Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) thơ ca hiện thực trào phúng nam kì lục tỉnh cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ phan văn trị, huỳnh mẫn đạt, học lạc và nhiêu tâm)​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Cẩm Ly

THƠ CA HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG
NAM KÌ LỤC TỈNH
CUỐI THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX
(KHẢO SÁT QUA THƠ PHAN VĂN TRỊ,
HUỲNH MẪN ĐẠT, HỌC LẠC VÀ NHIÊU TÂM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

download by :


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Cẩm Ly
THƠ CA HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG
NAM KÌ LỤC TỈNH
CUỐI THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX
(KHẢO SÁT QUA THƠ PHAN VĂN TRỊ,
HUỲNH MẪN ĐẠT, HỌC LẠC VÀ NHIÊU TÂM)

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số



: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỒN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

download by :


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, các kết quả nghiên
cứu có tính độc lập, khơng sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở
bất kỳ một cơng trình nào khác. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn được sử
dụng trung thực, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các cơng trình
nghiên cứu liên quan đã được cơng bố trên các website.
Tác giả luận văn

Trần Thị Cẩm Ly

download by :


LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các q Thầy cơ giáo trong Khoa Ngữ văn,
phịng Sau đại học, các Thầy cô của thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh cũng như thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã ln quan tâm, giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tơi hồn thành luận văn này.

Đặc biệt, chúng tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến PGS. TS Đoàn
Thị Thu Vân - người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn và cảm thơng, chia sẻ với
chúng tơi trong suốt q trình nghiên cứu. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn
bè – những người ln động viên, khích lệ, hỗ trợ chúng tôi trên nhiều phương diện.
Tác giả luận văn

Trần Thị Cẩm Ly

download by :


MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................................... 9
1.1. Nam Kì Lục Tỉnh – vùng đất mới – giao điểm hội tụ của các luồng
văn hóa Đơng – Tây.............................................................................................. 9
1.1.1. Q trình hình thành Nam Kì Lục Tỉnh ....................................................... 9
1.1.2. Con người Nam Kì Lục Tỉnh ...................................................................... 12
1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX ............................................................................................................ 20
1.2.1. Thời kì sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam ....................................... 20
1.2.2. Nền bảo hộ của Pháp ở Nam Kì và kháng chiến của nhân dân .................. 23
1.3. Văn học Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX .............................. 28
1.3.1. Văn học Hán Nôm ...................................................................................... 30
1.3.2. Văn học Quốc ngữ ...................................................................................... 34
1.4. Thơ trào phúng – tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại ........................ 40

1.4.1. Khái niệm “trào phúng” ............................................................................. 40
1.4.2. Thơ trào phúng ........................................................................................... 41
1.4.3. Bức tranh văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế
kỉ XX.......................................................................................................... 43
1.5. Những nhà thơ hiện thực trào phúng đặc sắc đất Nam Kì ................................... 48
1.5.1. Phan Văn Trị (1830-1910) ......................................................................... 49
1.5.2. Huỳnh Mẫn Đạt (1807 – 1883)................................................................... 51
1.5.3. Học Lạc (1842-1915) .................................................................................. 53
1.5.4. Nhiêu Tâm (1840 – 1911)........................................................................... 55

download by :


Chương 2. NỘI DUNG HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG TRONG THƠ
CA NAM KÌ LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU
THẾ KỈ XX ............................................................................................ 58
2.1. Tiếng cười châm biếm, đả kích ............................................................................ 58
2.1.1. Đả kích bọn thực dân Pháp ......................................................................... 59
2.1.2. Đả kích giai cấp thống trị và bọn quan lại làm tay sai cho giặc ................. 64
2.1.3. Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội .................................................. 82
2.2. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh ............................................................................ 93
2.2.1. Tiếng cười tự trào với cái nhìn lạc quan, đa chiều về cuộc sống .............. 94
2.2.2. Tiếng cười quên đi những bộn bề lo âu vất vả của cuộc sống hàng
ngày ............................................................................................................ 99
Chương 3. NGHỆ THUẬT THƠ HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG NAM KÌ
LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX............................ 104
3.1. Thể loại, thủ pháp nghệ thuật và các biện pháp tu từ ......................................... 104
3.1.1. Sự kết hợp giữa “yếu tố Nôm” và “Đường luật” trong thơ bát cú .......... 104
3.1.2. Hình thức ngụ ý, hình ảnh ẩn dụ, thủ pháp đối lập................................... 107
3.2. Ngơn ngữ quần chúng Nam Kì - nguồn của mọi nguồn .................................... 112

3.2.1. Ngôn ngữ giản dị nhưng điêu luyện, tài tình ............................................ 112
3.2.2. Ngơn ngữ thơ ráp, góc cạnh, khơng trau chuốt......................................... 122
3.3. Giọng điệu trào phúng ........................................................................................ 127
3.3.1. Giọng châm biếm, đả kích ........................................................................ 127
3.3.2. Giọng bông đùa, hài hước......................................................................... 131
3.3.3. Sự kết hợp hài hòa giữa cái bi và cái hài .................................................. 134
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 139

download by :


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều biến
chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là vùng Nam Kì Lục Tỉnh. Đời sống văn hố tinh thần của
nhân dân ta cịn được tiếp nhận luồng gió mới từ phương Tây thổi vào do những ảnh
hưởng sâu sắc của chế độ thực dân trên vùng đất này. Chính vào thời điểm đất nước có
nhiều biến động đó đã sản sinh ra những nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc hàng
đầu của nền văn học. Thơ ca hiện thực trào phúng trở thành một sản phẩm tinh thần
đặc sắc của giai đoạn mạt kì trung đại. Thơ trào phúng thông qua sự quan sát cảm nhận
của các tác giả Nam Kì Lục Tỉnh đã phần nào phản ánh chân thật hiện thực cuộc sống
đương thời, đặc biệt là hiện thực tâm trạng của tầng lớp trí thức. Các nhà nho trào
phúng đã tìm được đề tài đắc địa đề bộc lộ cách nhìn, cách nghĩ mới về những vấn đề
mang tính thời đại quốc gia. Thơ trào phúng đến đây đã vượt qua giai đoạn tìm tiếng
cười khơi hài trong những chuyện vặt vãnh để đi vào những vấn đề có nội dung chính
trị xã hội, có ý nghĩa phê phán, đấu tranh rộng hơn. Tiếng cười đã trở nên sắc bén,
hiểm hóc và đa dạng, có hiệu quả phê phán cao hơn. Tiếng cười trào phúng thế kỉ XIX

