại… khiến cho giá cả của các loại hàng hoá này đứng
ở mức cao.
Bên cạnh sự gia tăng xuất nhập khẩu, tốc độ gia tăng nhu cầu lớn của thị trường nội
địa Trung Quốc là một yếu tố lớn tác động lớn tới thương mại toàn cầu. Sự nổi lên của
Trung Quổc trên thị trường hàng hoá toàn cầu có ảnh hưởng lớn trên nhiều phương
diện. Một mặt, sự gia tăng nhu cầu nội địa tại Trung Quốc, đặc biệt là nguyên liệu, tạo
ra cơ hội xuất khẩu cho các nước đang phát triển. Mặt khác, trên các thị trường nhập
khẩu chủ yếu, các nước đang phát triển có thể mất thị phần do áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt từ Trung Quốc. Lợi thế về chi phí thấp và lợi thế về quy mô của Trung
Quốc ngày càng lớn và không chỉ gây áp lực cạnh tranh trong xuất khẩu mà cả trong

khả năng thu hút FDI. Hàng chế tạo của Trung Quốc, với giá thành thấp, kết hợp với
công nghệ sản xuất tiên tiến do FDI mang lại, sẽ tràn ngập thị trường thế giới trong
một tương lai không xa. Quan trọng hơn danh mục các loại hàng hoá ngày càng trở
nên đa dạng, phong phú và cao cấp hơn. Có thể nói, Trung Quốc càng phát triển càng
gây ra tình trạng thừa khả năng sản xuất trên thế giới. Tất cả các nước đều phải đối
phó với thách thức của Trung Quốc nếu bản thân các nước này không có khả năng
điều chỉnh, cải cách để tận dụng và phát huy lợi thế các nghành sản xuất có lợi thế
cạnh tranh của mình



2.1.2. Vị thế của Trung Quốc trong đàm phán và giải quyết tranh chấp trong
thương mại quốc tế.
Gia nhập WTO, Trung Quốc có thể vận dụng các quy tắc và cơ chế của WTO để xử
lý thoả đáng các tranh chấp thương mại quốc tế, bảo vệ có hiệu quả môi trường kinh
doanh của nước mình. Hiện nay Trung Quốc vẫn được coi là một nước đang phát triển
do vậy khi gia nhập WTO, Trung Quốc cũng dành được những thoả thuận và ưu đãi
như được phép trợ cấp và bảo hộ những ngành công nghiệp non trẻ. Bên cạnh đó thời
gian cắt giảm thuế quan được kéo dài hơn và được hưởng nhiều quy định linh hoạt.
Điều quan trọng khi gia nhập WTO Trung Quốc cũng sẽ có tiếng nói trong quá trình
thực thi cũng như tham gia vào quá trình bàn hành những quy định chung trong tương
lai.
Việc Trung Quốc trở thành cường quốc về sản xuất đang là thách thức to lớn đối
với hầu hết các nền kinh tế đang phát triển. Hàng hoá Trung Quốc có mặt hầu hết các
nước và khu vực có nền kinh tế phát triển nhờ vào việc phát huy các lợi thế so sánh
của mình. Năm 2004, hàng dệt may của Trung Quốc ước tính chiếm khoảng 47,1% thị
phần toàn thế giới so với năm 1995 mới chỉ chiếm 19,6%. Các mặt hàng như may
mặc, dày dép của Trung Quốc cũng chiếm thị phần lớn thị trường thế giới. Xu hướng
này tác động một cách mạnh mẽ và trực tiếp tới các nước đang phát triển khác, gây ra
các nguy cơ đóng cửa các cơ sở sản xuất và tình trạng công nhân mất việc tại các nước

này, như Thái Lan, Malaixia, Ai Cập, Mexico…
Với tiềm năng kinh tế và thương mại như trên, trong tương lai Trung Quốc sẽ là
một thành viên có tiếng nói có trọng lượng trong WTO. Từ chỗ là người chấp nhận
những quy định để tham gia vào cuộc chơi thương mại quốc tế, với tiềm lực kinh tế và
tốc độ phát triển mạnh mẽ có thể biến Trung Quốc thành người đề xướng và áp đặt
luật chơi mới. Ngay từ bây giờ, chúng ta có thể thấy vai trò chi phối chính sách và thể
chế thương mại pháp lý đối với thương mại quốc tế không còn là độc quyền của một
nhóm nhỏ các quốc gia phát triển nữa. Thực tế thời gian qua, Trung Quốc đã nổi lên
như một trung tâm kinh tế và tham gia vào các vấn đề kinh tế quốc tế với tư cách là
một cường quốc.



