Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận truyện ngắn alice munro qua một vài khái niệm tự sự của gerald genette

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 162 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thanh Hà

TIẾP CẬN TRUYỆN NGẮN ALICE MUNRO
QUA MỘT VÀI KHÁI NIỆM TỰ SỰ
CỦA GERALD GENETTE

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018

download by :


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thanh Hà

TIẾP CẬN TRUYỆN NGẮN ALICE MUNRO
QUA MỘT VÀI KHÁI NIỆM TỰ SỰ
CỦA GERALD GENETTE
Chuyên ngành

: Lý luận văn học

Mã số


: 8220120

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM NGỌC LAN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

download by :


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
trong luận văn đều có cơ sở khoa học, đảm bảo tính trung thực và độ chính xác
cao nhất có thể. Các trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu khoa học
của mình.

TPHCM, tháng 9 năm 2018

Nguyễn Thanh Hà

download by :


LỜI CẢM ƠN

Hai năm là khoảng thời gian không dài để tơi có thể đi thêm trên con

đường học vấn. Tơi có cho mình thêm nhiều bài học bổ ích, giữ lại kỉ niệm đẹp
bên thầy cô và bạn bè. Thành quả được xem là lớn nhất là đã hoàn thành luận
văn này.
Tận đáy lịng, tơi chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Tiến sĩ
Phạm Ngọc Lan. Người cô nhân từ, gần gũi, tận tâm đã luôn theo sát tôi, không
chỉ dạy bảo trong học thuật, hướng dẫn tơi hồn thành luận văn xuất sắc, cịn
dạy tơi biết thức tỉnh chính mình, cần say mê và học hỏi với mọi điều mình tìm
hiểu.
Tơi xin gửi lời tri ân đến quý Thầy Cô khoa Ngữ văn, quý Thầy Cơ
Phịng Sau đại học Trường ĐHSP TPHCM, bằng tri thức và tâm huyết đã ln
nhiệt tình với chúng em trong từng bài giảng, công việc ở Trường.
Tôi xin cảm ơn BGH, Hội đồng quản trị, cùng các anh chị đồng nghiệp
Trường THCS – THPT Nguyễn Khuyến đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tơi trong
q trình học tập.
Tơi biết ơn gia đình, lời động viên từ Ba Mẹ, sự khích lệ của các em, và
giúp đỡ từ bạn bè để tơi phải ln cố gắng hồn thiện mình.
Tơi xin cảm ơn chân thành.

TPHCM, tháng 9 năm 2018

Nguyễn Thanh Hà

download by :


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ LÍ THUYẾT TỰ SỰ HỌC CỦA GERALD
GENETTE ................................................................................................6
1.1. Thời gian tự sự (Narative time) ......................................................................... 7
1.1.1. Trật tự (Order) ....................................................................................... 10
1.1.2. Trường độ (Duration) ............................................................................ 15
1.1.3. Tần suất (Frequency) ............................................................................. 20
1.2. Thức (Mood) ................................................................................................... 22
1.2.1. Khoảng cách (Distance) ........................................................................ 22
1.2.2. Định tiêu điểm (Focalization)................................................................ 24
1.3. Thái (Voice) .................................................................................................... 28
1.3.1. Thời gian của hoạt động trần thuật ........................................................ 28
1.3.2. Cấp độ trần thuật ................................................................................... 29
1.3.3. Tác nhân tự sự - người trần thuật và hành động trần thuật ................... 30
Tiểu kết chương 1................................................................................................... 34
Chương 2. ALICE MUNRO – ĐA DẠNG HÓA KẾT CẤU THỜI GIAN
TRUYỆN KỂ ..........................................................................................35
2.1. Phù thủy của thiết kế truyện ............................................................................ 35
2.1.1. Lập phòng ốc đón khách tham quan ...................................................... 35
2.1.2. Định vị cột mốc ..................................................................................... 48
2.1.3. Thiết lập kiểu đọc mới ........................................................................... 53
2.2. Cỗ máy thời gian trong tay nhà thiết kế .......................................................... 58
2.2.1. Thiên biến thời gian trong mạch kể ....................................................... 58
2.2.2. Ngưng đọng thời gian bằng tạo lập không gian .................................... 63
2.3. Chất liệu thời gian trong trang trí nội thất....................................................... 87

download by :


2.3.1. Đồ họa bằng góc máy camera ............................................................... 87
2.3.2. Điệp nội thất gợi dẫn liên kết phịng ..................................................... 91

2.3.3. Tín hiệu gợi báo kết đồng hiện .............................................................. 98
Tiểu kết chương 2................................................................................................. 105
Chương 3. ALICE MUNRO – PHỨC TẠP HÓA KẾT CẤU TÌNH
HUỐNG TRUYỆN ..............................................................................106
3.1. Truyện kể từ điểm nhìn bên trong ................................................................. 106
3.1.1. Người ưa thích góc quay cố định ........................................................ 106
3.1.2. Đặt góc máy nơi trái tim ...................................................................... 110
3.1.3. Sự độc đáo của chủ thể mang điểm nhìn ............................................. 116
3.2. Chọn lựa chủ động vị trí của người trần thuật .............................................. 124
3.2.1. Đồng vị người trần thuật và nhân vật .................................................. 124
3.2.2. Ngơn ngữ giao tiếp thư tín................................................................... 130
3.3. Quyền lực của ngôn ngữ trong truyện kể ...................................................... 136
3.3.1. Chứng nhân hóa lời trần thuật ............................................................. 136
3.3.2. Xóa nhịa ranh giới diễn ngôn người kể và nhân vật .......................... 146
Tiểu kết chương 3................................................................................................. 152
KẾT LUẬN ..............................................................................................................153
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................154

download by :


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tự sự học là một lý thuyết còn khá thời sự ở Việt Nam, nó bắt đầu xuất
hiện rõ nét từ những năm 2000 với cuộc hội thảo chuyên ngành mà trường Đại học
sư phạm Hà Nội khởi xướng, cho phép ta khám phá rõ nhất cấu trúc của văn bản
bằng cách kết nối nhận thức các sự kiện truyện kể mạnh lạc, thông suốt hơn.
1.2. Trong lịch sử phát triển của tự sự học, giai đoạn từ 1960 trở về trước

được các nhà nghiên cứu định danh là giai đoạn tiền cấu trúc với Aristotle, Percy
Lubbock, E.M. Forster, Vladimir Propp và các nhà hình thức Nga. Từ 1960 đến 1980
là giai đoạn cấu trúc với Claude Levi-Strauss, Wayne C.Booth, Tzvetan Todorov,
Claude Bremond, A.J. Greimas, Roland Barthes, Gerard Genette và Umberto Eco…
Giai đoạn này các nhà nghiên cứu đã đề cập những phương diện cụ thể của tự sự học.
Từ 1980 trở về sau là giai đoạn hậu cấu trúc, với sự góp mặt của Seymour Chatman,
Mieke Bal, McHale, Janathan Culter, Peter Brooks, Monika Fludermik, Gerald
Prince, và Susan Lanser…
Luận văn này giới thiệu và sử dụng hệ thống khái niệm tự sự học của Gerald
Genette, nhà lý luận và phê bình nổi tiếng người Pháp, nhà lập thuyết quan trọng
trong lĩnh vực tự sự học. Ơng đã có những tác phẩm lý luận như Những hình thái I
(1966), Những hình thái II (1969), Những hình thái III (1972), Những hình thái IV
(1999) và Những hình thái V (2002); Dẫn luận về kiến trúc văn bản (1982), Diễn
ngôn mới của truyện (1987).
Tại Việt Nam, lý thuyết về tự sự học Gerald Genette đã được dịch và giới
thiệu nhiều như Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 1&2 (Trần Đình Sử
chủ biên), Lí luận văn học hiện đại Phương Tây (Phương Lựu), Lí luận phê bình văn
học thế giới thế kỉ xx (Lộc Phương Thủy chủ biên), Tự sự học lí thuyết và ứng dụng
(Trần Đình Sử chủ biên), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên
cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ xx (I.P.Ilin và E.A.Tzurganova) (Lại Nguyên
Ân, Đào Tuấn Ảnh dịch, 2003); Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Iu.Lotman) (Trần
Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch 2014), Thi pháp văn xuôi

download by :