- đầu thế kỉ XX đã bổ sung sức mạnh cho văn thơ yêu nước cách mạng cũng như góp
phần chuẩn bị nền móng vững chắc cho sự ra đời và phát triển của trào lưu văn xuôi
hiện thực phê phán những năm 30, 40 của thế kỉ XX. Việc tìm hiểu thơ ca hiện thực
trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những nét đặc
sắc của thơ ca Việt Nam giai đoạn chuyển tiếp từ trung đại sang hiện đại nói chung và
đặc điểm của thơ ca hiện thực trào phúng nói riêng.
Văn học hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
là một bộ phận đặc biệt cả về ý nghĩa và lịch sử trong nền văn học Việt Nam. Cá tính
văn học hiện thực trào phúng của miền Nam Kì Lục Tỉnh là điều không thể phủ nhận
bởi sức hấp dẫn của nó. Vùng văn học này đã có một đời sống rất sôi nổi với hàng
trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút hàng triệu độc giả, và đã để lại
những vết son không phai mờ trong ký ức của nhiều người. Thế nhưng nó vẫn chưa
được tìm hiểu một cách hợp lý và xứng đáng. Các cơng trình nghiên cứu về văn học
giai đoạn này cũng như vùng văn hóa này cịn rất hạn chế. Nảy sinh từ thất bại của

download by :


2
phong trào yêu nước chống Pháp, văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX mang trong sự phát triển của nó một màu sắc riêng, có nội dung và nhịp điệu tương
ứng với q trình xâm lược quân sự, bảo hộ và khai thác thuộc địa của thực dân. Có thể nói
giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX là một giai đoạn đặc thù, với những đặc
trưng và phẩm chất khác với lịch sử trước nó và sau nó. Chính vì thế, nó làm nảy sinh
và phát triển một đội ngữ các nhà thơ mang phong cách, suy nghĩ rất riêng. Do những
đặc thù và phẩm chất đó nên việc nhận diện và khảo sát nó ln là cần thiết. Từ đó
thấy được vai trị cùng những đóng góp to lớn của các nhà thơ trào phúng miền Nam
cho nền văn học cả nước, nhìn thấy rõ nét một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam
những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Tìm hiểu về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh là tìm hiểu con đường

hình thành và phát triển tạo nên phong cách riêng, độc đáo trong thơ ca của các nhà
thơ đất Nam Kì. Hiện nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện, có
tính hệ thống về nội dung và nghệ thuật tiếng cười trào phúng trong vùng văn học này.
Vì vậy, cơng trình này mong muốn đưa đến một cách nhìn nhận mới, góp phần làm
sáng tỏ những đặc điểm thơ ca và tài năng của các nhà thơ trào phúng nổi bật đất Nam
Kì Lục Tỉnh giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX là Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn
Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm, giúp người đọc đến gần hơn với thơ ca hiện thực trào
phúng của họ.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thơ ca hiện thực
trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ
Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Có thể nói, số lượng bài viết về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh có
số lượng khá khiêm tốn. Có ý kiến cho rằng văn học miền Nam khơng có những đóng
góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Các nhà thơ của Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn
cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX để lại một sự nghiệp cũng tương đối nhỏ, khó lịng để
tìm hiểu một cách đầy đủ và rõ nét về con người và tư tưởng của họ. Tuy nhiên, văn
học Nam Kì Lục Tỉnh bao gồm các tác giả vơ danh và hữu danh cùng với các tác phẩm
lớn nhỏ đã tạo thành một bộ phận văn học sơi nổi, có nhiều đóng góp to lớn. Theo sự

download by :


3
tìm tịi chưa đầy đủ của chúng tơi, tính cho đến thời điểm này đã có nhiều bài viết về
văn học miền Nam nói chung và thơ ca hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX – đầu thế
kỉ XX nói riêng ở nhiều thể loại: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo
luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình...
Thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ vùng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX như Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm đã

tạo ra một không khí mới cho nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, trở thành đối
tượng của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình nhưng cịn tương đối ít, những tài liệu về
các tác giả này để lại không nhiều. Theo tài liệu chúng tơi tìm được trên các trang báo
điện tử, đã có những bài viết về cuộc đời và thơ ca của các nhà thơ hiện thực trào
phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, bàn luận ở nhiều khía cạnh
khác nhau về những bài thơ đặc sắc của các nhà thơ trên. Các bài viết tuy chưa khái
quát hết tất cả các phương diện nội dung và nghệ thuật trong thơ ca hiện thực trào
phúng của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh kể trên nhưng lại là những gợi dẫn quý báu
cho hoạt động tiếp nhận của người đọc và cả hoạt động nghiên cứu, phê bình…về các
tác giả này.
Chúng tơi xin điểm qua những bài viết, các cơng trình nghiên cứu có giá trị đã
đánh giá, nhìn nhận về nhiều vấn đề trong thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ
vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Các tác giả, nhà phê bình
đã dành rất nhiều tâm huyết nghiên cứu về văn học Nam Kì Lục Tỉnh cũng như các
nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc. Qua các bài viết, các cơng trình đó, có nhiều
điều được phát hiện, được đánh giá nhận xét công phu. Cụ thể là:
 Bộ “Văn học miền Nam” của tác giả Võ Phiến, gồm 7 tập của Võ
Phiến, dù gây nên nhiều tranh cãi sôi nổi và dù mắc một số hạn chế nhất định,
vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Nó khơng những giúp người đọc
nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho
người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị
quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với ý nghĩa như thế, bộ
“Văn học miền Nam” của Võ Phiến, đặc biệt tập đầu, “Tổng quan”, đã được đón
nhận nồng nhiệt. Cuốn sách đã được tái bản nhiều lần.

download by :