2.2. Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với một số trung tâm
thương mại lớn trên thế giới.
Trung Quốc là bạn hàng lớn của tất cả các trung tâm kinh tế thế giới, vì vậy ảnh
hưởng của việc mở của thị trường và hội nhập thương mại quốc tế của Trung Quốc là
không nhỏ. Những số liệu ban đầu của NBS (Tổng cục thống kê quốc gia Trung Quốc)
cho thấy, GDP của Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2005 đạt 10,63 nghìn tỷ NDT
(tương đương 1,3 nghìn tỷ USD), tăng 9,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Nều kinh tế
Trung Quốc hiện nay đứng thứ 6 trên thế giới (tính đến cuối năm 2005) vượt qua cả
Italia và tiến sát tới Pháp, Anh, Nhật Bản. Do đó có thể thấy rõ tác động của việc
Trung Quốc gia nhập WTO là rất đặc biệt đối với các nước trong khu vực.
Thương mại của Trung Quốc với những đối tác chính sau khi gia nhập WTO (tỷ
USD)
Trước tiên việc giảm thuế nhập khẩu và mở của thị trường Trung Quốc sẽ mang lại
lợi ích lớn cho các nước công nghiệp phát triển. Dự báo giá trị nhập khẩu sản phẩm
công nghiệp có hàm lượng vốn cao sẽ tăng nhanh tại thị trường rộng lớn tiềm năng
này. Do vậy các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc là những người được hưởng lợi đầu
tiên, do sản phẩm của họ có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, trong khi giá thành

thấp hơn và có lợi thế về mặt địa lý. Sản phẩm của họ có khả năng cạnh tranh cao hơn
sản phẩm trong nước. Sau đó là các nước Tây Âu và Mỹ, hàng hóa cạnh tranh của họ
là các sản phẩm của ngành công nghệ mới, các ngành viễn thông và dịch vụ, và ngành
tài chính. Dự báo những nước sẽ chịu thiệt hại nhiều nhất từ việc Trung Quốc gia nhập
WTO là hàng loạt các nước như Mêhicô, Thái Lan … Hàng hoá xuất khẩu sử dụng
nhiều lao động của Trung Quốc sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hoá cùng loại của
các nước trên với ưu thế về giá vượt trội. Sau đây sẽ xem xét một số tác động của việc
Trung Quốc gia nhập WTO đối với một số trung tâm thương mại lớn trên thế giới
2.2.1. Tác động đến thương mại Trung Quốc- Hoa Kỳ:
Quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã không ngừng phát triển từ khi
hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1979. Trung Quốc dần trở thành một trong
những bạn hàng lớn của Hoa Kỳ. Sự thay đổi cơ cầu thị trường xuất nhập khẩu của
Trung Quốc cho thấy Hoa kỳ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với ngoại thương
Trung Quốc. Theo niên giám thống kê Trung Quốc, năm 1985 Hoa Kỳ mới chiếm