2

(Tzetan Todorov) (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, 2011), Điểm nhìn và ngơn
ngữ trong truyện kể (Nguyễn Thị Thu Thủy), … Các cơng trình này đã giới thiệu sơ

lược về các khái niệm chính yếu của Gerald Genette trong tương quan với các khái
niệm khác của tự sự học. Nhưng vì lý do chưa có một cơng trình nào giới thiệu riêng
hệ thống lý thuyết của Genette một cách đầy đủ, nên chúng tôi chọn cuốn Diễn ngôn
tự sự (Narrative Discourse: An Essay in method), tác phẩm quan trọng nhất giới
thiệu lý thuyết của ông, do Jonathan Culler dịch từ tiếng Pháp, để lược dịch và giới
thiệu tổng quan làm nền tảng cho nghiên cứu của mình.
1.3. Nữ văn sĩ người Canada Alice Munro, có tên khai sinh là Alice Ann
Laidlaw, là chủ nhân của giải Nobel văn học năm 2013 khi bà 82 tuổi. Đây là giải
Nobel thứ 13 được trao cho phụ nữ và cũng là giải Nobel văn học duy nhất dành cho
thể loại truyện ngắn trong 113 giải được trao tính đến năm 2017. Viện Hàn lâm Thụy
Điển đánh giá bà là “Bậc thầy của truyện ngắn đương đại”. Bà sinh năm 1931, sống
ở Wingham, Tây Nam Ontario. Bắt đầu cầm bút khi còn ở độ tuổi vị thành niên
nhưng đến năm 1968 Alice Munro mới xuất bản tuyển tập truyện ngắn đầu tay Điệu
vũ của những cái bóng hạnh phúc (Dance of the Happy Shades). Nổi tiếng với
những sáng tác truyện ngắn có chiều sâu, sự tinh tế, khả năng cảm hóa; nữ văn sĩ đã
xuất bản 14 tập truyện ngắn: Dance of the Happy Shades (1968) (đoạt Giải Toàn
quyền Canada 1968), Lives of Girls and Women (1971), Something I've Been
Meaning to Tell You (1974), Who Do You Think You Are? (1978) (đoạt giải Toàn
quyền Canada (1978); cũng xuất bản dưới tên The Beggar Maid) The Moons of
Jupiter (1982) (được đề cử cho Giải Toàn quyền Canada 1982), The Progress of
Love (1986) (đoạt giải Toàn quyền Canada 1986), Friend of My Youth (1990) (đoạt
giải thưởng Sách Trillium), Open Secrets (1994) (đề cử cho giải Toàn quyền Canada
1994), The Love of a Good Woman (1998) (đoạt giải Giller 1998), Hateship,
Friendship, Courtship, Loveship, Marriage (2001) (mới tái bản dưới tên "Away
From Her"), Runaway (2004) (đoạt giải Giller Prize 2004), The View from Castle
Rock (2006), Too Much Happiness (2009), Dear Life (2012). Bà đã sở hữu 22 giải
thưởng văn chương bao gồm: Giải Nobel Văn học năm 2013, Giải Man Booker quốc

download by :



3

tế năm 2009 cho toàn bộ tác phẩm trọn đời, 2 giải Scotiabank Giller Prizes, 2 giải
Trillium Book Awards, giải National Book Cricle Award, 3 giải O.Henry Awards và
đã 3 lần đoạt Giải của Toàn quyền Canada cho văn học hư cấu.
Đến nay bộ ba tập truyện ngắn của Alice Munro bao gồm Ghét, thân, thương,
yêu và cưới (Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage); Trốn chạy
(Runaway); cùng Cuộc đời dấu yêu (Dear Life) đã được dịch và giới thiệu tại Việt
Nam. Có thể nói rằng, sáng tác ở một thể loại văn học xưa nay vốn không được giới
hàn lâm phương Tây đánh giá cao bằng tiểu thuyết và thơ, nhưng Alice Munro đã
làm mới thể loại này bằng những dạng kết cấu thời gian và kết cấu tình huống truyện
tinh tế. Với sự đồng cảm, cái nhìn đầy chân thật của tác giả, sự tinh tế đủ rộng để đi
sâu vào tâm hồn mỗi con người, 31 truyện ngắn in trong 3 tập truyện kể trên của
Munro là đối tượng nghiên cứu giàu tiềm năng gợi mở để làm rõ những kỹ thuật tự
sự độc đáo của tác giả này và những đóng góp của bà đối với lịch sử phát triển của
truyện ngắn phương Tây.
Với những lí do nêu trên, chúng tơi đã chọn lí thuyết tự sự của Gerald Genette
để đọc hiểu tác phẩm của Alice Munro.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là diễn ngôn tự sự của Gerald Genette, từ đó
với những khái niệm cụ thể của diễn ngơn tự sự nghiên cứu được để đọc hiểu truyện
ngắn cuả Alice Munro nhằm lí giải những hấp lực mà văn chương của bà đem đến
cho người đọc, cũng là có được câu trả lời cho những bí ẩn bề sâu mà cấu trúc diễn
ngôn tự sự trong các tác phẩm bà tạo dựng.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong 31 truyện ngắn của Alice Munro
được in qua ba tập truyện ngắn đã giới thiệu tại Việt Nam bao gồm: Ghét, thân,
thương, yêu, cưới; Trốn chạy, Cuộc đời dấu yêu trong phần ứng dụng. Phần lí luận
sẽ nghiên cứu cụ thể và khái quát để giới thuyết về diễn ngôn tự sự mà Gerald
Genette đã viết.

3. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam đã có những nhà nghiên cứu hàng đầu tìm hiểu về Gerald Genette

download by :


4

như Lê Phong Tuyết với các bài viết giới thiệu về Genette qua hai khái niệm tự sự
“Ngôi” và “Trật tự” lược dịch từ cuốn Diễn ngôn tự sự (Lộc Phương Thủy et al.,
2007); hay bài viết “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật”, (Tạp chí
nghiên cứu văn học (8), tr. 75-88). Cơng trình Những vấn đề thi pháp của truyện
(Nguyễn Thái Hòa, 2000) nghiên cứu về chuyện và truyện, thời gian tự sự, người kể
chuyện, lời kể và giọng kể, cùng không gian và thời gian cấu trúc truyện kể. Mới đây
nhất là Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2016), Tác
phẩm và thể loại văn học (Huỳnh Như Phương, 2017), Tự sự học: lí thuyết và ứng
dụng (Trần Đình Sử, 2018),… đã đóng góp những kiến giải cụ thể, góp phần giới
thiệu gần như đầy đủ các khái niệm mà Genette đưa ra trong Diễn ngơn tự sự.
Hiện đã có nhiều luận văn, luận án, bài báo ứng dụng khung lý thuyết này
trong nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể. Có thể kể: Nguyễn Mạnh Quỳnh với
luận án tiến sĩ “Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ lý thuyết thời gian của G.
Genette”; “Giới thiệu về diễn ngôn trần thuật của G. Genette và ứng dụng” (Nguyễn
Đăng Vy, 2016); “Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả” (Cao Kim Lan,
2009); “Các cấp độ thời gian trong truyện ngắn Chí Phèo” (Đào Duy Hiệp, 2000)…
Riêng nghiên cứu về Alice Munro, hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế
giới vẫn chưa xuất hiện nhiều các cơng trình chuyên sâu và dài hơi. Có thể kể tên các
bài nghiên cứu khoa học ngắn như “Nhân vật mảnh vỡ qua tập truyện trốn chạy của
Alice Munro”, “Alice Munro, mĩ học mới trong một thế giới vắng mặt”. Nhưng kể từ
năm 2013 khi Munro nhận được giải Nobel văn học, có rất nhiều bài báo viết về bà
như báo Văn nghệ Quân đội “Alice Munro kể về cách viết truyện ngắn”, “10 điều