4
 Cơng trình nghiên cứu “Văn học Miền Nam Lục Tỉnh” gồm 3 tập của

tác giả Nguyễn Văn Hầu. Được thực hiện đầy nỗ lực trong thời gian ông lâm
bệnh nặng, bộ khảo cứu văn học này gồm ba quyển: Miền Nam và văn học dân
gian địa phương; Văn học Hán Nôm thời khai mở và xây dựng đất mới; Văn học
Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp. Đây là cơng trình khơng thể thiếu đối
với giới nghiên cứu và người đọc muốn hiểu sâu về những nền tảng làm nên văn
hố, văn học Nam Kì Lục Tỉnh.
 “Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm”, Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn
Quảng Tuân, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh. Cơng trình nghiên cứu gồm hai phần
chính: I. Phan Văn Trị nhà thơ yêu nước; và II. Thơ Phan Văn Trị. Phải nói rằng
hai tác giả có cố gắng và nhiệt tình đi sâu vào đề tài nghiên cứu Phan Văn Trị dù
vẫn cịn nhiều sai sót cần đính chính, bổ sung.
 “Những danh sĩ miền Nam”, Hồ Sĩ Hiệp – Hoài Anh, Nxb Tổng Hợp
Tiền Giang 1990, viết về cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân văn hố miền
Nam từ lúc hình thành vùng đất Đàng Trong, thế kỷ 17 cho đến khi thực dân
Pháp đặt ách thống trị. Những danh sĩ này, người thì mang lại ánh sáng văn hố
và giáo dục, người thì xây dựng những sáng tác văn học, cơng trình nghiên cứu
lịch sử, địa dư, kinh tế, xã hội, người thì dùng ngọn bút để chiến đấu trực diện
với bọn thực dân Pháp khi chúng đặt chân xâm lược đất Nam Kì.
 “Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945”, Văn Tân,
Nxb Khoa Học Xã Hội. Cơng trình gồm 9 chương, có giá trị rất lớn đối với
những người nghiên cứu văn học, học tập và đông đảo bạn đọc ngày nay.
 Các tác phẩm viết về miền Nam của tác giả Sơn Nam: “Lịch sử khẩn
hoang miền Nam”; “Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mĩ
tục Việt Nam”; “Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam”,.... Ông đã viết nên
nhiều tác phẩm dấu ấn nên được nhiều người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông
già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Toàn bộ
các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản
quyền và xuất bản.

download by :



5
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cịn nhiều điều chưa được làm rõ, thậm chí mới chỉ
ở dưới dạng giới thiệu, tản mạn,… Đặc biệt là việc nghiên cứu về mặt nội dung và
nghệ thuật của tiếng cười trào phúng trong thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ
Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX vẫn chưa được quan tâm thích
đáng. Tuy vậy các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết đi trước lại là những gợi ý quý
giá để chúng tôi mạnh dạn đưa ra những kiến giải riêng với hy vọng góp một cách nhìn
đầy đủ hơn, tiếp tục đi sâu hơn trong việc nghiên cứu thơ ca hiện thực trào phúng của
các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, góp phần khẳng định
những đóng góp của dịng văn học hiện thực trào phúng và các nhà thơ trào phúng của
Nam Kì Lục Tỉnh cho nền văn học miền Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói
chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ ca
trào phúng mang giá trị hiện thực của các nhà thơ miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX, chú trọng đến thơ ca của bốn tác giả tiêu biểu là Phan Văn Trị,
Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài “Thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối
thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt,
Học Lạc và Nhiêu Tâm)”, luận văn khảo sát các cơng trình sưu tập, những bài viết về
thơ ca hiện thực trào phúng của các tác giả có uy tín trong nước như:
 Thơ văn trào phúng Việt Nam (Phần văn viết từ thế kỉ XIII – 1945), Vũ
Ngọc Khanh, Nxb Văn Học (Hà Nội – 1974)
 Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm, Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn
Quảng Tuân, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh
 Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945, Văn Tân, Nxb Khoa

học Xã hội
 Thơ ca trào phúng Việt Nam, Bùi Quang Huy, Nxb Đồng Nai (1996)

download by :


6
Đồng thời xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng các công trình “Văn học miền Nam” của
tác giả Võ Phiến, “Văn học Miền Nam Lục Tỉnh” gồm 3 tập của tác giả Nguyễn Văn
Hầu – nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, văn hóa và lịch sử Việt Nam, đặc biệt là
những nghiên cứu gắn với vùng đất Nam Kì, để thấy được hết bề dày lịch sử cùng sự
phát triển mạnh mẽ của văn học Việt Nam nói chung và văn học miền Nam nói riêng.
Ngồi ra, luận văn cịn tham khảo thêm một số bài đánh giá và một số bài tiểu luận về
thơ ca hiện thực trào phúng cùng những bài nghiên cứu về văn học Nam Kì Lục Tỉnh
được đăng trên các báo, tạp chí của các tác giả trong và ngoài nước.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:


Đưa đến cái nhìn khái qt về nền văn học hiện thực trào phúng của

vùng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.


Làm rõ nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh

cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.


Phân tích những nét đặc sắc của nghệ thuật hiện thực trào phúng thơ ca


Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những đặc điểm của thơ ca hiện
thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX có chứng cứ cụ
thể. Đồng thời nó còn giúp cho việc so sánh, đối chiếu các vấn đề dễ dàng và có sức
thuyết phục cao hơn.
5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Nhằm phát hiện những nét độc đáo riêng biệt của thơ ca hiện thực trào phúng
Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX so với các giai đoạn khác cũng như
sự độc đáo, riêng biệt của từng nhà thơ được khảo sát. Đặc biệt là nhìn ra được những
đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện thực trào phúng so với các dòng
văn học khác.

download by :


7
5.3. Phương pháp hệ thống – cấu trúc
Nghiên cứu về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX –
đầu thế kỉ XX nhất thiết phải đặt nó vào một hệ thống nhất định để có được một cái
nhìn đầy đủ, rành mạch, cho thấy được quá trình phát triển của nền văn học Việt Nam
nói chung và của văn học miền Nam nói riêng.
5.4. Phương pháp phân tích - tởng hợp
Để làm rõ những nét độc đáo cả về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện thực
trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX và có cái nhìn khái qt
về q trình phát triển của thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh. Phân tích cụ

thể đặc trưng của từng nhà thơ được khảo sát cũng như tổng hợp để tìm ra những nét
chung của các nhà thơ hiện thực trào phúng được nhắc đến. Từ đó có cơ sở nêu những
nét khái quát về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX.
5.5. Phương pháp tiếp cận nguồn gốc lịch sử
Mỗi giai đoạn lịch sử của xã hội đều ảnh hưởng sâu sắc đến văn học. Văn
học là sự phản ánh chân thực đời sống xã hội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về thơ ca
hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX cần chú ý đến
bối cảnh lịch sử để có cái nhìn đa chiều, sâu sắc và chính xác hơn về giá trị của văn
học trong giai đoạn này.
6. Đóng góp của luận văn
Thơng qua việc tìm hiểu đề tài “Thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục
Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ Phan Văn Trị, Huỳnh
Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm)”, chúng tơi mong muốn thể hiện một cách nhìn
tồn diện và có hệ thống về nội dung và nghệ thuật trong thơ ca hiện thực trào phúng
Nam Kì Lục Tỉnh để thấy được vai trị và giá trị của nó trong nền văn học Việt Nam.
Qua đó thấy được sức mạnh của tiếng cười trào phúng trong việc phản ánh hiện thực
xã hội buổi giao thời ở miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Đồng thời, thông qua đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn cung cấp những
thơng tin có giá trị về thân thế, sự nghiệp cũng như những nét độc đáo trong nội dung
và nghệ thuật của các tác phẩm thơ ca hiện thực trào phúng của những nhà thơ trào

download by :