8,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc, năm 1992 giảm xuống còn 8,3%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Tuy nhiên từ năm 1993 mối quan hệ
thương mại giữa hai nước không ngừng được mở rộng. Đến năm 2004, Hoa Kỳ chiếm
16,6% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc, trở thành đối tác xuất khẩu lớn thứ 3 của
Trung Quốc. Năm 2000 chỉ số này tăng lên đến 20,9% và đưa Hoa Kỳ thành đối tác
quan trọng nhất trong xuất khẩu của Trung Quốc với kim ngạch xuất khẩu cẩu Trung
Quốc sang thị trường Hoa Kỳ đạt 52,5 tỷ USD chiếm 8,2% giá trị nhập khẩu của Hoa
Kỳ, chủ yếu là các mặt hàng nông sản, quần áo, dày dép, đồ chơi … Trung Quốc
thường nhập khẩu từ Hoa Kỳ các loại hàng công nghiệp, nông sản và khoáng sản.
Sau khi trở thành thành viên của WTO, thương mại giữa hai nước tiếp tụ giữ ở mức
độ cao. Đến năm 2004 Trung Quốc đã vượt Mêhicô trở thành nước đứng thứ hai về
xuất khẩu sang Hoa Kỳ và trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Hoa Kỳ. Với
tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu Trung Quốc sang thị trường Hoa Kỳ đạt bình quân

21,3% năm trong giai đoạn 2002-2004 trong khi tăng trưởng nhập khẩu chỉ đạt 17,9%
thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc có xu hướng tăng lên, các mặt hàng
giá rẻ, chất lượng ngày càng cao của Trung Quốc ngày càng được thị trường ủng hộ.
Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh từ hàng xuất khẩu Trung Quốc đã gây ra phản ứng ngày
càng mạnh mẽ từ khu vực sản xuất công nghiệp Hoa Kỳ, đặc biệt là trong ngành công
nghiệp nhẹ như dệt may và dày dép.
Chúng ta có thể đưa ra một số kết luận về đặc điểm quan hệ thương mại giữa hai
nước như sau:
- Thứ nhất, cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sang Hoa Kỳ phản ánh lợi
thế so sánh của hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Điều này phù hợp với chiến lược
xuất khẩu của Trung Quốc và khiến cho xuất khẩu hàng hoá từ Trung Quốc sang thị
trường Hoa Kỳ tăng mạnh.
- Thứ hai, một trong những nguyên nhân chính khiến Hoa Kỳ liên tục nhập siêu là
do phía Trung Quốc vẫn còn tồn tại nhiều rào cản thương mại, hệ thống luật pháp chưa
đồng bộ, thiếu công khai và minh bạch. Trong tương lai, khi Trung Quốc thực hiện
đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Trung Quốc có thể tăng
lên.



- Thứ ba, một nguyên nhân nữa gây thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung
Quốc là lý do chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc, với việc duy trì đồng NDT
thấp hơn giá trị thực, tạo ưu thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
2.2.2. Tác động đến thương mại Trung Quốc – EU:
Việc gia nhập WTO của Trung Quốc được đánh giá là ảnh hưởng tốt tới thương
mại giữa các bên. Có thể nêu ra các tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, phạm vi và kim nghạch buôn bán song phương không ngừng tăng lên.
Năm 1975, kim nghạch buôn bán giữa các bên mới chỉ đạt 2,44 tỷ USD nhưng đến
năm 2001, con số này lên tới 80,5 tỷ USD, các đối tác thương mại lớn nhất của Trung
Quốc tại Châu Âu là các nước Anh, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan.

- Thứ hai, cơ cấu xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc và EU cũng trở nên hợp lý hơn,
Trước đây, hàng xuất khẩu từ Trung Quốc sang EU chủ yếu là hàng sơ cấp như nông
sản, hàng dệt, nguyên liệu. Từ sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, hàng hoá của
Trung Quốc vào EU có sự chuyển biến rõ rệt, tỷ lệ hàng chế tạo tăng lên đến 86% như
sản phẩm hoá chất hữu cơ, gang thép, máy tính, hàng điện tử, thiết bị vận tải.
- Thứ ba, theo hiệp định giữa hai bên về Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc
cam kết mở của cho EU 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, tiến hành
giảm thuế trên nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của EU, cho phép các sản phẩm nông
nghiệp của EU vào thị trường Trung Quốc, cho phép EU tham gia kinh doanh lĩnh vực
dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng, du lịch… Đồng thời, EU cũng xoá bỏ các chính
sách kỳ thị, mở cửa thị trường cho Trung Quốc và kèm theo đó là những tín hiệu khả
quan khi nguồn vốn FDI từ EU vào Trung Quốc cũng không ngừng gia tăng.
2.2.3. Tác động đến thương mại Trung Quốc – Nhật Bản:
Ngay từ trước khi gia nhập WTO, quan hệ thương mại Nhật – Trung đã có những
bước phát triển theo chiều hướng tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế của hai
nước. Đối với Trung Quốc, Nhật Bản là nguồn cung cấp vốn và kỹ thuật quan trọng để
phát triển kinh tế, còn đối với Nhật Bản, Trung Quốc là một thị trường quan trọng nhất
trong khu vực. Kim ngạch buôn bán hai chiều không ngừng tăng lên, năm 1972 mới
chỉ đạt 1 tỷ USD nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 63,8 tỷ USD, năm 2001 con số này
đã đạt 100,2 tỷ USD. Tỷ trọng của Trung Quốc trong tổng kim ngạch xuất khẩu của