bạn đọc muốn biết về Alice Munro”; báo Người lao động với "Bậc thầy truyện ngắn
Alice Munro đoạt Nobel văn chương”; Vnexpress “Độc giả Việt ngợi ca tác phẩm
của Alice Munro”; báo Thể thao – Văn hóa “Dịch giả Hương Lan nói về chủ nhân
Nobel Văn học: Đọc Alice Munro khác nào xem vở kịch đời”; báo Tuổi trẻ “Alice
Munro: Phù thủy chữ nghĩa”, Việt báo “Alice Munro: Bậc thầy của vẻ đẹp hàng
ngày”, “Nhà văn đoạt giải Nobel Alice Munro: Không già ở tuổi 85”, “Về Alice
Munro”... Ngồi ra có nhiều bài viết và phỏng vấn từ tiếng nước ngoài đã được dịch

download by :


5

và giới thiệu, như: “Sự bền bỉ của truyện ngắn”, “Alice Munro kể về cách viết truyện
ngắn”, “Một truyện ngắn Alice Munro có sức mạnh của nhiều cuốn tiểu thuyết”,
“Alice Munro là nhà văn nữ quyền”, “Virginia Woolf: Căn phòng riêng”, “Tại sao
Alice Munro đoạt giải Nobel?”, “Bậc thầy của những bí ẩn nơi trái tim con người”,
“Con người nhỏ, tâm hồn lớn”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống: kết nối những hệ thống ý trong quá trình khảo sát 31
truyện ngắn của Alice Munro để đi tìm được hằng số thông qua những biến số trong
diễn ngôn tự sự.
Phương pháp loại hình: diễn ngơn tự sự của Gerald Genette cũng như truyện
ngắn Munro sẽ cho phép phương pháp loại hình tự sự học bằng những khái niệm vốn
có của mình để minh giải một cách rõ nét trong quá trình nghiên cứu
Phương pháp so sánh: bằng phương pháp này tìm ra được nét tương đồng bởi
đây là định đề cuối cùng mà luận văn muốn hướng đến trong việc giới thiệu khung lí
thuyết cũng như giải mã thành cơng của phần thực hành.
Phương pháp phân tích – đối chiếu: sử dụng phương pháp để so sánh vị trí
của truyện ngắn Alice Munro trong một vài phân đoạn khi đặt bên cạnh các nhà văn

xuất sắc trước đó và đương thời của truyện ngắn phương Tây.
5. Những đóng góp của luận văn
Với đề tài nghiên cứu, chúng tôi mong muốn giới thiệu và thử nghiệm ứng
dụng lý thuyết tự sự của Gerald Genette trên một hiện tượng văn học cụ thể. Thêm
vào đó, đề tài có thể góp phần giải mã được thành công trong cấu trúc truyện kể của
Alice Munro, nhất là kết cấu thời gian và kết cấu tình huống văn chương của bà.
Việc phân tích kết cấu bề mặt văn bản sẽ giúp chúng tơi có cái nhìn thấu đáo hơn và
lí giải trọn vẹn hơn về những hấp lực mà văn chương bà đem đến.
Ngoài việc lí giải chính các tác phẩm của bà, chúng tơi cịn mong muốn đem
đến những lí giải về sự tương đồng cũng như khác biệt của nữ nhà văn Canada này
so với các bậc thầy truyện ngắn Phương Tây đi trước như Ernest Hemingway; O.
Henry; James Joyce; Guy De Maupassant; Anton Tsekkov…

download by :


6

Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ LÍ THUYẾT TỰ SỰ HỌC
CỦA GERALD GENETTE
Đóng góp của G. Genette đối với tự sự học chính là những diễn giải cụ thể về
diễn ngơn trần thuật1 như ông từng khẳng định “truyện kể đối với tơi chỉ là một hình
thức của diễn ngơn” (Lộc Phương Thủy et al., 2007). Vì nghiên cứu truyện kể qua
lời nói trong hoạt động giao tiếp khiến cho kỹ thuật nghiên cứu tự sự của ông trở nên
thiên biến vạn hóa với những biến số khó định lượng, dẫn đến việc lập sơ đồ cho nó
tưởng như là cơng việc bất khả, nhưng Genette không chỉ chia nhỏ được bản đồ tự sự
mà còn làm rõ đến chi tiết các bình diện. Đây là một trong những thành tựu nổi bật
của ông nhằm nghiên cứu cấu trúc lời kể và cách kể. Trong đó, ơng đặc biệt chú ý
đến ba khái niệm lớn của truyện kể2: story (câu chuyện), narrative (cốt truyện), và
narration (kể chuyện).

Khi mà nhiều nhà nghiên cứu từ trước và sau G.Genette còn chưa thống nhất
định nghĩa về tự sự, ông nhận định: “Tự sự là trình bày một sự kiện hay chuỗi sự kiện
có thực hay hư cấu, bằng phương tiện ngôn ngữ, đặc biệt là ngơn ngữ tự sự” (Trần
Đình Sử et al., 2018). Nói như vậy có thể hiểu truyện kể nói chung tương ứng với
một loạt các sự kiện và hành động do ai đó kể lại, và đại diện dưới hình thức cuối
cùng chính là tạo ra một cốt truyện bằng mơ hình ngơn ngữ tự sự. Trong khi
E.M.Forter nhà phê bình người Anh thì cho rằng: “Truyện là sự trần thuật về một

Tự sự học kinh điển theo Prince có thể phân làm ba nhóm: Nhóm thứ nhất là các nhà tự sự học
chịu ảnh hưởng trực tiếp của V.Propp, họ tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện, đối tượng của
trần thuật, trong đó chú ý xây dựng ngữ pháp của tự sự, chức năng của sự kiện, kết cấu, lơgích phát
triển của chúng. Nhóm thứ hai tiêu biểu là G.Genette, tập trung nghiên cứu triển khai của diễn ngơn
trần thuật. Nhóm thứ ba tiêu biểu là Prince, S. Chatman và Mikel Bal, họ cho rằng cấu trúc diễn
ngôn và cấu trúc chuyện đều quan trọng như nhau, chủ trương nghiên cứu kết hợp cả hai mặt – trích
Tự sự học từ kinh điển đến hậu kinh điển (Trần Đình Sử, 2012)
2
T. Todorov (1966) phân chia Truyện thành hai cấp độ cơ bản:
- Chuyện (histoire) bao gồm logic của những hoạt động và mộ “cú pháp” (hiểu theo nghĩa ẩn dụ) của
các nhân vật
- Diễn ngôn (discours) gồm 3 phạm trù tương đương với các phạm trù ngữ pháp: thời (temps), thể
(aspect) và thức (mode).
1

download by :


7

chuỗi sự kiện được sắp xếp theo một trình tự thời gian nào đó. Một cốt truyện cũng
là sự trần thuật về chuỗi sự kiện, nhưng điểm nhấn rơi vào quan hệ nhân quả”