8
phúng xuất sắc ở Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này là Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt,
Học Lạc và Nhiêu Tâm. Từ đó có được những gợi ý thích đáng, những kiến thức bổ
ích giúp người đọc dễ dàng khám phá và đến gần, yêu mến hơn với thơ ca hiện thực
trào phúng của những tác giả này.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương này đưa đến cái nhìn khái quát về lịch sử và nền văn học Nam Kì Lục
Tỉnh cũng như một số nét tiêu biểu về các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì giai đoạn
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Chương 2: Nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Chương này phân tích để làm rõ nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam
Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Chương 3: Nghệ thuật thơ hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế
kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Chương này đi vào phân tích những nét đặc sắc của nghệ thuật hiện thực trào
phúng thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

download by :


9

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nam Kì Lục Tỉnh – vùng đất mới – giao điểm hội tụ của các luồng văn hóa
Đơng – Tây
1.1.1. Q trình hình thành Nam Kì Lục Tỉnh
Vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh (trước đây gọi là Đồng Nai - Gia Định) đã được khai
phá từ rất lâu đời. Con người có mặt và bắt đầu khai phá vùng đất này đã xuất hiện
cách nay khoảng 2500 đến 4000 năm. Theo kết quả khảo cổ học, hồi ấy phần lớn đồng
bằng sông Cửu Long vẫn cịn chìm dưới nước. Đến thế kỉ thứ V trước Công nguyên,
vùng đồng bằng này mới bắt đầu nổi lên, các vịnh biển được lấp đầy dần cùng với sự

rút lui của nước biển, để lộ ra một vùng đất hoang vu nhưng đầy tiềm năng để phát
triển về sau này. Nơi đây chỉ toàn là rừng rậm hoang vu, sình lầy, nước đọng cịn nhiều
thú dữ: cọp, beo, voi, heo rừng, cá sấu, rắn,… đất Nam Bộ lúc bấy giờ vẫn còn là một
vùng đất hoang vu với những bụi rậm của khu rừng thấp... tiếng chim hót và thú vật
kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, khơng có một gốc cây
nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ
họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài
hàng trăm dặm…. Cuộc sống hoàn toàn hoang dã. Suốt hơn 600 năm sống chung với
lũ, những cư dân đầu tiên của vùng châu thổ này đã dũng mãnh và tài năng tạo dựng
nên nền văn hóa Ĩc Eo mà lịch sử sau này khơng thơi ca ngợi là nền văn minh phát
triển sớm nhất và rực rỡ nhất Đông Nam Á. Sau trận biển tiến xảy ra vào thế kỉ VI,
toàn bộ vùng châu thổ chìm trong nước biển và bị lãng quên. Phải đến thế kỉ XIII, tộc
người Khmer của nước Chân Lạp mới bắt đầu có mặt nơi đây và vực dậy tiềm năng
của vùng đất này tạo nên sự thịnh đạt của đế chế Ăng – Co cổ và trải qua mấy trăm
năm tồn tại của vương quốc Chân Lạp. Do điều kiện tự nhiên khó khăn, q trình
chinh phục vùng đất phía nam này của những lớp cư dân đến trước tiến triển rất chậm
chạp.
Đến thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
sâu sắc. Cuộc nội chiến bất phân thắng bại giữa hai dòng họ Trịnh – Nguyễn kéo dài
gần hai thế kỉ với những trận đánh ác liệt đã khiến cho dân chúng vào cảnh lầm than.
Để phục vụ cho những nhu cầu của cuộc chiến tranh giành quyền lực ấy cũng như để

download by :


10
thỏa mãn lối sống xa hoa, trụy lạc của mình, các tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn
đã thi nhau vơ vét của cải, nhân lực của dân chúng, tạo nên cảnh đói rét khắp nơi trong
nhân dân. Trước sự bóc lột, vơ vét của bọn phong kiến ở xứ Đàng Trong, nhân dân chỉ
có hai con đường để lựa chọn: một là đứng lên chống lại, hai là rời bỏ quê hương xứ

sở để đi tìm đất sống. Những người đó đã băng đèo lội suối, vượt mọi nguy nan để tìm
đến vùng đất xa xơi và hoang vu ở lưu vực sông Đồng Nai – Cửu Long.
Chiến tranh dai dẳng gieo tai họa cho nhân dân không kể xiết cả ở Đàng Trong
và Đàng Ngoài. Nhân dân Đàng Trong sống ở vùng đất đai chật hẹp giữa dãy Trường
Sơn và biển Đơng, đồng ruộng ít lại kém màu mỡ, quanh năm nắng gió, thiên tai lũ lụt
bủa vây, cộng thêm thiên tai, mất mùa, bệnh dịch,....cuộc sống không đủ no lại còn
phải phục dịch chiến tranh kéo dài về tiền của cũng như con người vơ cùng khốn khổ.
Vì sinh kế, muốn lánh xa nơi chiến tuyến, lánh nạn đi phu, đi lính, nhân dân Đàng
Trong tìm cách trèo đèo, vượt biển, lội suối, băng rừng đi vào đất Chân Lạp vùng Mơ
Xồi (Bà Rịa ngày nay) và vùng Đồng Nai làm ăn, tìm nơi đất rộng, người thưa, đất
hoang còn nhiều, khai phá những vùng đất màu mỡ. Tiếng lành đồn xa, những người
làm ăn khá truyền tai nhau làm tăng thêm dân số cho vùng đất này. Lúc này, chúa
Nguyễn đã chiếm đất Chiêm Thành. Như vậy, lớp người đầu tiên tiến vào vùng Đồng
Nai – Cửu Long để kiếm sống và an thân trước hết là những người nơng dân Trung,
Bắc vì bị bóc lột và áp bức mà bần cùng lưu tán, đồng thời cũng để tránh cuộc phân
tranh đẫm máu.
Từ thế kỉ XVI, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc do sự can thiệp của Xiêm
và dần bước vào thời kì suy vong, khơng có điều kiện quan tâm đến vùng đất cịn ngập
nước ở phía Nam, vốn là địa phận của vương quốc Phù Nam và trên thực tế đã không
đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng
đã vào vùng Mơ Xồi, Đồng Nai (miền Đơng Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng
sinh sống.
Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả công nữ Ngọc Vạn cho quốc
vương của Chân Lạp là Chey Chatta II làm hoàng hậu của vương triều Chân Lạp.
Chính vì vậy, lưu dân Việt đã theo chân Ngọc Vạn công nữ vào Nam lập nghiệp càng
ngày đông. Về phương diện ngoại giao, cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn với vua

download by :