Nhật Bản đã tăng từ 6,3% năm 2000 lên 13,1% năm 2004 trong khi tỷ trọng của Trung
Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản tăng từ 14,5% lên 20,7%.
Năm 2004, Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
Nhật Bản với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 197,2 tỷ USD, chiếm 20,1% tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản so với tỷ trọng 18,6% của Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, việc Trung Quốc gia nhập WTO không chỉ tác động đến quan hệ thương mại
hai chiều giữa Nhật Bản và Trung Quốc mà còn tác động mạnh tới quan hệ thương mại

của Nhật Bản với các nước trong khu vực:
- Thứ nhất, hàng của Trung Quốc đang xâm nhập ngày càng nhanh và mạnh vào thị
trường khu vực làm cho thị phần của Nhật Bản tại các nước này giảm sút. Thực tế
nhiều sản phẩm của Nhật Bản trên thị trường thế giới đã và đang bị hàng của Trung
Quốc lấn át, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Điển hình là sự phát triển
của ngành xe máy Trung Quốc đã khiến cho các hãng xe máy của Nhật Bản phải cạnh
tranh rất vất vả. Trong khi đó nhiều sản phẩm của Nhật Bản như điều hoà của hãng
Panasonic đã phải giảm giá xuống mức thấp chưa từng có khi hàng Trung Quốc tràn
vào thị trường Mailaixia
- Thứ hai, việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO không những
tác động tiêu cực tới kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước mà còn tác
động tới kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của các nước khác vào Nhật Bản do phải cạnh
tranh với những hàng hoá cùng chủng loại nhưng có ưu thế về giá của Trung Quốc.
Thực tế cho thấy, gần đây người tiêu dùng Nhật ưu chuộng hàng hoá được nhập khẩu
từ Trung Quốc hơn so với các sản phẩm của các nước Đông Nam Á vì vậy thị phần
của các nước ASEAN giảm sút nhường chỗ cho hàng có xuất xứ từ Trung Quốc.
- Thứ ba, quan hệ thương mại giữa hai nước chắc chắn không thể tránh khỏi những
tranh chấp. Nếu hai bên đều cố gắng bảo vệ lợi ích riêng của mình sẽ lại nẩy sinh
những tranh chấp thương mại thậm chí là gay gắt do quyền lợi và vị thế thương mại
của Trung Quốc đã được mở rộng ngang hàng với Nhật Bản.
- Thứ tư, cơ cấu hàng nhập khẩu của Nhật Bản từ Trung Quốc sẽ ngày càng dịch
chuyển dần sang các sản phẩm chế tạo thay vì các hàng nguyên nhiên liệu và nông sản
sơ chế như trước đây. Còn nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật Bản cơ bản vẫn là các
sản phẩm công nghiệp chế tạo, thiết bị máy móc và bán thành phẩm chiếm ưu thế.