(Andrew Taylor, 2007). Còn Boris Tomashevsky, nhà nghiên cứu thuộc trường phái
Chủ nghĩa hình thức Nga nhận định: “Truyện chứa đựng chuỗi những mơtíp tự sự
theo trật tự thời gian của chúng, dịch chuyển nhờ vào sự tác động nhân quả của
mơtíp; trái lại cốt truyện tuy cùng tái hiện những mơtíp đó, nhưng theo một trật tự
sắp xếp đặc biệt trong sự tổ chức văn bản” (Lê Huy Bắc, 2008). Với những nhận
định nêu trên, ta có thể kết luận tự sự học được hiểu như là lĩnh vực nghiên cứu các
cơ chế bên trong của cốt truyện.
Năm 1972, cuốn “Discours du recit: Essai de Methode” (Diễn ngôn tự sự)
được G. Genette xuất bản bằng tiếng Pháp. Đây được coi là cơng trình tiêu biểu
trong nghiên cứu tự sự học cấu trúc. Cơng trình nghiên cứu được chia làm 5 chương,
cụ thể hóa bằng ba phạm trù cơ bản: thời (time), thái (mood) và thức (voice). Trong
đó, Genette lưu tâm nhất ở khái niệm thời (time), ông giới thuyết rõ phạm trù thời
trong ba chương đầu bao gồm: trật tự (order), trường độ (duration), tần suất
(frequency) đã phần nào phân khu lại mảnh đất mà Genette chọn trong quá trình giới
thuyết về tự sự học của riêng mình.

1.1. Thời gian tự sự (Narative time)
Thời gian là nhân tố nghệ thuật làm nền tảng cho kết cấu truyện kể. Trong
nghiên cứu tự sự thì thời gian lại càng trở thành mảnh đất vàng để các nhà lập thuyết
ghi nhận những kĩ thuật đan cài giữa thời gian cái được kể và thời gian của truyện
kể. Bởi mỗi văn bản tự sự, tức mỗi truyện kể luôn là chuỗi thời gian hai lần của thời
gian. Mà ở đây, việc xử lí mối quan hệ đối xứng trên sẽ khiến cho truyện kể giàu tính
nghệ thuật hơn, và cũng là lúc đánh dấu bước phát triển của nghệ thuật tự sự khi văn
học bắt đầu bẻ gãy kết cấu tuyến tính. Và văn học hiện đại thường làm điều đó, nhằm
để tập trung vào diễn đạt các q trình tâm lý của nhân vật hoặc người kể chuyện vì
mục tiêu của truyện khơng cịn là kể chuyện nữa.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì thời gian nghệ thuật được định nghĩa: “là
hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó, “xuất

download by :



8

phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian […] Thời gian nghệ thuật có thể đảo
ngược, quy về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xơi” (Lê Bá Hán et al.,
2007). Cịn Genette thì sao? Ông chia thời gian trong truyện thành ba loại: thời gian
câu chuyện (time story), thời gian truyện kể ( time of narration) và thời gian kể
chuyện (thời gian diễn ngôn – discourse time).
Với Genette, thời gian của câu chuyện là thời gian theo niên biểu của các sự
kiện, nó được sắp đặt theo thứ tự trước sau nhất định và tn theo qui luật nhân quả
sự việc, cái gì có trước sẽ được kể trước. “Người đọc (người nghe) truyện khi tiếp
nhận một truyện nào dù thời gian có bị xáo trộn đến mấy cũng phải lặp lại được
khung thời gian này, trên cơ sở đó mà đối chiếu với thời gian của truyện và để phân
tích giá trị nghệ thuật” (Nguyễn Thái Hịa, 2000). Tạm dừng chút ít, khi ta cùng tìm
hiểu khái niệm sự kiện từ IU. M. Lotman trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật ông xác
định sự kiện qua hai định nghĩa “Trong văn bản, sự kiện là sự di chuyển của nhân
vật qua ranh giới của một trường nghĩa” và “Sự kiện được xem là cái xảy ra, mặc dù
có thể khơng xảy ra […], là sự vượt qua cái ranh giới bị cấm kị mà cấu trúc phi
truyện kể đã xác lập” (IU. M. Lotman, 1970) Còn Tamarchenco cho rằng: “Sự kiện
truyện kể là sự dịch chuyển bên ngoài hay bên trong của nhân vật (chuyến đi, hành
động, hành vi tinh thần) vượt qua cái ranh giới phân chia không gian được miêu tả
thành từng phần hay phạm vị, từng thời điểm của thời gian nghệ thuật, nhằm thực
hiện mục đích hay từ bỏ nó hoặc khắc phục các trở ngại” (Trần Đình Sử, 2014) để
phần giới thuyết được rõ ràng hơn.
Trở lại nhận định thời gian của Genette, thời gian truyện kể là thời gian sắp
đặt mang tính chủ quan của người kể chuyện, họ có thể là người trực tiếp tham gia
hay chỉ chứng kiến câu chuyện được kể. Và chuyện thì ln xảy ra trong q khứ,
cịn người kể dù đứng trong khung thời gian nào cũng vẫn là cảm thức của hiện tại.
Cho nên tính hư cấu của thời gian truyện kể Genette đặt tên là thời gian giả (pseudotemps). Trật tự của thời gian giả nhiều khi không trùng khít với thời gian của câu

chuyện. Việc lựa chọn trật tự sắp xếp các block sự kiện theo một quá trình tuyến tính
hay hỗn tuyến tính đều phản ánh chủ ý nghệ thuật của tác giả. Hơn nữa thời gian của

download by :


9

truyện kể ở cấp độ khác so với thời gian của cốt truyện, dù nó gắn liền với thời gian
cốt truyện trong quá trình tri nhận nhưng nếu tách khỏi thời gian cốt truyện thì nó
khơng cịn tồn tại, chính điều này làm nên tính phức hợp cho truyện kể.
Cịn thời gian kể chuyện là thời gian giữa người kể và độc giả. Một văn bản
truyện kể luôn mở ra chính nó trong thời gian. Cho nên tự sự học coi trọng việc kể
như thế nào hơn là nội dung kể của câu chuyện. Và thời gian cốt truyện sẽ được hiện
thực hóa rõ ràng nhất trong chính thời gian của người đọc văn bản.
Genette định nghĩa về cốt truyện cũng như mối quan hệ thời tính của văn bản
là: "Cốt truyện là chuỗi thời gian kép: Có thời gian của diễn ngôn và thời gian của
câu chuyện (thời gian của cái biểu đạt và thời gian của cái được biểu đạt). Tính hai
mặt này khơng chỉ làm thay đổi tuyến tính thời gian vốn có trong các câu chuyện
(chẳng hạn ba năm cuộc đời của người anh hùng được tổng hợp thành hai câu trong
một cuốn tiểu thuyết hoặc trong một vài cảnh quay trong quá trình dựng phim...). Cơ
bản hơn, đặt ra vấn đề một trong những chức năng của tự sự là để tạo ra một thời
gian theo lược đồ thời gian khác" (Gerald Genette, 1980) (Trang 33, NTH dịch từ
bản tiếng Anh).
Hiểu cụ thể, thì thời gian của cốt truyện (narrative) là thời gian lựa chọn của
người kể, họ có thể đóng vai trị là người tham gia trong câu chuyện hay chỉ là người
chứng kiến câu chuyện. Thông thường thứ tự của các sự kiện trong fabula (chuyện
kể) là theo thứ tự thời gian. Nhưng câu chuyện có thể bóp méo thứ tự của các sự kiện
theo nhiều cách khác nhau. Những méo lệch này được gọi là hỗn tuyến tính
(anachronies). Hỗn tuyến tính (anachronies) có từ thời cổ đại là hình thức tự sự phổ

biến trong văn học. Trong thực tế, Aristotle dường như là người đầu tiên đưa ra nhận
xét về hiện tượng này, khi ông so sánh cấu trúc thời gian của bi kịch và sử thi:
“Trong bi kịch, không thể biểu hiện nhiều sự kiện xảy ra cùng một lúc, mà chỉ một
phần sự kiện xuất hiện trên sân khấu và do diễn viên trình bày, cịn trong sử thi thì
do nó là chuyện kể nên có thể đồng thời biểu hiện sự diễn biến của nhiều sự kiện có
liên quan đến việc đang nói”. (Aristotle et al., 2007). Tất nhiên đặc tính này khơng
phải là một điều cần thiết, nhưng là một quy ước của văn học cổ Hy Lạp. Ở đây, nó

download by :