11
Chey Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ ngoại giao giữa hai dân tộc Việt Khmer. Về phương diện xã hội nó cũng được xem như là một sự mở đầu cho công
cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam của dân tộc Việt. Đối với Chân Lạp, việc kết
thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất
mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm.
Năm 1623, chúa Nguyễn bấy giờ là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần mượn đất vua
Chân Lạp để làm nơi thu thuế quan (ở Prei Nokor (tức Sài Gòn) và khu dinh điền Mơ
Xồi (tức Bà Rịa)), đánh dấu sự can thiệp đầu tiên của chúa Nguyễn vào nội trị của
nước Chân Lạp. Khi Chân Lạp xảy ra sự kiện tranh giành ngôi báu, dịng chính thống
xin chúa Nguyễn viện trợ. Chúa Nguyễn sai 3000 quân vào giúp đỡ bắt được vua là
Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình sau thả về nước, bắt phải cống triều thường
niên và ra điều kiện phải bênh vực người Việt sang làm ăn sinh sống. Từ đó, uy thế
của chúa Nguyễn tăng lên. Là người có tầm nhìn xa trơng rộng, chúa Nguyễn đã chú ý
để mắt đến vùng đất này với mong muốn tăng cường khả năng của mình trong hồn
cảnh chiến tranh với Đàng Ngồi đang diễn ra. Vì thế, chúa Nguyễn sai người từ
Quảng Bình đến Bình Thuận vào khai thác vùng đất mới này.
Trong lịch sử khai thác đất Đồng Nai, phần đóng góp của người Hoa ở đây rất
quan trọng. Năm 1697, một nhóm quan binh ở Quảng Tây sau thời gian chiến đấu
chống lại chế độ của nhà Mãn Thanh khơng có kết quả đã cùng gia đình gồm 9000
người nhất quyết không thần phục nhà Thanh chạy sang Quảng Nam xin phục tùng
chúa Nguyễn. Hiền Vương thấy lực lượng to lớn ấy ở trong nội bộ đất của mình khơng
lợi, cũng vừa lúc đang có ý định khai thác vùng đất Chân Lạp nên đã nói với vua Chân
Lạp cho lực lượng Hoa kiều ấy theo thuyền vào sống nhờ trên vùng đất phía nam.
Chúa Nguyễn khơn khéo ngoại giao đã làm một việc mà nhằm vào hai điều lợi: vừa
tránh nạn nuôi ong tay áo, vừa triển khai công việc khai thác đất mới một cách dễ
dàng.
Đất lành chim đậu, những con người di dân từ miền Bắc và Trung cùng với các
thành phần khác đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, gặp được vùng đất mới, phì
nhiêu cộng với khí hậu thuận hịa, địa hình thuận lợi, bằng phẳng, hệ thống sông rạch
chằng chịt, nên định cư ngày càng đơng. Chính sự cần cù, nhẫn nại và óc sáng tạo


download by :


12
không ngừng của những bậc tiền nhân đã biến vùng đất hoang vu, đầy sình lầy thành
vùng màu mỡ, trù phú. Cộng đồng nơi đây đã tổ chức cuộc sống trong tinh thần tương
thân tương ái, tạo nên những vùng cư trú ổn định, phát triển vững bền. Cuộc sống cộng
đồng xã hội bắt đầu thành hình và ngày càng phát triển rực rỡ, là nơi quy tụ của rất
nhiều dân tộc.
Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển Nam Kì Lục Tỉnh là lịch sử của gần
400 năm gian khổ khẩn hoang lập làng của những nhóm lưu dân từ Đàng Trong cũng
như miền Bắc vượt đèo lội suối xi vào Nam, của những nhóm lưu dân Trung Hoa
bài Mãn, phục Minh và sự cộng cư của các thổ dân bản địa đã sinh sống từ lâu đời. Sự
hình thành và phát triển ấy tóm lại được tác động bởi ba yếu tố chính trị: sự tan rã của
chính quyền Cao Miên, nhu cầu của một cuộc nội chiến của hai dịng họ ở nước ta, và
sự đơ hộ của Pháp. Nam Kì Lục Tỉnh là vùng đất mới trải dài từ miền nam Phan Thiết
đến mũi Cà Mau, mang nhiều sắc thái đặc thù mà từ văn hóa đến tâm tình lẫn tâm tính
có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở Đàng Ngoài.
1.1.2. Con người Nam Kì Lục Tỉnh
Gần 300 năm nay, Nam Kì ln là vùng đất có sức hút mạnh mẽ đối với dân cư
của cả nước. Con người đến với vùng đất này đã tơn tạo cho mình những giá trị đặc
sắc về văn hóa, lịch sử...Trong q trình khai phá vùng đất mới, họ đã thích nghi với
điều kiện của cuộc sống, đồng thời với nó, họ cải biên, sửa đổi, làm cho thiên nhiên
quy phục mình. Từ đó, hình thành nên những đặc điểm riêng, những nét tính cách rất
riêng của con người vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh. Con người nơi đây mang những đặc
trưng khơng thể hịa lẫn với những vùng khác của tổ quốc.
a. Các thành phần dân cư
Từ thế kỉ XVII, trên vùng đất Nam Kì cũng như vùng châu thổ sông Cửu Long
bắt đầu xuất hiện những lớp cư dân mới. Lớp người tiên phong tiến vào vùng Nam Kì

Lục Tỉnh để kiếm sống và an phận thủ thường đó là những người nơng dân và thợ thủ
cơng nghèo khó lâm vào bước đường cùng của miền Trung vì bị bóc lột và áp bức
nặng nề mà phải rời bỏ quê hương làng mạc, đồng thời cũng là để tránh cuộc phân
tranh đẫm máu giữa hai dòng họ Trịnh, Nguyễn. Số người này chiếm số lượng đông
đảo nhất và cũng là lực lượng di cư chủ yếu trong thời kì đầu hình thành xứ sở. Tiến

download by :