Trong đó, nguồn cung cấp cũng như nhu cầu các mặt hàng này có sự góp mặt ngày
càng tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.4. Tác động đến thương mại Trung Quốc – ASEAN:

Trước khi gia nhập WTO, quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã có
những bước tiến đáng kể. Thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN tăng với tốc độ
20,4% giai đoạn 1991 –2002. Xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng từ 4,1 tỷ
USD năm 1991 lên 17,3 tỷ USD năm 2000, nhập khẩu từ ASEAN tăng từ 3,8 tỷ USD
lên 22,2 tỷ USD. Do đó vị trí của ASEAN trên thị trường Trung Quốc ngày càng tăng.
Đầu những năm 90, xuất khẩu của ASEAN sang thị trường Trung Quốc chủ yếu tập
trung vào các mặt hàng như xăng dầu, gỗ, mỡ động vật, máy tính và thiết bị điện tử.
Thị phần của 5 mặt hàng này chiếm tới 75% thị phần xuất khẩu của ASEAN sang
Trung Quốc. Đến năm 1999, cơ cấu này có sự thay đổi theo hướng chuyển sang các
sản phẩm chế tạo. Các mặt hàng xuất khẩu của ASEAN đã trở nên đa dạng hoá, tỷ
trọng của 5 loại mặt hàng trên chỉ còn chiếm 60,3% trong tổng xuất khẩu của Trung
Quốc. Hàng nhập khẩu của ASEAN từ Trung Quốc khá đa dạng như máy tính, xăng
dầu, bông thuốc lá …
Thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã tăng nhanh hơn từ khi Trung Quốc
gia nhập WTO với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang
ASEAN đạt 22,7% trong giai đoạn 2002 – 2004 và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đạt
47,75%. Trong quan hệ buôn bán gỉữa các bên, từ năm 2003, ASEAN đã đạt thặng dư
thương mại. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là nhu cầu nguyên liệu
của Trung Quốc tăng, tốc độ nhập khẩu đẩy mạnh dẫn đến tình trạng nhập siêu tăng.
Tuy nhiên nhập siêu không ảnh hưởng nhiều tới vấn đề phát triển của Trung Quốc vì
các sản phẩm nhập khẩu từ ASEAN giúp thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế của
Trung Quốc. Tăng cường xuất khẩu vào Trung Quốc đã tạo ra một động lực mới cho
các nước ASEAN, giúp các nước này tăng trưởng với tốc độ cao và nhiều nước thoát
khỏi tình trạng khó khăn về ngoại tệ. ASEAN đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ
4 của Trung Quốc với kim ngạch thương mại trao đổi hai chiều năm 2004 tăng 35% so
với năm 2003, đạt 105,9 tỷ USD.
Cơ hội của ASEAN khi Trung Quốc gia nhập WTO là khả năng tăng xuất khẩu các
mặt hàng có lợi thế như gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản … Trong bối ảnh này, Thái Lan




và Việt Nam được đánh giá là có nhiều lợi thế nhất. Hiện nay khoảng 20% nông sản
xuất khẩu của Thái Lan là vào thị trường Trung Quốc, trong đó xuất khẩu gạo từ
250.000 đến 350.000 tấn/năm.
Ngược lại, các nước trong khu vực có thể bị thiệt hại nhiều do việc gia nhập WTO
của Trung Quốc. Các sản phẩm lao động sử dụng nhiều lao động tập trung của nhiều
nước ASEAN như dệt may, giầy dép … có chất lượng mẫu mã tương tự của Trung
Quốc và xuất sang thị trường phát triển như Nhật Bản, Châu Âu, Bắc Mỹ … sẽ phải
cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc. Trong cạnh tranh với các nước ASEAN,
Trung Quốc có lợi thế rất lớn, bởi Trung Quốc không những được ưu đãi về thuế quan
và phi thuế quan, mà còn vì Trung Quốc có chi phí sản xuất thấp, có ưu thế về thị
trường, thường được ưu tiên hơn, có ưu thế trong đàm phán thương mại hơn. Với Thái
Lan và Việt Nam, những sản phẩm bất lợi khi Trung Quốc gia nhập WTO có thể kể tới
các sản phẩm như dệt may, giàu dép, hàng thủ công mỹ nghệ.
Nhìn chung, tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đến quan hệ thương mại
hai bên được phân tích dựa trên những khia cạnh sau:
Về tác động thông qua cơ hội thị trường: Việc Trung Quốc gia nhập WTO làm tăng
cường cơ hội thị trường cho cả hai phía. Các nước ASEAN tiếp tục xuất khẩu nông
sản, khoáng sản sang Trung Quốc nhằm đáp ứng nhu cầu mạnh mẽ của Trung Quốc.
Việc mở rộng sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động của Trung Quốc như dệt
may, giày dép… cũng sẽ dẫn đến tăng trưởng ổn định trong nhập khẩu các nguyên liệu
thô và các sản phẩm trung gian. Ngoài ra, dựa trên phân tích lợi thế so sánh thì các
nước ASEAN có lợi thế hơn Trung Quốc trong các mặt hàng nông sản, năng lượng, đồ
điện, do đó có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào Trung Quốc
Tác động đến thị trường nội địa: Gia nhập WTO các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung
Quốc sẽ có lợi ích từ phía các nước ASEAN. Các sản phẩm mà Trung Quốc có lợi thế trên
thị trường ASEAN là: máy móc thiết bị điện, sản phẩm kim loại và hoá chất. Do đó trong
năm tới, Trung Quốc vẫn có thể duy trì vị trí thuận lợi trên thị trường ASEAN.
Tác động đến thị trường xuất khẩu thứ ba: Đây được coi là thách thức lớn nhất của
Trung Quốc đối với các nước có cơ cấu xuất khẩu giống Trung Quốc, có lợi thế về sản