10

cho thấy rằng câu chuyện của ngôn ngữ dễ dàng tạo ra sự biến dạng thời gian, và
rằng kế hoạch thời gian của một cuốn tiểu thuyết thường sẽ phức tạp hơn so với một
vở kịch (hoặc một bộ phim).
Và để ghi nhận mối quan hệ giữa thời gian của câu chuyện và thời gian giả
của cốt truyện, Genette chia theo ba khái niệm quan trọng: các kết nối của trật tự,
giữa thứ tự các sự kiện xảy ra trong thời gian câu chuyện và thứ tự sắp xếp của nó
trong thời gian giả; các kết nối giữa thời lượng biến đổi của các block sự kiện hoặc
các phần câu chuyện và thời gian giả (trên thực tế, độ dài của văn bản) của việc kể
trong cốt truyện - đây là sự kết nối về trường độ; cuối cùng, các kết nối của tần suất,
đó là mối quan hệ giữa khả năng lặp đi lặp lại của câu chuyện và tần số xuất hiện của
những câu chuyện đó trong truyện kể.

1.1.1. Trật tự (Order)
Trong quá trình xây dựng truyện kể việc lắp ghép các block sự kiện tạo nên
trật tự khung thời gian là điều tối cần thiết, bởi truyện kể khi có sự tinh tế, sâu sắc
trong việc sắp đặt và lựa chọn điểm mốc mới giúp bộ khung thời gian cất được tiếng
nói quan trọng của mình. Bởi diễn ngôn truyện kể luôn được người kể đã chọn lựa

mục đích trước đó. Diễn giải cụ thể hơn, Trần Đình Sử viết: “Thời gian chuyện là
thời gian diễn tiến của các sự kiện. Thời gian trần thuật là thời gian truyện kể, sự kể,
nằm ở cấp độ khác so với thời gian câu chuyện, nhưng là thời gian tri nhận chuyện,
nó gắn với thời gian câu chuyện khơng thể tách rời trong sự sắp xếp lại tạo nên cái
“thời gian kép” mà G. Genette đã nói.” (Trần Đình Sử et al., 2018). Ngôn ngữ vốn
tồn tại trong thời gian của người kể chuyện, và nhiệm vụ của nó cũng chính là biểu
thị thời gian, căn chỉnh thời gian theo trật tự nhất định của diễn ngơn truyện kể. Có
thể coi thời gian chính là nhân tố hư cấu đầu tiên của q trình dựng truyện. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu thời gian của G. Genette quan tâm đến quá trình dựng cốt
truyện chứ khơng phải việc tìm hiểu nội dung câu chuyện.
G. Genette cho rằng: “Nghiên cứu trật tự thời gian của truyện kể đó là việc
đối chiếu trật tự của việc bố trí các sự kiện hay các đoạn thời gian trong lời kể
chuyện với trật tự liên tục cũng như của chính các sự kiện hoặc các đoạn thời gian

download by :


11

này trong câu chuyện, trong chừng mực nó được chỉ dẫn rõ ràng do chính chuyện
kể, hoặc ta có thể suy đoán ra chúng từ dấu hiệu gián tiếp này hoặc kia” (Đào Duy
Hiệp, 1998). Hiểu như trên thì trật tự thời gian trong truyện thường được xáo trộn,
không trùng với thời gian của chuyện, sự việc xảy ra sau đưa lên trước, sự việc xảy
ra ở quá khứ lại đưa về sau; hiện tại, quá khứ và tương lai xen kẽ vào nhau không
theo trật tự niên biểu mà theo trật tự hồi ức, liên tưởng, cảm xúc… Đây cũng là thủ
pháp lắp ghép mà điện ảnh thường dùng. Nó tạo ra nhịp điệu truyện kể bằng chính
những thủ thuật căn chỉnh về thời gian. Hầu hết các sự kiện trong cốt truyện có một
thời gian đơn giản, nó chỉ là các sự kiện của câu chuyện được biểu hiện lại. Nhưng
một số yếu tố liên quan đến cốt truyện như các đối tượng và dấu hiệu quanh sự kiện
thì chúng có thời gian kép: thời gian cái biểu đạt và thời gian được biểu đạt. Do đó,

trạng thái thời gian của các sự kiện này sẽ phải được mô tả ở hai mức độ biểu thị:
mức độ thời gian theo tiêu chuẩn của câu chuyện và mức độ thời gian của người kể.
Ví dụ, một câu chuyện đang kể có thể đột ngột nhường chỗ cho việc mơ tả về sự kiện
trong quá khứ với lời kể ngay thời điểm hiện tại của người kể chuyện. Hoặc một
nhân vật có thể hồi tưởng về một câu chuyện trong quá khứ khi vẫn đang sống và
hoạt động trong câu chuyện hiện tại, câu chuyện có dấu hiệu nằm trong hiện tại
nhưng những sự kiện được mô tả trong câu chuyện lại đưa chúng ta đến quá khứ.
Genette kết luận rằng: "Tự sự folklore, ít nhất trong các tác phẩm chính yếu,
thường tuân theo trật tự tuyến tính, nhưng truyền thống văn học (phương Tây) của
chúng ta thì lại khởi đầu từ một hiệu ứng đặc trưng của sự hỗn tuyến tính" (Gerald
Genette, 1980) (Trang 36, NTH dịch từ bản tiếng Anh). G. Genette cũng đưa ra ví dụ
trong việc khảo sát sử thi Iliade đoạn mở đầu. Cuộc tranh cãi giữa Achilles và
Agamemnon được kể trước, sau đó mới hồi cố về nguyên nhân xảy ra mối bất hòa.
Cũng như cuộc chiến thành Troy kéo dài suốt mười năm nhưng chỉ kể lại trong năm
mươi ngày cuối cùng. Ông chia mỗi block sự kiện trong truyện kể ghi bằng các chữ
cái in hoa là A, B, C, D, E…và thời gian tuyến tính của cốt truyện là 1, 2, 3, 4, 5…
Ơng nhận xét nó có sự hốn đổi vận động theo sơ đồ: A4-B5-C3-D2-E1, và gọi tên
nó là đường zích zắc hồn hảo (un parfait zigzag).

download by :


12

Tương tự, trong một tác phẩm tự sự trinh thám thì trật tự tuyến tính của câu
chuyện sẽ phải là: Vụ án (1)  phá án (2)  thủ phạm trả giá (3). Nhưng nếu xây
dựng theo thứ tự nhân quả của thời gian khách quan thì chuyện sẽ khơng tạo ra được
sự thu hút đối với người đọc. Vì thế trật tự của cốt truyện trinh thám thường bị đảo
lộn như sau: Phá án (1)  vụ án (2)  thủ phạm trả giá (3).
Một ví dụ khác: Trong phân đoạn cho đoạn văn mở đầu của Đi tìm thời gian