13
trình nhập cư của người Việt từ ngồi Bắc và Trung vào đất Đồng Nai – Gia Định diễn
ra liên tục với mức độ ngày càng gay gắt của cuộc nội chiến phân tranh giữa hai tập
đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn cũng như của mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp địa chủ
phong kiến và nơng dân. Tiến trình nhập cư này có lúc ồ ạt, có lúc lẻ tẻ.
Từ cuối thế kỉ XVII trở về sau, họ Nguyễn xây dựng và cũng cố chính quyền, lần
luợt xác lập quyền cai trị của mình lên vùng đất mới. Lúc này, các chúa Nguyễn chủ
trương chiêu mộ lưu dân vào Nam khai hoang. Lực lượng di cư được bổ sung thêm
bằng những thành phần khác. Đó là những người có tiền của, có quyền thế nên đã
chiêu mộ dân nghèo ở miền Trung đi vào Nam khẩn hoang vỡ đất theo lời kêu gọi của
chính quyền. Thứ nữa là những lính tráng cùng với những tội đồ bị triều đình bắt buộc
phải vào vùng đất lúc bấy giờ vẫn còn hoang dã với rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, rắn
rết, chứa đầy hiểm nguy để vừa bảo vệ biên cương, giữ gìn an ninh, vửa mở ruộng, lập
vườn chung quanh điểm quân sự, phát triển kinh tế.
Trong lớp người di cư đến vùng đất Nam Kì cuối thế kỉ XVII cịn có một lực
lượng đơng đảo người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung
Quốc) mà phần đông là quan quân nhà Minh không chịu khuất phục triều đình Mãn
Thanh nên đã kéo đến Việt Nam xin chúa Nguyễn cho tị nạn và làm ăn sinh sống.
Nhóm người Hoa này chia làm hai nhóm nhỏ: nhóm do Dương Ngạn Địch và Trần
Thượng Xuyên cầm đầu có khoảng 3000 người đến Mỹ Tho và Biên Hịa; nhóm do
Mạc Cửu thống lĩnh có khoảng 200 người đến Hà Tiên. Từ thế kỉ XVII trở về sau lần

lượt nhiều người dân nghèo thuộc các tỉnh ven bờ biển đông nam Trung Quốc cũng đã
dắt díu nhau nhập cư vào đồng bằng sông Cửu Long làm ăn sinh sống ngày càng đông
hơn. Giữa thế kỉ XVIII có thêm một số lượng lớn người Chăm vốn là những người tản
cư lên Chân Lạp cuối thế kỉ XVII để tránh chiến tranh thì nay lại chuyển về định cư ở
vùng núi Bà Đen.
Ngoài ba thành phần người Việt, người Hoa và người Chăm là thành phần dân cư
chính vừa kể trên, trong lớp dân cư mới xuất hiện ở đất Nam Kì trong các thế kỉ XVII,
XVIII cịn có một số người đến từ các quốc gia khác nhau như Anh, Pháp, Ma Cao,
Giava, Ấn Độ,...Họ sống lẫn lộn vào nhau, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào
theo tục nước ấy.

download by :


14
Mỗi dân tộc đều có một sắc thái văn hóa riêng của mình, cống hiến phong phú
cho văn hóa chung của khu vực. Có thể nói, Nam Kì là vùng đất có văn hóa phong phú
nhất cả nước. Chẳng hạn, người Khơ Me cư trú đông đảo trong các phum, sóc trên
những giồng đất cao ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu,...làm ruộng rẫy, theo Phật giao
tiểu thừa với những hình thức ca múa độc đáo. Người Chăm ở Châu Đốc phần đông
sống bằng buôn bán nhỏ, theo đạo Hồi với các phong tục rất riêng. Người Hoa làm
nghề buôn bán, thủ cơng nghiệp, làm vườn gắn với việc gìn giữ trong cộng đồng của
mình những điệu hát Tiều, Quảng, múa lân,... và những tập tục thờ quan Đế, ông
Bổn,... Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều dân tộc, từ nhiều địa phương đến, với nhiều
tơn giáo, tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển kinh tế xã hội như vậy nhưng
lại không hề là yếu tố cản trở sự đồn kết gắn bó của cộng đồng cùng sinh sống trên
vùng Nam Kì.
Như vậy cho đến cuối thế kỉ XVIII, lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt tại
miền Bắc và miền Trung đã di cư và đặt chân đến nhiều nơi trên vùng đất Nam Kì. Địa
điểm định cư và khai khẩn phân bố chưa đồng đều do điều kiện thiên nhiên khác nhau

ở các vùng. Sang thế kỉ XIX, dân số đã tăng lên rất nhiều do sinh đẻ tự nhiên và lưu
dân các miền khác tiếp tục nhập cư khai khẩn theo sự vận động của triều Nguyễn. Vì
vậy, những vùng đất trước đây hoang vắng thì nay lần lượt có người khai phá. Các
trung tâm định cư được hình thành ven sơng Đồng Nai, vùng sông Tiền, sông Hậu nối
liền thành một dải rộng lớn, liên tiếp hình thành nên một vùng đất với nhiều thành
phần dân cư. Đây là điều đáng chú ý của Nam Kì so với các vùng đất cịn lại của đất
nước.
b. Tính cách đặc trưng của con người
 Can trường, gan góc, ngang tàng
Vùng đất mới cịn hoang sơ, là nơi rừng thiêng nước độc, hùm beo, rắn rết đầy
rẫy, nó vừa khơi dậy tiềm năng khai thác dồi dào vừa là một thách thức nghiệt ngã đối
với những con người phải dấn thân. Như đã trình bày ở phần trên, những lưu dân Việt
khi vào đất Nam Kì vốn là những người nơng dân, thợ thủ cơng, những kẻ trốn lính, tù
tội do cuộc sống nghèo khổ, bức bách phải rời bỏ quê hương làng mạc dù muốn hay
không muốn. Tuy nhiên, họ cũng là những con người có đầu óc phiêu lưu mạo hiểm,

download by :