xuất hàng hóa sử dụng nhiều lao động cao và giá cả thấp sẽ là một ưu điểm làm tăng
thêm sức hấp dẫn của hàng hoá Trung Quốc. ASEAN sẽ gặp khó khăn từ Trung Quốc



trong lĩnh vực chế tạo các sản phẩm đòi hỏi giá trị gia tăng cao như sản phẩm bán dẫn
và các sản phẩm công nghệ cao khác.
Gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ phải cắt giảm đáng kể hàng rào thuế quan, đồng
nghĩa với chi phí yếu tố đầu vào đối với hàng sản xuất tại Trung Quốc sẽ thấp hơn.
Khi đã là thành viên của WTO cơ hội tiếp cận thị trường thế giới trở nên dễ dàng hơn,
chỉ phí nhập khẩu nguyên liệu giảm. Khả năng cạnh tranh của Trung Quốc được nâng
lên, tạo ra các áp lực về giá sản phẩm, làm suy giảm sức cạnh tranh của một số lĩnh
vực chế tạo của các nước ASEAN
Về cơ cấu thị trường, cả Trung Quốc và ASEAN đều có quan hệ buôn bán với thị
trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Các thị trường lớn trên chủ yếu nhập khẩu các
mặt hàng dệt, quần áo, máy móc và linh kiện điện tử từ Trung Quốc và ASEAN.
Lượng xuất khẩu hàng hoá tăng mạnh từ Trung Quốc vào các thị trường lớn trên đã
đạt hàng xuất khẩu của các nước ASEAN trước nguy cơ lớn, từ các mặt hàng xuất
khẩu có hàm lượng lao động lớn đến các mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Tác động thông qua đầu tư: Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy dòng FDI vào Trung
Quốc nhiều hơn do các rào cản thương mại đã được xoá bỏ. Ngoài ra do việc tuân thủ
nguyên tắc chung của WTO là không phân biệt đối xử, các công ty nước ngoài cũng
được hưởng ưu đãi như công ty nội địa từ đó khuyến khích đầu tư nước ngoài nhiều
hơn do chi phí giao dịch thấp, doanh số tăng và lợi nhuận thu được lớn hơn. Năng suất
tăng cộng với tự do hoá thương mại của Trung Quốc, không những làm tăng nhu cầu
nhập khẩu thị trường nội địa Trung Quốc mà còn thúc đẩy đầu tư vào Trung Quốc. Tự
do hoá thương mại tại Trung Quốc sẽ giúp cho các công ty đa quốc gia phân bổ hợp lý
quá trình đầu tư tại khu vực Đông Á, cũng như quá trình phân bố lại các công đoạn
sản xuất giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực.
Thông qua FDI, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Trung Quốc dần thay đổi, lợi thế

cạnh tranh của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở nguồn lao động mà mở rộng chuyển
dần sang sản xuất các sản phẩm công nghệ cao.
Trên thực tế rất khó đánh giá chung ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập
WTO đối với nền kinh tế trong khu vực ASEAN. Ảnh hưởng này nhiều hay ít còn phụ
thuộc vào mức độ thương mại của từng nước với Trung Quốc sâu đậm đến đâu, và hai
là, lợi thế so sánh của từng khu vực công nghiệp đối với Trung Quốc là như thế nào.