đã mất: “Trong một thời gian dài tôi thường đi ngủ sớm […] vẫn còn dõi mãi theo
anh ta trong sự im lặng của đêm tối”, Đào Duy Hiệp chia thành 8 vị thế thời gian.
Theo trật tự niên biểu các mốc thời gian được tính: H1. Cuộc ganh đua giữa Francois
Đệ nhất và Charles-Quint trong lịch sử, sách được in năm 1875 trước khi người kể
chuyện ra đời, người kể chuyện nhớ lại lịch sử; G2. Nhà thờ, ám chỉ tuổi ấu thơ ở
Combray; A3. Gần lúc kể lại câu chuyện, nhưng phủ lên một quãng thời gian rất
rộng, khó xác định “trong một thời gian dài”, nhưng trước tất cả các “câu chuyện” sẽ
kể bên dưới về việc đi tìm giấc ngủ; B4. “đơi khi”, C5. “nửa giờ sau đó”; B6. “tơi
định đặt cuốn sách”; E7. “trong khi ngủ”; F7. “tơi có cảm giác rằng”, “hành động
liên tục của (E), K7’’, “đề tài của cuốn sách”. Vẫn tiếp tục của €; L8. “ngay lúc ấy”,
tiếp liền của K; I8’. “niềm tin này cịn lưu lại”; M3’. “tơi tự hỏi không biết lúc này là
mấy giờ rồi”, tỉnh hẳn, trở lại thời điểm trước khi kể chuyện:
Ta có sơ đồ:
A3 B4 C5 D6 E7 F7’ G2 H1 I8’ K7’’ L8 M3’
Việc sắp xếp trật tự thời gian truyện kể được Genette chia ra làm hai loại:
tuyến tính (chrony) và hỗn tuyến tính (anachrony). Chính ra loại truyện kể có trật tự
theo niên biểu thì thường nhất qn, và trật tự bị đảo lộn tạo ra sai số về thời gian.
Genette lí giải: "Mỗi cấu trúc hỗn tuyến tính, xét về quan hệ với tự sự mà nó
được gắn vào, sẽ bao gồm một tự sự thứ cấp về mặt thời gian, lệ thuộc vào tự sự sơ
cấp theo một kiểu cú pháp tự sự mà ta đã gặp trong phân tích trên về một đoạn của
Jean Santeuil. Từ đây ta gọi cấp độ thời tính của tự sự mà hỗn tuyến tính được xác
định nằm trong đó, là "tự sự sơ cấp" (first narrative). Dĩ nhiên - và ta đã xác nhận
rồi - những đoạn gắn nhúng này có thể phức tạp hơn, và một cấu trúc hỗn tuyến tính

download by :


13

có thể mang vai trị của tự sự sơ cấp trong quan hệ với tự sự khác mà nó chứa đựng;

và rộng hơn, trong quan hệ với một hỗn tuyến tính tính tổng thể của văn cảnh có thể
được xem là tự sự sơ cấp" (Gerald Genette, 1980) (Trang 48-49, NTH dịch từ bản
tiếng Anh).
Để nghiên cứu cụ thể về trật tự (order) Genette dùng ba phạm trù được bóc
tách từ trật tự và làm rõ đặc điểm của trật tự, chính là chiều hướng (direction) khoảng
cách (distance) và biên độ (reach).
Chiều hướng của trật tự có thể về trước hay về sau, tương lai hoặc quá khứ,
bao gồm dự báo (prolepsis) và hồi cố (analepsis).
Hồi cố (analepsis) là sự sai lệch về trật tự thời gian khi người kể chuyện kể về
sự kiện đã xảy ra trước đó, sớm hơn hiện tại câu chuyện chính đang diễn ra, và thời
điểm người đọc đang theo dõi câu chuyện với mốc thời gian hiện tại. Sự hồi cố đem
đến cái nhìn rõ hơn cho sự kiện, cũng là góp phần dựng nhân vật được rõ nét hơn, kĩ
thuật này giúp thời gian ngưng đọng như trong Đi tìm thời gian đã mất.
Ví dụ: Genette cho rằng Một mối tình của Swann là sự hồi cố ngoại tại, tức là
“nó nằm bên ngoài điểm xuất phát thời gian của truyện kể thứ nhất về lịch sử tâm
hồn, thiên hướng văn chương của Marcel”. Như bản anh hùng ca Odyssée, hồi cố về
Ulysse khi còn ở Phéciens, ngược lên nữa là sự sụp đổ của thành Troy.
Dự báo (prolepsis) là sự bất đồng trong trật tự thời gian giữa câu chuyện và
cốt truyện, nó là hình thức của trật tự lấy thời gian tương lai của câu chuyện, thời
gian của điều xảy ra sau được nói trước so với khung thời gian hiện tại mà tình tiết
cốt truyện đang diễn biến. Người kể chuyện dự đoán các sự kiện sẽ xảy ra khi cốt
truyện kết thúc.
Ví dụ: đó là cảnh cuộc vui buổi chiều Guermantes, Genette và Tadié đều thấy
rằng có nhiều câu chuyện khác còn được kéo dài ra sau cả buổi chiều này – buổi
chiều được xem như khép lại câu chuyện về Đi tìm thời gian đã mất “một loạt những
dự báo mang tính chung cục: ám chỉ cái chết nhanh của de Charlus; về cuộc hôn
nhân của nàng de Saint-Loup: “Người con gái này, mà dòng dõi và tài sản có thể
khiến mẹ nàng hi vọng rằng nàng sẽ cưới một hoàng tử vương gia và sẽ đặt vương

download by :



14

miện lên tồn bộ cái cơng trình đang chuyển động đi lên này của Swann và vợ ơng,
say đó nàng đã chọn một nhà văn tăm tối làm phu quân, và khiến cho cái gia đình
thấp hơn chuẩn mực nơi mà nàng đã xuất thân lại đi xuống”; sự xuất hiện cuối cùng
của Odette, hơi bị lẫn gần ba năm sau buổi chiều Guermantes” (Đào Duy Hiệp,
2003)
Có hai yếu tố có thể xâm nhập vào analepsis và prolepsis: biên độ (reach) và
khoảng cách (distance). "Một hỗn tuyến tính có thể tiếp cận quá khứ hoặc tương lai,
hoặc ít hơn nhiều so với thời điểm "hiện tại" (nghĩa là, từ thời điểm trong câu
chuyện khi câu chuyện bị gián đoạn để nhường chỗ cho hỗn tuyến tính): khoảng
cách thời gian này chúng ta sẽ đặt tên cho nó là biên độ hỗn tuyến tính. Bản thân
hỗn tuyến tính cũng có thể bao gồm một trường độ câu chuyện dài hay ngắn: chúng
ta sẽ gọi nó là khoảng rộng (extent) của nó. ” (Gerald Genette, 1980) (Trang 48,
NTH dịch từ bản tiếng Anh).
Hỗn tuyến tính (anachronies) có thể có một số chức năng trong cốt truyện.
Trong khi hồi cố (analepses) thường đảm nhận vai trị giải thích, phát triển tâm lý
của nhân vật bằng cách gợi lại các sự kiện từ quá khứ của mình, dự báo (prolepses)
có thể khơi dậy sự tò mò của người đọc bằng tiết lộ một phần sự việc sẽ xuất hiện
sau này. Cốt truyện là một sự biến đổi không chỉ các vật liệu của sự kiện câu chuyện,
mà còn là sự xuất hiện của người đọc; cả hai hiệu ứng dự báo và hồi cố giúp q
trình chuyển đổi trật tự sự kiện mang tính khác biệt và thu hút hơn thông qua thái độ
của người kể chuyện. Tuy nhiên trần thuật dự báo ít xảy ra hơn so với trần thuật hồi
cố. Nhưng khi nó có mặt, nó cũng góp phần tạo nên cấu trúc kỳ vọng, tò mò và hồi
hộp, với hoạt động lấp đầy và xây dựng sự gắn kết sự kiện trở thành nhiệm vụ của
người đọc câu chuyện. Đôi khi một câu chuyện đơn giản như chuyện kể nửa đêm
dành cho trẻ em có những gợi dẫn về tương lai mà ở đó trần thuật dự báo (prolepses)
sẽ làm nổi bật cảm giác tò mò.