15
dám chấp nhận nguy hiểm, coi nhẹ tính mạng, thích sống ngang tàng, dám đương đầu
với thử thách, khó khăn, muốn phá bỏ mọi lề thói ràng buộc nên đã chọn vùng đất mới
để an cư lạc nghiệp. Cũng có thể do hồn cảnh xơ đẩy khiến họ khơng có sự lựa chọn
nào nên đành phải “liều”, nhưng dù thế nào cũng có thể dễ dàng nhận thấy, chính việc
mở mang vùng đất mới đã tôi luyện cho họ trở thành những con người can trường, gan
góc, khơng chịu lùi bước trước những trở ngại của thiên tai địch họa.
Để có được những mảnh đất màu mỡ những lưu dân đã phải đổ mồ hôi, sôi nước
mắt khắc phục muôn vàn khó khăn trong nhiều năm tháng. Đất Nam Kì vào thế kỉ
XVII, XVIII là rừng hoang cỏ rậm, trũng thấp, sình lầy nên những lưu dân ở đây ngồi
việc đương đầu với những khắc nghiệt của thiên nhiên, còn phài đối măt với các loài

thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác khác. Những con
người đến đây phải chấp nhận mạo hiểm, đó là những con người bị buộc phải liều
mạng, vì thế, họ coi tính mạng nhẹ tựa lơng hồng, tỏ ra dũng cảm, gan góc, khơng nề
hà nguy hiểm, khó khăn. Đây cũng là đức tính mà việc khai phá vùng đất mới đào
luyện nên.
Cảnh tượng ban đầu ấy trực tiếp tác động vào tâm tư, tình cảm của những con
người mới, thể hiện rất sinh động trong những câu ca dao, dân ca Nam Kì khi xưa:
Chiều chiều én liệng trên trời
Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi trên cây
Hay:
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Khi người còn thưa thớt, xung quanh là những bầy thú rừng, cảnh u tịch hoang
dã, con người không thể tránh khỏi những cảm giác kinh hãi, ghê sợ trước cảnh vật
cịn hết sức xa lạ với mình:
Tới đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh
Hoặc:
Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh

download by :


16
Hay:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
Đó chính là những điều dễ dàng tìm thấy ở thiên nhiên đầy bí ẩn của Nam Kì
buổi đầu khai hoang mở cõi. Dù chứa đựng rất nhiều yếu tố thuận lợi nhưng nó cũng

bày ra trước mắt con người vơ vàn những khó khăn khơng dễ vượt qua. Vì thế, những
con người nơi đây đã được tơi luyện thành những con người gan góc, mạnh mẽ, khơng
chịu lùi bước trước những trở ngại thiên nhiên ấy cũng như không chịu luồn cúi trước
sức mạnh phi nghĩa sau này:
Trời sanh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió, chiều ai khơng chiều
 Đồn kết, tương trợ
Khơng phải thiên nhiên hào phóng dành cho những cư dân mới mọi thứ cần thiết
cho cuộc sống. Những người khai phá vùng Nam Kì khơng được may mắn kế thừa di
sản vật chất của cha ông để lại. Từ môi trường hoang dã họ đã bắt đầu cái mới, tự bản
thân họ phải phấn đấu rất cam go để cải tạo thiên nhiên. Nó là một cuộc chiến đấu cực
kì gian khổ từ việc chống lại thú dữ cho đến khắc phục bệnh tật, đối phó với các hiện
tượng thiên nhiên mà con người chưa thể lí giải, chưa thể nắm bắt được quy luật. Cuộc
chiến này đòi hỏi một tinh thần kiên trì và một ý thức đồn kết rộng rãi trong cộng
đồng dân cư mới để tạo ra sức mạnh cộng đồng, chiến thắng thiên nhiên, làm chủ vùng
đất đầy tiềm năng. Chính khí hậu khắc nghiệt, đầy rẫy thú dữ, rắn rết, muỗi mịng,... và
vơ số những hiểm nguy chờ chực nên những người lưu dân không thể sống đơn độc.
Là những người đi tiên phong trong công cuộc khai hoang mở đất vùng Nam Kì,
người dân ở đây là những con người dũng cảm, dám chấp nhận và đương đầu với khó
khăn thử thách. Tuy nhiên, sức mạnh của cộng đồng là một điều vô cùng quan trọng.
Trước đây, họ đã từng sống với nhau trong thôn bản, làng xóm thì nay, họ vẫn giữ ý
thức cộng đồng, tương thân tương ái. Họ nhanh chóng kết thành chịm xóm để dựa vào
nhau mà làm ăn sinh sống, đoàn kết chung tay chống lại những khó khăn, trắc trở nơi
đất mới. Trừ một ít người có tiền của, quyền thế chiêu mộ dân nghèo đi khẩn hoang để
làm giàu thêm cho mình, những người dân nghèo đi vào đây là những người liều mình

download by :


17

đi tìm đất sống nên cùng với truyền thống ngàn đời “nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng” của dân tộc, nơi đây họ lại càng yêu
thương, đùm bọc nhau, giúp nhau tạo dựng cuộc sống, kết nghĩa với nhau thề nguyền
sống chết, thương yêu nhau một cách lạ lùng.
 Trọng nghĩa, khinh tài
Người Nam Kì là những người từ nơi bất cơng, vốn đã xa lánh sự bất công, đàn áp
nên họ rất nhạy với điều trái đạo lí, trái lương tâm, ủng hộ những người hào hiệp. Là
những con người lâm vào bế tắc, đi tìm con đường sống nơi miền xa đất lạ, tìm cái
sống trong mn vàn cái chết đang chờ sẵn cho nên con người vùng đất mới này rất
chuộng nghĩa khí, q trọng tình cảm hơn vật chất, coi khinh tiền tài như cỏ rác ven
đường mà trọng tình cảm, trọng nghĩa khí. Họ có quan niệm rõ ràng về cuộc sống: tiền
tài, danh lợi, giàu sang, phú quý cũng như một đám mây bay, cuộc đời chỉ có: nhân,
nghĩa và đạo đức làm trọng. Ta thấy nổi bật lên ở những con người ấy là tính cách rất
Nam Kì: trọng nghĩa, khinh tài, hào hiệp nghĩa khí, sống rất điệu nghệ, sẵn sàng bất
chấp hiểm nguy để làm trịn đạo nghĩa:
Dấn mình vơ chốn chơng gai
Kề lưng cõng bạn ra ngồi thốt thân.
Lao xao song bủa dưới lùm,
Thị tay với bạn chết chìm cũng ưng.
Những tính cách này do đặc tính của vùng đất tạo nên. Vùng đất Lục Tỉnh thời
khẩn hoang với thiên nhiên hoang vu, khắc nghiệt khiến con người phải biết đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau. Điều đó lí giải cho sự xuất hiện tinh thần đầy nghĩa khí của người
dân nơi đây.
Thấy việc nghĩa, việc chướng tai gai mắt mà không ra tay cứu giúp là kẻ xấu xa,
khơng anh hùng. Vì thế, những kẻ bất nhân, bất nghĩa khó có thể tồn tại trên vùng đất
này. Bênh vực kẻ yếu, giúp đỡ kẻ sa cơ lỡ vận, chống lại cường hào, ác bá, đấu tranh
với việc bất nhân bất nghĩa, các thế lực phi nghĩa...là những việc nghĩa mà người Nam
Kì Lục Tỉnh sẵn sàng lăn xả. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau quen
tạo thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng tình


download by :