Trong tình hình thương mại hiện nay, có thể thấy hai xu hướng nổi lên giữa các nước
Đông Nam Á. Một số nước như Malaixia, Thai Lan là những nước công nghiệp hoá và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sớm hơn, trong tương lai sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển
thị trường các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Một số nước khác chủ yếu là Inđônêxia
và Việt Nam, sẽ trở thành nhà cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho thị trường Trung
Quốc và nhập khẩu thành phẩm của nước này.
Tóm lại, tăng trưởng và hội nhập của Trung Quốc có thể ảnh hưởng bất lợi tới
những ngành gia công tập trung nhiều lao động nhưng cũng tạo ra nhiều cơ hội cho
những ngành thô, sơ chế của các nước Đông Nam Á. Với hai nước Việt Nam và
Inđônêxia, nếu thuận theo sự tăng trưởng từ Trung Quốc thì có thể tận dụng được
nguồn lao động rẻ trong nước, đồng thời tận dụng được nguồn tài nguyên của hai nước
này. Xét về ngắn hạn và trung hạn, điều này có thể là động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nhưng xét về tăng trưởng dài hạn thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm
khả năng duy trì tăng trưởng cảu Trung Quốc, xu hướng đầu tư của thế giới, môi
trường thể chế và chính sách trong nước của từng nước Đông Nam Á



CHƯƠNG 2
NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM.

1. Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO tới xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
1.1.1. Khi Trung Quốc chưa là thành viên WTO:
Kể từ năm 1991, khi bình hoá quan hệ, thương mại giữa hai nước Việt Nam –
Trung Quốc không ngừng tăng lên, đóng góp không nhỏ vào vào sự phát triển của mỗi
nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu chính ngạch trong giai đoạn 1991 – 2000 đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân 20%/ năm. Tốc độ tăng trưởng này khá cao so với tốc độ phát
triển thương mại giữa Việt Nam và một số nước khác và phần nào đã chứng minh tiềm
năng thương mại của cả hai phía. Các hiệp định quan trọng trên các lĩnh vực như: Hiệp
định thương mại năm 1991; Hiệp định thương mại Việt Nam – Trung Quốc năm 1992;
Hiệp định về thanh toán và hợp tác ngân hàng giữa hai nước 1993 ; Hiệp định về mua
bán ở vùng biên giới hai nước năm 1998… đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
hợp tác, buôn bán giữa hai nước phát triển theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Trung quốc 1995-2000

XK của Việt
Nam
sang Trung
Quốc
(triệu USD)
Tốc độ
tăng
trưởng(%)
Tổng KNXK
hàng hoá của
Việt Nam
(triệu USD)
Tốc độ
tăng

trưởng
(%)
Tỷ trọng KN
sang Trung
Quốc tổng
KNXK (%)
1995 361,9 22,3 5.449 34,4 6,46
1996 340,2 -6,0 7.222 33,4 4,68
1997 471,1 39,3 9.185 22,6 5,16
1998 478,9 1,0 9.361 1,9 5,12
1999 858,9 79,3 11.540 23,3 7,44
2000 1.734,0 78,6 14.455 25,3 10,6
Nguồn: Niên giám Thống kê, Tổng cục Thống kê