Còn khoảng cách (distance) lại là khái niệm liên quan đến khung của tác
phẩm, là khái niệm cụ thể được diễn giải trong thức trần thuật, gồm: khoảng cách nội
tại (internal) và khoảng cách ngoại tại (external). Ví dụ: hồi cố nội tại (analepsis

download by :


15

internal) như Thị Nở nhớ lại cảnh ân ái với Chí Phèo; và hồi cố ngoại tại (analepsis
external) như Thị Nở nghĩ đến cái lị gạch cũ khi nhìn xuống bụng mình.
Khoảng cách nội tại (internal): với phương tiện khung thời gian được dựa vào
nhân vật tiêu điểm (character-focaliser). Điều này có thể khiến trật tự thời gian bị
hạn chế bởi vì tầm nhìn của nhân vật tiêu điểm ln bị cố định bởi vị trí chỉ mỗi
nhân vật so với các nhân vật và sự kiện xảy ra xung quanh câu chuyện.
Khoảng cách ngoại tại (external): với phương tiện dựa vào người kể chuyện
(narrator-focaliser). Đây là cách tiếp cận khung tác phẩm cận cảnh và tồn cảnh cả
khơng gian và thời gian.
Và cuối cùng là biên độ (reach): điểm tính (punctual) và trường tính
(durative). Điểm tính (punctual) – đúng giờ, đúng thời điểm. Nếu hồi cố nói về thời
điểm chính xác là hồi cố điểm tính, cịn nếu nó bao qt dài thì là hồi cố trường tính.
Ví dụ, Chí Phèo nhớ lại q khứ của mình: trường tính; Thị Nở nhớ lại cảnh ăn nằm:
điểm tính.
1.1.2. Trường độ (Duration)
Trường độ được đo bằng cách so sánh thời gian cần để đọc văn bản trần thuật
về sự kiện (thời gian trần thuật – time of narration) hoặc (thời gian diễn ngôn –
discourse time) với thời gian xảy ra sự kiện đó ở cấp độ câu chuyện (thời gian câu
chuyện – story time). Các hiệu ứng đọc có thể thu được bằng cách thay đổi trường độ
tường thuật. Genette sử dụng các màn trình diễn sân khấu để so sánh, trong đó câu
chuyện lý tưởng của các sự kiện có thời lượng giống như văn bản trần thuật theo trật

tự niên biểu. Tuy nhiên, trong các văn bản văn học, người trần thuật có thể tăng tốc
hoặc làm chậm sự kể đối với các sự kiện được kể. Ví dụ, chúng ta có thể tóm tắt tồn
bộ cuộc đời của một người trong một câu duy nhất, hoặc chúng ta có thể mất hàng
nghìn trang giấy để kể lại các sự kiện chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian 24 giờ.
Trường độ được Genette xác định là "các kết nối giữa thời lượng biến đổi của
các sự kiện hoặc các phần câu chuyện và thời gian giả (trên thực tế là độ dài của
văn bản) kể trong câu chuyện" (Gerald Genette, 1980) (Trang 90, NTH dịch từ bản
tiếng Anh). Đây như một qui tắc về sự phức tạp của cấu trúc diễn ngôn. Ở cấp độ văn

download by :


16

bản, thời gian có thể được hư cấu; kể về câu chuyện có thể là một câu chuyện trong
chính nó, và thời gian của cốt truyện (fabula) có thể được đo đối với thời gian hư cấu
này bao quanh hành động của người kể chuyện. Thời gian trần thuật hiểu theo
Genette nó có thể ám chỉ cả thời gian đọc lý tưởng hoặc thời gian đại diện trong đó
diễn ngơn trần thuật mở ra. Vì thời gian hư cấu này có thể có các biến thể về trật tự,
trường độ và tần suất, công thức cho trường độ câu chuyện có thể cực kỳ phức tạp.
Điều này chỉ có nghĩa là thời gian có thể chứa trong cốt truyện với một điều kiện vơ
hạn. Một số ít văn bản có thể thử tìm kiếm các cách thức khác để khám phá những
thay đổi phức tạp trong trường độ thời gian, tuy nhiên hầu hết các truyện kể đều dễ
dàng phân tích bằng việc sử dụng hệ thống phân tích câu chuyện theo kiểu Genette.
Trường độ của câu chuyện bao gồm mối quan hệ tương đương giữa thời gian
của cốt truyện và trường độ lý tưởng của quá trình đọc. Sự trùng hợp lý tưởng ở tất
cả các điểm giữa trường độ của cốt truyện và truyện kể là những gì Genette gọi là tự
sự đẳng thời (isochronous). Nhưng tự sự đẳng thời, cốt truyện (narrative) khơng có
biến thể của nhịp điệu. Tự sự bất đẳng thời (anisochronies) lại có chuyển động nhịp
điệu truyện kể đi từ chậm đến nhanh; kiểu tóm tắt (summary) đến tỉnh lược (ellipsis);

từ bối cảnh (scene) đến miêu tả (pause). Đây là bốn chuyển động cơ bản được
Genette mơ tả "chúng ta có thể sắp xếp các giá trị thời gian của bốn chuyển động
này khá hồn thiện với các cơng thức sau đây, với ST chỉ định thời gian câu chuyện
và NT thời gian giả hay thời gian trần thuật": (Gerald Genette, 1980) (Trang 94,
NTH dịch từ bản tiếng Anh).
Ellipsis

Acceleration

Scene

Deleleration

Pause

Tỉnh lược

Gia tốc

Cảnh

Giảm tốc

Đoạn ngưng

ST = n

ST > NT

ST = NT


ST < NT

ST = 0

NT = 0

NT = n

ST >∞ NT

ST ∞< NT

Các công thức dường như rất phù hợp và gọn gàng trong quá trình đo lường
nhịp thời gian. Theo cách hiểu của chúng tôi, những chuyển động này sẽ là chuyển
động của văn bản trần thuật chứ không phải là câu chuyện, và điều này mang lại một

download by :


17

số thay đổi trong khái niệm về dựng cốt truyện.
Đoạn ngưng (pause): Câu chuyện đứng yên nhưng tự sự thì vẫn tiếp tục (hiếm
gặp). Ví dụ việc ngừng lại để tả Thị Nở. Khi đó tốc độ cốt truyện sẽ tạm dừng: TN =
n; ST = 0. Câu chuyện bị gián đoạn sự kiện để tạo không gian riêng cho diễn ngôn
của người kể chuyện. Câu chuyện là sự tiếp nối của các sự kiện, khi khơng có truyền
nối của các cố sự fabula; mặc dù câu chuyện như tạm dừng nhưng người đọc vẫn
theo dõi qua khung thời gian miêu tả của pause. Dĩ nhiên những tạm dừng miêu tả là
một phần của thế giới câu chuyện khi được kể lại, có liên hệ mật thiết trong hành vi