18
nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt nhục nhã là bị loại
trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi.
 Bộc trực, thẳng thắn
Trong nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng của người Nam Kì Lục Tỉnh, chúng
ta cịn thấy một đặc trưng rất nổi bật nữa đó là sự bộc trực, thẳng thắn, ít rào trước đón
sau, ít văn chương hoa mỹ mà chân chất, thật thà, nghĩ sao nói vậy, “nói thẳng ruột
ngựa”, khơng thích che đậy giấu giếm, “ruột để ngồi da”.
Điều này có ngun nhân của nó. Những con người đầu tiên đặt chân đến Nam
Kì phần lớn là những người nông dân chân lấm tay bùn, những người lính, thợ thủ
cơng. Quanh năm vất vả, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn cứ nghèo khổ, lại thêm
chiến tranh liên miên nên cái chữ cái nghĩa của họ khơng có, hoặc có cũng rất ít ỏi.
Khi vào vùng đất mới, công việc đầu tiên là dồn mọi công sức để giành giật miếng
cơm manh áo, chống lại thiên tai, địch họa, hiểm nguy từ môi trường sinh sống. Đồng
thời, giai cấp phong kiến lãnh đạo trước đó cũng như chính quyền thực dân sau này
cũng không hề chú trọng việc mở trường, truyền bá văn hóa cho nhân dân. Điều này
góp phần hình thành nên tính cách của nhiều thế hệ người dân Nam Kì, trước sau, họ
vẫn chỉ là những người nông dân chất phác, ít học, nói năng bộc trực, mộc mạc mà
khơng hề rào trước đón sau, có sao nói vậy, khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lịn, kém
thủ đoạn, giận thì nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sơng
nước, đồng ruộng bao la.
Nét tính cách này trải qua bao thế hệ, là điểm nhấn trong quan hệ giữa người với
người trên vùng đất Nam Kì. Khi nói chuyện với nhau, họ ln vui vẻ, tạo cảm giác
thân thiện, gần gũi không câu nệ ngôi thứ, giai cấp...Chuyện tốt, đúng đắn thì tiếp thu
tích cực cịn những đều chướng tai gai mắt, bất bình, khơng vừa ý thì sắn sàng đốp
chát, nói ngay mà khơng hề vịng vo, sợ mất lịng người nói.
 Phóng khống, cởi mở, hiếu khách

Một đặc trưng tính cách nữa rất dễ nhìn ra ở những con người trên vùng đất Lục
Tỉnh là tính phóng khống, cởi mở và vơ cùng hiếu khách. Người dân nơi đây khơng
hề có sự câu nệ, chấp nhặt, cố chấp. Họ khơng thích sự ràng buộc trong bất cứ lĩnh
vực nào của đời sống, cả vật chất lẫn tinh thần. Lí tưởng của họ khơng bị bó hẹp trong

download by :


19
những gian nhà, sân gạch, hàng tre. Họ là những con người dám vượt mọi hiểm nguy
để ra đi tìm đến vùng đất mới với hi vọng cuộc sống tươi sáng hơn. Vì thế, họ sẳn sàng
bỏ lại mồ mả tổ tiên, quê cha đất tổ, quê hương bản quán để tìm cho mình một nơi có
thể sống một cuộc đời tự do, thoải mái, khoáng đạt.
Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt
học được bản chất hiếu khách của hai sắc tộc nầy. Bản chất hiếu khách còn là một nhu
cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Ở đây, mỗi khi có khách đến nhà thì
ln được chào đón bằng tấm lịng chân thành của mình, chủ nhà là những người thật
vui tính, những người xuề xịa, cởi mở, đàm đạo phóng khống tự do, lắm lúc có phần
lộn xộn, khơng xếp đặt, khơng câu nệ lễ nghi.
Sở dĩ người Nam Kì có tính cách này là do chịu ảnh hưởng của quá trình khai
phá đất đai. Trước những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống
có nhau, tương trợ nhau. Nơi hẻo lánh, xa xôi, những con người tha phương lập nghiệp
luôn cảm thấy cô độc, lẽ loi trước sự bao la, hùng vĩ của thiên nhiên, vì thế, họ ln
tìm kiếm hơi ấp từ những con người cùng cảnh ngộ, kể cho nhau nghe những niềm
vui, nỗi buồn. Thêm nữa, cuộc sống nơi vùng đất mới được thiên nhiên ưu đãi, Nam
Kì có đất rộng, người thưa, mưa thuận gió hịa, ruộng lúa đầy đồng, cá tôm đầy sông
rạch, con người không phải bon chen như những nơi đất chật người đơng, quanh năm
khắc nghiệt nên tạo cho họ có đời sống bình dị, tánh tình hiền hịa, khơng so đo vật
chất, sống rộng rãi, cởi mở, hào hiệp và hiếu khách hơn những vùng khác.
Qua việc tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Nam Kì cùng

với tính cách của con người nơi đây, chúng ta có thể tổng kết mấy nét lớn về vùng đất
đặc biệt này. Thứ nhất, Nam Kì Lục Tỉnh là một vùng đất mới, nó có một vị trí mở,
thống và động. Vì thế, nơi đây chính là giao điểm hội tụ của các luồng văn hóa Đơng
- Tây, là nơi đầu tiên diễn ra những thay đổi cũng như ảnh hường từ bên ngồi vào đất
nước ta. Đồng thời nó cũng là vùng đất giao lưu, hội nhập của rất nhiều dân tộc, tín
ngưỡng khác nhau, tạo nên sự đa dạng về đời sống xã hội, tinh thần trong khu vực, với
những dấu ấn sâu đậm trong con người.
Thứ hai, sống trong một mơi trường có bề dày lịch sử, cộng với sự đa văn hóa
như vậy, con người Nam Kì có những nét cá tính rất riêng khơng lẫn với con người

download by :


×