Tuy Việt Nam chưa tận dụng hết lợi thế về địa lý và nhu cầu nhập khẩu gia tăng
của Trung Quốc trong khi Trung Quốc thâm nhập rất tốt vào thị trường Việt Nam, kim
nghạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong giai đoạn này cũng
đã đạt mức tăng trưởng tương đối cao. Năm 1991, xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc mới chỉ đạt 10 triệu USD, đến năm 1995 đã đạt 361,9 triệu USD,
tăng hơn 36 lần so với năm 1991, năm 2000 con số này đã đạt 1,5 tỷ USD. Với tốc độ
tăng trưởng bình quân 38,4%/năm trong giai đoạn 1995 – 2000 so với tốc độ tăng
trưởng bình quân 22,4%/năm của tổng kim ngạch xuất khẩu trong cùng giai đoạn. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai
đoạn này không ổn định, chưa phản ánh hết được tiềm năng của hai nước
Trong giai đoạn này các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc chủ yếu là nông sản, thuỷ sản và một số loại khoáng sản có thế mạnh, các
mặt hàng chế biến… Tuy các mặt hàng đa dạng nhưng kim ngạch không ổn định do

doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin về thị trường rộng lớn này.
1.1.2. Khi Trung Quốc đã là thành viên của WTO:
Sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO có tác động không nhỏ tới xuất khẩu Việt Nam
sang thị trường này. Tổng xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong giai
đoạn 2001 – 2004 đạt 7.395 triệu USD, chiếm 9,0% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam. Trung Quốc đang là thị trường tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam. Năm 2004,
Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ và Nhật Bản để trở thành đối tác thương mại lớn nhất
Việt Nam với kim ngạch một chiều đạt 7,191 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu
2,73 tỷ USD
Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung quốc 2001 -2004
Năm

KNXK sang
T. Quốc
(Triệu USD)
Tốc độ
tăng
trưởng
(%)
Tổng
KNXK của
Việt Nam
(triệu
USD)
Tốc độ
tăng
trưởng
(%)
Tỷ trọng XL
sang TQ trong

tổng KNXK
cảu Việt Nam
(%)
2001 1.418 52,6 15.027 3,95 9,4
2002 1.495 5,4 16.076 6,98 8,9



2003 1.747 16,9 20.176 25,5 8,7
2004 2.735 56,5 26.503 31,36 10,3
Bq 01-04 32,85 16,94 9,0
Nguồn: Bộ Thương mại
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc có thể chia thành các
nhóm: Nhóm nhiên liệu gồm dầu thô, than đá, quặng sắt, cao su thiên nhiên, các loại
gỗ; Lương thực, thực phẩm như gạo, nông sản, hoa quả, thuỷ hải sản tươi sống đông
lạnh, động vật nuôi như rắn, ba ba… Hàng tiêu dùng như dệt may, dày dép, xà
phòng… Tuy nhiên phần lớn hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam nói chung,
cũng là những mặt hàng Trung Quốc có thế mạnh. Do chi phí sản xuất, đặc biệt là chi
phí lao động của Trung Quốc thấp nên hàng hoá của họ có khả năng cạnh tranh cao so
với hàng hoá của Việt Nam
Các mặt hàng như dầu thô, cao su tự nhiên … là các mặt hàng phục vụ cho ngành
chế biến, chế tạo của Trung Quốc, là các mặt hàng xuất khẩu lớn và ổn định. Còn các
mặt hàng khác, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Trung
Quốc có xu hướng giảm mạnh như: hải sản, rau quả, hàng dệt may… Nguyên nhân là
do nhóm hàng trên có sức cạnh tranh chưa cao, cơ cấu, chủng loại sản phẩm chưa đáp
ứng được nhu cầu thị trường., trong khi đó Trung Quốc đã bãi bỏ chính sách ưu đãi
nhập khẩu các mặt hàng trên qua đường biên giới và áp dụng các biện pháp kiểm dịch
chất lượng theo các chuẩn mực cam kết với WTO
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc 2001 – 2004
Đơn vị: Triệu USD

STT Sản phẩm 2001 2002 2003 2004
knxk,Trong đó 1.123 1.238 1.329 2.735
1 Dầu thô 591 686 847 1.471
2 Cao su 51 88 147 357
3 Than đá 18 44 48 134
4 Hạt điều 30 38 52 70
5 Hải sản 240 195 77 48
8 Hàng rau quả 142 121 67,1 24,9

×