giao tiếp của người trần thuật. Nó giúp việc bài trí câu chuyện như những cảnh trí
được lắp ghép, hệt như sự chuyển cảnh của sân khấu. Cũng có khi những đoạn tạm
dừng này được gây ra bởi sự gián đoạn của một câu chuyện từ người khác nhằm giãn
nhịp cốt truyện đang được xây dựng.
Cảnh (scene): TN = ST. Thời gian trần thuật tương ứng với thời gian của câu
chuyện, ví dụ: đoạn đối thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến khi Chí đến nhà gặp Bá
Kiến. Trường hợp đối thoại là một ví dụ rõ nét trong cơng thức này. Chúng ta nên
lưu ý rằng danh tính giữa thời gian diễn ngôn và thời gian câu chuyện được hiển thị
trong khung cảnh là giả thuyết, một quy ước ngầm được xây dựng. Hai thời gian này
hiếm khi được đo bằng đơn vị thời gian. Điều này dường như mâu thuẫn với định
nghĩa của cảnh. Trong một cảnh, thời gian của thời gian diễn ngôn về nguyên tắc nên
được sử dụng theo biểu tượng để biểu thị thời gian của thời gian câu chuyện. Và nó
là như vậy, với điều kiện biểu tượng của thời gian cũng là một mối quan hệ được xây
dựng cho việc thể hiện cái được biểu đạt thời gian. Đây là lý do tại sao chúng ta
thường nhận được rất nhiều "tăng tốc" cảnh, đáng chú ý nhất trong câu chuyện kịch
tính hoặc phim ảnh, mà khơng có bất kỳ vi phạm trạng thái khách quan nào của sự
kiện. Cảnh sẽ cho phép ta nắm bắt nhịp của cốt truyện, đồng thời nối kết thời gian
diễn ngôn với thời gian truyện kể ngang nhau. Các quy ước chung xác định đường
giao này có thể được trao cho danh tính giả định giữa thời gian được biểu diễn và
thời gian biểu diễn. Có thể, trần thuật cảnh địi hỏi một cuộc đối thoại khơng có
khoảng trống đáng chú ý, cung cấp một loại mã chìm vào thế giới hư cấu; khoảng

download by :


18

cách tối đa từ việc dàn xếp của người trần thuật có thể được thực hiện chủ yếu bằng
hai phương tiện: đặt trong thế giới của lời nói nhân vật và đặt trong nhận thức bất
thành văn của nhân vật về thế giới được kể lại. Đó chính là đối thoại và độc thoại của

nhân vật. Trong trường hợp đầu tiên, chúng ta nhận được một cuộc đối thoại kịch
tính với tối thiểu các chỉ dẫn trần thuật, thường liên quan đến việc trình bày các nhân
vật bên ngồi. Trong lần thứ hai, khung cảnh được lọc qua ý thức của một nhân vật,
một người định tiêu điểm (focalizer), và ấn tượng của thời gian cảnh được tạo ra
thông qua trình tự của những nhận thức kể lại, suy nghĩ và cảm xúc của anh. Cảnh là
một trong những chuyển động cơ bản của cốt truyện cùng với tóm tắt. Đầu tiên với
cảnh, nó đánh dấu sự khởi đầu của loại hình cốt truyện tạo ra điểm tham chiếu cho
người đọc.
Gia tốc (Acceleration (tóm tắt)): NT < ST : Nhịp độ truyện đi rất nhanh, thời
gian câu chuyện đi nhanh hơn thời gian trần thuật. Một số sự kiện của câu chuyện
được tóm tắt trong truyện kể, tạo ra sự tăng tốc. Gia tốc được sử dụng bất cứ khi nào
có biến cố được lọc qua một suy nghĩ, có thể là người kể chuyện hoặc của nhân vật
(ví dụ, trong một hồi cố (analepsis) chủ quan, tiêu tố sẽ lựa chọn mốc thời gian cụ
thể như bốn mươi năm cuộc đời của Chí Phèo có thể lướt nhanh qua, chỉ dừng lại
khung thời gian cốt truyện khoảng 12 năm Chí Phèo đi tù về nhưng thực chất kĩ
lưỡng nhất vẫn là 6 ngày cuối cùng trước khi Chí Phèo chết). Gia tốc thường là yếu
tố bên lề của cốt truyện, là giàn giáo cần thiết để đặt giai đoạn cho chuyển cảnh tiếp
theo. Do đó, chức năng của nó là định hướng đối với người đọc, nhằm củng cố tuyến
chính của cốt truyện. Việc sử dụng gia tốc khiến cho một vài câu, trang viết, hay
đoạn văn đều có thể chuyển tải thời gian cả vài ngày, vài tháng, thậm chí là rất nhiều
năm. Qúa trình lướt nhanh thời gian này giúp truyện kể chuẩn bị chuyển cảnh, đặt
nhân vật đến ngưỡng của những biến cố mới mà tiểu thuyết cổ điển rất thích dùng.
Giảm tốc (deceleration): Thời gian câu chuyện ngắn hơn thời gian trần thuật.
Ví dụ: Chí Phèo ngửi được mùi cháo hành và suy nghĩ về những phụ nữ đã từng xuất
hiện trong đời hắn. Giảm tốc địi hỏi kĩ thuật tinh tế mới có thể kéo giãn thời gian
trần thuật nhưng thời gian cốt truyện lại gần như đứng yên. Việc làm ngưng đọng

download by :



19

thời gian câu chuyện nhằm kéo người đọc theo trường nhìn của nhân vật hay người
kể chuyện, đem lại phơng nền cho giai đoạn nghỉ lấy nhịp, tạo ra biến cố mới về nhịp
điệu khi xuất hiện cảnh tiếp theo với những chuyển biến có dụng ý tạo cảnh mới cho
truyện kể, khiến cho dòng chảy truyện kể chậm lại, và nhúng truyện kể chìm trong
trường đoạn tâm tình, triết lí, hay khơi sâu ý nghĩa về những sự kiện đã và sắp xảy
ra.
Tỉnh lược (Ellipsis) NT = 0; ST = n.: Chuyện có xảy ra nhưng khơng diễn ra
trong thời gian trần thuật như kể Chí Phèo đi cày trong thời gian làm tá điền ở nhà
Bá Kiến. Câu chuyện kể hồn tồn khơng có một phần nào từ câu chuyện sự kiện.
Tỉnh lược dường như là một khái niệm khó nắm bắt, vì các sự kiện chỉ tồn tại thơng
qua kết xuất của nó trong câu chuyện, và tỉnh lược được định nghĩa là phần của sự
kiện bị bỏ qua trong câu chuyện. Do đó, định nghĩa về tỉnh lược, thì cần phải có một
loại kiến thức khác để chứng minh sự hiện diện của nó, và đây thường là kết quả của
năng lực văn học của người đọc và khả năng dự đoán của các kiểu sự kiện fabula.
Tỉnh lược được kết nối với nguyên tắc định hướng của cốt truyện. Nhiều tỉnh
lược chỉ là những khoảng trống thời gian được sử dụng để đưa ra hình dạng cho cốt
truyện, để nhấn mạnh mối quan hệ nhân quả qua kết nối thời gian bằng các mơ hình
trình tự thời gian trên qui luật nhân quả. Genette phân chia tỉnh lược thành các loại:
hiển lộ (explicit), ngầm định (implicit) và giả thuyết (hypothetical) như sau:
(a) Tỉnh lược hiển lộ: "xuất hiện hoặc từ một chỉ dấu (xác định hoặc khơng
xác định" về qng thời gian nó lược đi, qng thời gian này đồng hố nó với kiểu
tóm tắt rất ngắn như "vài năm trôi qua" (trường hợp này chỉ dấu tạo nên tỉnh lược
như một phần văn bản, vì vậy nó khơng hồn tồn đồng nhất với zero); hoặc từ sự
lược bỏ thuần tuý và đơn giản (cấp 0 của văn bản lược) và khi tự sự bắt đầu lại, một
chỉ dấu về thời gian trôi qua, giống như kiểu "hai năm sau" phía trên." (Gerald
Genette, 1980) (Trang 106-107, NTH dịch từ bản tiếng Anh).
(b) Tỉnh lược ngầm ẩn: “là kiểu tỉnh lược mà không được thông báo trong văn
bản và độc giả phải tự suy ra từ "chỗ khuyết hay khoảng trống thời gian trong chuỗi

tự sự." (Gerald Genette, 1980) (Trang 108, NTH dịch từ bản tiếng Anh).

download by :


×